Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁCLÊNIN MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.43 KB, 24 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Họ và tên học viên: Ngô Hồng Vượng
Mã số học viên: AF210409
Lớp: A07
Khóa học: K72

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
NỘI DUNG................................................................................................................... 3
1. BẢN CHẤT CỦA KINH TỂ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM......................................................................................... 3
1.1. Điều kiện hình thành kinh tế thị trường....................................................... 3
1.2. Các trình độ phát triển của kinh tế thị trường.............................................. 4
1.3. Một số mơ hình kinh tể thị trường trên thế giới ........................................... 8
1.4. Bối cảnh hình thành và bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã
hộỉ chủ nghĩa ở Việt Nam..................................................................................... 9
1.5. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ................................................................................................... 10
2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ


HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .................................................................... 13
2.1. Đặc trưng về sở hữu và thành phần kinh tế ............................................... 13
2.2. Đặc trưng về cơ chế vận hành..................................................................... 13
2.3. Đặc trưng về phân phối ............................................................................... 14
3. ĐIỀU KIỆN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TỂ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .............. 14
3.1. Điều kiện....................................................................................................... 15
3.2. Thực trạng .................................................................................................... 16
3.3. Giải pháp ...................................................................................................... 18
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 22


1

LỜI MỞ ĐẦU
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của
lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao
hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền
kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang
cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị trường phải
phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Đây là một kết luận lý luận quan trọng. Nó khái qt q trình phát
triển của lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định là một
nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường
thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường.
Sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự nỗ lực sáng
tạo của quần chúng, các nghành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng
hoảng, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động

thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh,
chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước,
đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hoá, bộ mặt kinh tế xã hội thay da đổi thịt
từng ngày, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ nét.
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp
lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII,
Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp
tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng
bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”. “Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo
hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với


2

yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thốt khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế
khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt
lõi thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải

phát triển kinh tế thị trường, mục đích phát triển kinh tế thị trường là gì,
những đặc điểm và thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta... Vì vậy em đã chọn đề tài “Một số vấn đề kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”


3

NỘI DUNG
1. BẢN CHẤT CỦA KINH TỂ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tể hàng hóa, trong
đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường.
Các chủ thể tham gia trong nền kinh tế chịu sự tác động của các quy luật thị
trường và hướng tới tìm kiếm mục tiêu lợi nhuận, lợi ích.
1.1. Điều kiện hình thành kinh tế thị trường
Một là, phát triển mạnh mẽ quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Kinh tế thị trường ra đời trên cơ sở nền kinh tế hàng hóa ngày càng
phát triển. Khi các quan hệ trao đổi gắn liền với các phạm trù thị trường, hàng
hóa, tiền tệ được mở rộng và trở thành phổ biến, bao trùm do sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã đưa nền kinh tế phát triển sang một giai
đoạn cao hơn, đó là nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa giản đơn, lực lượng sản xuất
cùng các quan hệ kinh tế khác ở trình độ lạc hậu, muốn thúc đẩy và mở rộng
quan hệ bn bán, trao đổi hàng hóa trong xã hội thì vấn đề quan trọng trước
tiên cần giải quyết là quan hệ sở hữu ruộng đất. Lối sở hữu ruộng đất phong
kiến ngự trị lâu đời trong lịch sử đã trở nên mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với
sự phát triển của thương nghiệp và gây nên sức ép lớn về sự gia tăng dân số,
đòi hỏi cần phải thay đổi hoặc phá bỏ; trên cơ sở đó quan hệ kinh tế thị trường
được hình thành và phát triển.

Hai là, tiến hành cơng nghiệp hóa nền kỉnh tế.
Sự chuyển biến từ một nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế
thị trường được quyết định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tiến
hành cơng nghiệp hóa nhằm đưa lực lượng sản xuất phát triển từ trình độ thủ
công, lạc hậu đến nền kinh tế công nghiệp, hiện đại là bước phát triển tất yếu
của các quốc gia muốn có nền kinh tế thị trường phát triển.
Ba là, mở cửa với thế giới bên ngoài.
Mở rộng hợp tác kinh tế, đa dạng hóa thị trường quốc tế là kết quả tất


4

yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Thị trường được mở rộng sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và
phân cơng lao động. Q trình phát triển kinh tế thị trường thế giới không
ngừng gắn kết các nền kinh tế giữa các quốc gia, tùy thuộc lẫn nhau như một
xu hướng tất yếu. Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ
hiện nay, các nước cịn ở trình độ kinh tế lạc hậu cần sớm chủ động và tích
cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới để tìm cho mình cơ hội phát triển.
1.2. Các trình độ phát triển của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường cổ điển
Kinh tế thị trường cổ điển phát triển nhanh từ thế kỷ XVII đến cuối thế
kỷ XIX ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu. Ở trình độ này, Nhà nước khơng
can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi
cho sự tự do cạnh tranh hoạt động. Các chủ thể trong nền kinh tế vận động
theo xu hướng chung là chạy theo lợi nhuận đơn thuần.
Kinh tế thị trường hiện đại
Trình độ phát triển hiện đại của kinh tế thị trường được đánh dấu từ
khoảng thời gian giữa thế kỷ XX đến nay. Đó là trình độ kinh tế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước. Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường hiện đại

bao có thể được nêu ra cụ thể:
Thứ nhất, đa sở hữu, đa thành phần kinh tế.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau khi tham gia thị
trường được tự chủ sản xuất kinh doanh, hoạt động theo luật pháp. Các chủ
thể tự chủ về tài chính, tự tạo lập nguồn vốn, chủ động nâng cao hiệu quả
trong việc sử dụng, quản lý vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh (lỗ, lãi); tự chủ trong việc lựa chọn các lĩnh vực, ngành
nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp khơng cấm; tự chủ lựa chọn hình thức
sở hữu và mơ hình tổ chức sản xuất kinh doanh, do đó tạo cho nền kinh tế thị
trường sự đa dạng mô hinh sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh tế vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh hướng đến mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, lợi ích. Sự hợp
tác của các chủ thể trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở khai thác những tiềm


5

năng, lợi thế của nhau để tăng tiềm lực kinh tế, nâng cao vị thế trên thương
trường và tạo ra chuỗi liên kết cho sự phát triển bền vững. Sự hợp tác có thể
trong lĩnh vực sản xuất tạo chuỗi giá trị hàng hóa; chun giao cơng nghệ;
chuyển nhượng bản quyền, thương hiệu; hợp tác trong thương mại để mở thị
trường tiêu thụ hàng hóa.
Bên cạnh sự hợp tác là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các chủ
thể trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị
trường. Sự cạnh tranh có thể là các đối thủ cùng sản xuất kinh doanh một
ngành hàng, có thể khác ngành hàng để tìm kiếm những yếu tố đầu vào hoặc
để mở rộng thị phần nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Trong q trình cạnh tranh,
các đối thủ có thể sử dụng các biện pháp như: đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh để tăng năng suất lao động, nâng
cao chất lượng hàng hỏa, giảm giá thành sản phẩm; nghiên cứu và cải tiến tạo
ra sản phẩm mới v.v.
Thứ hai, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của mọi hoạt động

sản xuất kinh doanh; hoạt động sản xuất kinh doanh phải xuất phát từ nhu cầu
của thị trường và hướng tới phục vụ thị trường.
Để đáp ứng yêu cầu của thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh phải
căn cứ vào nhu cầu thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh phù hợp nhằm làm cho giá trị cá biệt
thấp hơn giả trị thị trường. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước dựa vào xu hướng vận
động của thị trường để xây dựng kể hoạch và điều tiết nền kinh tế.
Thứ ba, cơ chế thị trường và giá cả là công cụ quan trọng để phân bổ
các nguồn lực của nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, do đó chính các quy luật
của thị trường đã tạo ra cơ chế tự điều tiết trong việc phân bổ các nguồn lực
của nền kinh tế. Chẳng hạn, khi hàng hóa sản xuất bán được giá cao trên thị
trường, thu lợi nhuận lớn thì tất yếu các nhà sản xuất sẽ mở rộng quy mơ sản
xuất, điều đó cũng có nghĩa là các nguồn lực như: vốn, nhân lực, các yếu tổ
đầu vào khác sẽ thu hút nhiều vào ngành sản xuất đó và ngược lại; hoặc quy


6

luật cung - cầu điều tiết đến việc mở rộng hay thu hẹp sản xuất (khi cung >
cầu thì thu hẹp sản xuất, khi cung < cầu phải mở rộng sản xuất), điều đó cũng
có nghĩa là quy luật cung - cầu đang tạo ra cơ chế phân bổ các yếu tố đầu vào
của sản xuất trong nền kinh tế.
Sự điều tiết của cơ chế trong nền kinh tể thị trường được thể hiện trực
tiếp thông qua giá cả. Giá cả trong nền kinh tế thị trường vừa có chức năng
thơng tin về cung - cầu thị trường, vừa có chức năng phân bổ các nguồn lực
và là một trong những công cụ cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, nên nó điều
tiết hoạt động sản xuất kinh doanh, kích thích đẩy mạnh ứng dụng khoa học
cơng nghệ tiên tiển hiện đại và phân hóa những người sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế.

Thử tư, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết trong nền kinh tế.
Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường và cơ chế thị
trường có tác động hai mặt (tích cực, tiêu cực) đến sự phát triển kinh tế - xã
hội. Vì vậy, sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế để phát huy mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Để thực hiện đưực
mục tiêu đó, Nhà nước phải thực hiện các nhiệm vụ như:
Một là, định hướng, tạo môi trường, kiểm soát và điều tiết sự phát triển
của nền kinh tế.
Sự định hướng nền kinh tế của Nhà nước được thực hiện qua việc nhà
nước xây dựng quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Trên cơ sở đó, Nhà nước đầu tư, huy động
các nguồn lực trong và ngoài nước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
như giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ khác tạo
môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển. Mặt khác, Nhà nước
tạo môi trường pháp lý thuận lợi như: hệ thống luật pháp đồng bộ, phù hợp
với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ thống các văn bản hướng dẫn, các định
chế, các chính sách phát triển kinh tế... để các chủ thể kinh tế có “sân chơi”
bình đẳng, an tồn, giảm thiểu rủi ro, tranh chấp.
Đồng thời các chiến lược, kế hoạch và hệ thống luật pháp, chính sách là


7

căn cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với nền kinh tế để
điều tiết các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng nhất định. Để nền kinh tế thị trường phát triển ổn định và bền
vững, Nhà nước chỉ can thiệp (đầu tư) vào nền kinh tế khi cần thiết; chẳng
hạn, đầu tư ở lĩnh vực công, những ngành khu vực tư nhân không thể làm,
không muốn làm hoặc không được làm (theo quy định của luật pháp).
Hai là, phân bổ các nguồn lực và phân phối lại thu nhập.

Do đặc trưng của kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ sản
xuất kinh doanh và mục tiêu hướng tới là tối đa hóa lợi nhuận nên dẫn đến sự
cạnh tranh giành giật lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực quốc gia, nên
dễ làm tổn hại và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực đó, đặc biệt tài nguyên
có khả năng bị khai thác cạn kiệt. Mặt khác, sự cạnh tranh vơ chính phủ cũng
dẫn đến sự phát triển mất cân đối, tính bất ổn trong nền kinh tể (chỉ chạy theo
những ngành, lĩnh vực có lợi nhuận cao). Vì vậy, sự điều tiết của Nhà nước là
cần thiết để đảm bảo cho các nguồn lực sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hơn
sự cân đối, ổn định, giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân.
Nên kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật
giá trị sẽ có phân hóa giàu - nghèo, những chủ thể kinh tế có những điều kiện
sản xuất kinh doanh thuận lợi, chiến thắng trong cạnh tranh sẽ thu lợi nhuận
cao. Ngược lại, những nhà sản xuất kỉnh doanh gặp cản trở, điều kiện sản xuất
kinh doanh khó khăn và thất bại trong cạnh tranh sẽ bị thua lỗ, phá sản. Sự
phân hóa giàu nghèo này nếu khơng có sự điều tiết hợp lý sẽ dẫn đển sự phân
hóa xã hội thành nhũng nhóm người đối lập nhau và làm cho mâu thuẫn xã
hội ngày càng sâu sắc hơn và đó là nguyên nhân của sự đối đầu, đối kháng,
bất ổn của xã hội. Vì vậy, điều tiết của Nhà nước qua phân phối thu nhập
nhằm làm giảm bớt sự đối kháng trong xã hội là điều cần thiết để đảm bảo
cho kinh tế phát triển ổn định.
Ba là, giãi quyết các vẩn đề xã hội, bảo vệ môi trường để đảm bảo sự
phát triển bền vững cho nền kinh tế.


8

Động cơ của các nhà sản xuất kinh doanh trong kinh tế thị trường là lợi
nhuận. Nhiều khi các doanh nghiệp không quan tâm giải quyết các vấn đề xã
hội, mơi trường. Thậm chí, vì chạy theo lợi nhuận, họ cịn là “thủ phạm” về

sự phá hủy mơi trường sinh thái. Đê giải quyết các vấn đề đó nhà nước phải
thể hiện vai trị của mình. Nhà nước là lực lượng chủ lực để tổ chức thực hiện
giải quyết các vấn đề thiên tai, bệnh dịch, thất nghiệp, môi trường; cung ứng
hàng hóa cơng cộng, các dịch vụ xã hội... để đảm bảo sự ổn định xã hội - đó là
điều kiện quan trọng cho kinh tế phát triển bền vững.
Bốn là, thúc đẩy mở cửa và hội nhập quốc tế, tham gia vào tiến trình
tồn cầu hóa.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, chỉ có như vậy mới
giúp các quốc gia có điều kiện thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngồi và từ đó khai thác tiềm năng thế
mạnh trong nước để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Với ý
nghĩa đó, Nhà nước có chức năng chủ động, tích cực thúc đẩy mở cửa, hội
nhập để nền kinh tế thị trường phát triển.
1.3. Một số mơ hình kinh tể thị trường trên thế giới
Mơ hình kinh tể thị trường tự do ở Mỹ: đề cao vai trò của chế độ sở hữu
tư nhân, tự do cá nhân. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ở mức tối
thiểu. Nhà nước với chức năng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường là bảo vệ
chế độ sở hữu tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân vận hành
thuận lợi; ổn định kinh tế vĩ mơ.
Mơ hình kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức: thừa
nhận các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường như cấu trúc nền kinh tế đa
sở hữu với sở hữu tư nhân làm nòng cốt, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường và vai trò điều tiết của nhà nước. Nhà nước tương hợp với thị trường.
Mục tiêu phát triển con người được đề cao. Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị
trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả- kinh té
mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Mơ hình kỉnh tế thị trường cộng đồng trách nhiệm (hay phối hợp) ở


9


Nhật Bản: là đề cao quan hệ phối hợp giữa nhà nước - doanh nghiệp - người
tiêu dùng; quan hệ phối hợp giữa người quản lý và người lao động tạo nên
một nỗ lực chung mang tính cộng đồng, đồng thời phối hợp, ràng buộc lẫn
nhau vào thể chế kinh tế vĩ mơ để tối đa hóa hiệu quả.
Mơ hình kỉnh tể thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển: chính phủ
rất chủ động tác động vào đời sống kinh tế - xã hội để đảm bảo sự phát triển
hài hòa các mặt kinh tế và xã hội, kết hợp thị trường tư nhân với mở rộng
phúc lợi xã hội.
Mơ hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc: đa
dạng hóa sở hữu, lấy chế độ công hữu làm chủ thể và nhiều che độ sở hữu
khác cùng phát triển; người lao động tự chọn việc làm, thị trường lao động
điều tiết việc làm; Chính phủ thúc đẩy việc làm; phân phối theo lao động là
chủ thể, nhiều hình thức phân phối khác cùng tồn tại, chú ý giải quyết vấn đề
chênh lệch thu nhập; Nhà nước kiểm sốt vĩ mơ, chức năng quản lý kinh tế
của Nhà nước chủ yếu là phục vụ chủ thể thị trường và tạo môi trường phát
triển; hệ thống luật pháp (đặc biệt là Hiến pháp) là cơ sở pháp lý và chủ đạo
của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
1.4. Bối cảnh hình thành và bản chất của kinh tế thị trường định
hướng xã hộỉ chủ nghĩa ở Việt Nam
Bồi cảnh trong nước
Trước Đổi mới (1986), mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở Việt
Nam đã phát huy vai trò lịch sử đặc biệt trong thời kỳ khôi phục, xây dựng
kinh tế đất nước và thực hiện một nhiệm vụ cách mạng to lớn là đánh thắng
chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giải phóng hồn tồn miền Nam thống nhất đất
nước.
Tuy nhiên, mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung có hạn chế, cản trở
đến sự phát triển kinh tế - xã hội về dài hạn. Việc tiếp tục kéo dài cơ chế kế
hoạch hóa tập trung khi cơng cuộc phát triển bước sang giai đoạn mới đã dẫn
đến suy kiệt động lực, đẩy nền kinh tể - xã hội rơi vào trạng thái khan hiếm,

khủng hoảng. Vì vậy, việc thực hiện chuyển đổi mơ hình kinh tế là tất u


10

khách quan.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã thực hiện đổi
mới tư duy, chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ che thị trường.
Bối cảnh quốc tế
Trong những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, mơ hình xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đơng Âu và Liên Xơ lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Mơ
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bộc lộ những hạn ché nghiêm trọng, cản
trở sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa. Để tháo
gỡ những khó khăn, các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã loay hoay
tìm nhiều biện pháp cải tổ, cải cách... Tuy vậy, cuối cùng các quốc gia đó đã
khơng thành cơng, dẫn đến sụp đổ kinh tế và mất chế độ chính trị.
Trong khi đó, xu hướng tồn cầu hóa, quốc tế hóa từ thập niên 90 của
thế kỷ XX tạo ra cơ hội cho các nước đẩy mạnh hợp tác đầu tư và thương mại
để có thể tranh thủ các yếu tố bên ngồi và khai thác lợi thế của các quốc gia.
Để hội nhập vào xu thế đó, các quốc gia buộc phải tự điều chỉnh, chuyển đổi
nền kinh tế cho phù hợp với sân chơi chung của nền kinh tế thế giới. Hội nhập
quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế là xu hương tất yếu của thời đại, thúc
đẩy sự tham gia của các quốc gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thể giới.
Do đó, phát triển kinh tế thị trường là yêu cầu khách quan đối với Việt Nam.
1.5. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường phát triển từ sơ khai
đến hiện đại là một cơng trình sáng tạo của lồi người trong q trình sản xuất
và trao đổi. Trước đây có quan niệm cho rằng kinh tế hàng hố là sản phẩm

riêng có của chủ nghĩa tư bản. Đây là quan điểm sai. Từ đó kinh tế xã hội chủ
nghĩa vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, làm cho nền kinh tế
phát triển trì trệ, là một trong những nguyên nhân làm cho chủ nghĩa xã hội
khủng hoảng. Đó là trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được, chứ không
phải là phát minh của chủ nghĩa tư bản. Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo


11

cơ chế thị trường trên thực tế đã tỏ rõ nhiều lợi thế nhưng đồng thời cũng bộc
lộ những khuyết tật cần khắc phục. Nhờ có cơ chế thị trường, việc phân bổ và
sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đã có hiệu quả hơn. Động lực lợi ích
kinh tế đã phát huy tác dụng mạnh hơn, cơ chế quản lý mới đã được vận hành
và ngày càng tham gia đầy đủ hơn phân công lao động ở trong nước và quốc
tế. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường không những không làm hạn chế khả năng thu hút, đầu tư
xây dựng đất nước, mà còn thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân, phát
huy nội lực gắn với khai thác cao nhất nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại đưa đất nước ta vững bước đi lên.
Trước những lợi ích đó Đảng và nhà nước ta chủ trương chuyển từ nền
kinh tế hành chính, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường bất kì, mà
là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về thực chất ở đó
vừa kế thừa những thành tựu tiến bộ trong lịch sử phát triển nhân loại mà đỉnh
cao là chủ nghĩa tư bản, vừa gắn liền với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường nên chủ nghĩa tư bản đã đạt
được những thành tựu về kinh tế xã hội, phát triển lực lượng sản xuất và nâng
cao năng suất lao động xã hội. Nhờ sử dụng kinh tế thị trường, quản lí xã hội
dưới chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành quả văn minh hành chính, văn
minh cơng nghiệp, văn minh trí tuệ...
Vì vậy chủ nghĩa xã hội cũng phải biết kế thừa và sử dụng các ưu điểm

của kinh tế thị trường, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng thành
cơng chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trị quan trọng. Đối với nước ta
muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa thì khơng cịn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh
phân công lao động xã hội phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao
động, khuyến khích ứng dụng công nghệ, kĩ thuật mới nhằm tăng năng suất
lao động, tăng số lượng, chủng loại, hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập


12

trung sản suất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh
thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động,
mỗi đơn vị kinh tế đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực
của xã hội hợp lý, tiết kiệm. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường được coi là
chiếc đòn bẩy để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã
hội hoá xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác chúng ta cần phải nắm lấy vai trò to lớn của kinh tế thị trường
đã đưa nền kinh tế thốt khỏi tình trạng trì trệ, kém phát triển. Nắm bắt và hạn
chế những mặt tiêu cực, mặt trái, khuyết tật của kinh tế thị trường. Bởi vì kinh
tế thị trường thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên cơ sở khơi dậy
nguồn tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân ta để sản xuất và nâng cao đời
sống nhân dân. Sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển sự chun
mơn hố ngày càng sâu tiến tới sự phân cơng và hợp tác quốc tế. Trong khi đó
nước ta chuyển sang chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, kinh tế xã hội
còn nghèo nàn lạc hậu chưa có cơ sở để đảm bảo thực hiện thành cơng chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường cịn là sự tồn tại của những chủ thể kinh tế
độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra

quyết định phi tập trung hố. Vì vậy trong điều kiện chế độ cơng hữu xã hội
chủ nghĩa cũng có thể thực hiện được thể chế kinh tế thị trường.
Trước đây có quan niệm cho rằng kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
hội không thể dung hợp với nhau, chúng là những thực thể xã hội tuyệt đối
loại bỏ lẫn nhau. Đã là chủ nghĩa xã hội thì khơng thể là kinh tế thị trường.
Họ cho rằng kinh tế thị trường là chủ nghĩa tư bản và khi đưa ra đòi hỏi trong
hai điều kiện phải chọn lấy một. Họ hi vọng rằng trước sự năng động hấp dẫn
của kinh tế thị trường so với kinh tế bao cấp nhân dân sẽ chọn chủ nghĩa tư
bản nhưng họ đã sai kinh tế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, nó
như con dao hai lưỡi trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị
trường là con đường dẫn tới giàu có, văn minh, là bạn đồng hành của chủ
nghĩa xã hội, nhưng nó cũng có thể dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tự
phát đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trái với mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ


13

và nhân dân đã chọn. Vì vậy cần định hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh tế thị
trường để kinh tế thị trường phát triển phục vụ cho xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
2. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc trưng về sở hữu và thành phần kinh tế
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền
kinh tế có nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Với sự tồn tại đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xẵ hội chủ nghĩa thì tất yếu nền kinh tể đó có nhiều thành
phần kinh tế. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự chủ sản xuất
kinh doanh và chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, luật pháp của Nhà
nước. Giữa các chủ thể vừa có sự hợp tác, vừa có cạnh tranh và được bình

đẳng trước pháp luật.
Đảng ta đã xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tể, trong
đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác
không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tể tư nhân là một động lực quan
trọng; kinh tể có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp
với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
2.2. Đặc trưng về cơ chế vận hành
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
“giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ”.
Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam được Đảng xác định: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện
thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tể vĩ mô,
các cân đối lớn của nền kinh tế... Thị trường đóng vai trị quyết định trong xác
định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các
nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh


14

nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trị
tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa
các thành viên; đại điện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với
các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ các thành viên; phản ánh
nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước...”.
2.3. Đặc trưng về phân phối
Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao
gồm phân phối các nguồn lực quốc gia cho sự phát triển kinh tế - xã hội và
phân phối thu nhập. Các nguồn lực cho sự phát triển, đặc biệt là các nguồn lực

mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu như: tài nguyên, khoáng sản, đất đai,
ngân sách nhà nước... được tiến hành phân phối theo lộ trình thực hiện chiến
lược, kể hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong từng giai đoạn và
đảm bảo lợi ích quốc gia trong dài hạn.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều
hình thức phân phối: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực
cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội”.
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam được xác định: Đảm bảo từng bước cải thiện và nâng cao
đời sống của nhân dân. Căn cứ để tiến hành phân phối là kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế; đồng thời kết hợp với các hình thức phân phối khác để huy
động được nguồn lực xã hội như: phân phối theo vốn, theo tài năng, tài sản
đóng góp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. ĐIỀU KIỆN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TỂ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM


15

3.1. Điều kiện
Điều kiện về kinh tế
Tập trung các nguồn lực (vốn, khoa học - công nghệ, lao động, đất
đai...) để phát triển nền sản xuất hàng hóa tập trung quy mơ lớn với một trình
độ khoa học - cơng nghệ cao, tổ chức sản xuất hợp lý, có đội ngũ những
người lao động có tính chun nghiệp, chun mơn cao để tạo ra năng suất

lao động cao, chất lượng hàng hóa tốt đáp ứng nhu cầu thị trường với chi phí
sản xuất thấp. Đây là điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của nền kinh tể và sự tồn tại, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thị trường của nền kinh tế thị trường vừa là căn cứ, vừa là điều kiện
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh; nó bao gồm các thị trường các yếu tố
đầu vào, đầu ra; các dịch vụ của nền kinh tế; các thị trường trong và ngồi
nước. Do đó, việc mở rộng, phát triển thị trường và các yếu tố thị trưởng là
điều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển. Bên cạnh những điều kiện về sản xuất và thị trường, kết cấu hạ tầng
kinh tế kỹ thuật như: giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện, nước... là
những điều kiện vật chất thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩá phát triển.
Điều kiện về chỉnh trị, xã hội
Nền chính trị, xã hội ổn định là điều kiện quan trọng cho kinh tế phát
triển. Lực lượng có vai trị quyết định đến sự ổn định của nền chính tri, xã hội
ở Việt Nam là sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, sự ủng hộ tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể cộng
đồng doanh nghiệp, nhân dân. Trong q trình đổi mới, Đảng ta ln coi
trọng đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là hoàn thiện, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo điều
kiện cho các chủ thể trong nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, bền vững
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở nền tảng liên minh của


16

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo
là điều kiện quan trọng nhằm phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm

năng sáng tạo để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Điều kiện về hòa bình hợp tác khu vực và quốc tế
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, hội nhập khu vực và quốc tế là xu
hướng tất yếu mà các quốc gia đang tích cực thực hiện. Hội nhập mang lại các
điều kiện từ bên ngồi như: nguồn lực về tài chính, những thành tựu khoa học
- công nghệ của nhân loại, kinh nghiệm tổ chức quản lý nền sản xuất lớn và
thị trường để mở rộng giao thương giữa các quốc gia... và đó là điều kiện cho
sự phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Điều kiện khu vực và quốc tế tốt sẽ
tạo mơi trường hịa bình thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ đối tác chiến
lược để đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại trong phát triển kinh tể thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Thực trạng
Thể hiện ở trình độ phát triển của sản xuất hàng hố thấp do phân cơng
lao động kém phát triển. 80% dân cư sống ở nông thôn, 71% lực lượng lao
động làm trong nơng nghiệp và do đó, cơ cấu kinh tế lạc hậu và chuyển dịch
chậm, nhất là cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Sản xuất lương thực vẫn là ngành
chính chiếm đại bộ phận đất canh tác, tỷ suất hàng hố lương thực thấp, chăn
ni chưa trở thành ngành chính... Tự do kinh doanh và cạnh tranh theo pháp
luật hai thế mạnh của cơ chế thị trường chưa được quán triệt đầy đủ và thực
thi hữu hiệu trên thị trường. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với việc
mở rộng thị trường ngoài nước,với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
với việc mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong điều kiện
trình độ phát triển kinh tế xã hội của ta thấp hơn nhiều so với nước kinh tế
phát triển. Vì thế đây là thời cơ thách thức lớn đối với các nhà sản xuất hàng
hoá. Quả lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu kém “hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất qn, thực hiện chưa nghiêm. Cơng tác
tài chính ngân hàng, giá cả,.. còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính... đổi mới



17

còn chậm. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực. Chế độ phân
phối thu nhập còn nhiều bất hợp lý. Ngồi ra cịn được thể hiện ở sự phân
công lao dộng chưa phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, thị trường chưa
hình thành đồng bộ, sức cạnh tranh của hàng hố cịn yếu.
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc
vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự
thiếu đồng bộ, thiếu nhất qn và những bất cập trong q trình hồn thiện thể
chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát
triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử
lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức
tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao
động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển cịn dàn trải, lãng
phí, chưa công bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất
và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức
có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ
nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác
động xấu tới đời sống xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu
quả mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn
nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”.

“Tập trung ưu tiên hồn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt
hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập mơi trường đầu tư kinh


18

doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu
hiệu”.
3.3. Giải pháp
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng,
điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật
của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù
hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được

phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị
quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát
triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ


19

trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh
doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở
phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân
quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân
và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
“Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các
thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự
do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả
các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ
pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển
đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo,
cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện
tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền
sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của
người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các
nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng
cao phúc lợi xã hội và bảo vệ mơi trường.
Giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống pháp luật đổi mới các

chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả. Đó là những nhân tố quan trọng để phát
triển kinh tế thị trường, để các nhà sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước
yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng
với sự nghiệp đổi mới, tăng cường vai trị quản lí của nhà nước, vai trò làm
chủ của nhân dân. Nhà nước cần hạn chế can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp mà tập trung làm tốt các chức năng tạo môi
trường, hướng dẫn, hỗ trợ những yếu tố cần thiết để các doanh nghiệp phát
triển. Nhà nước cần tăng cường quản lí và kiểm sốt. Nhà nước phải ổn định
kinh tế vĩ mô: chống lại khủng hoảng, thất nghiệp, sửa chữa và khắc phục
những khuyết tật của thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc


20

dân, xây dựng hệ thống pháp luật để tạo môi trường pháp lí cho các chủ thể
kinh tế hoạt động. Nhà nước tơn trọng tính khách quan của kinh tế thị trường,
phát huy những mặt tích cực hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực.
Đào tạo đội ngũ quản lí kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, phù hợp với
yêu cầu của kinh tế thị trường theo định hường xã hội chủ nghĩa. Cần bồi
dưỡng đãi ngộ đúng đắn với độ ngũ cán bộ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ,
bản lĩnh quản lí, kinh doanh của họ.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường.
Trong xu thế quốc tế hoá đới sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy kinh
tế thị trường phát triển phải hoà nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế
thế giới. Muốn vậy phải đa dạng hố hình thức, đa phương hố đối tác; phải
qn triệt ngun tắc đơi bên cùng có lợi, khơng can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị xã hội.


21


KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam em đã biết vì sao nước ta lại phải lựa chọn phát triển kinh tế thị trường
và kinh tế thị trường là lực chọn đúng đắn và cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Khi chúng ta chuyển sang chế độ mới xã hội chủ
nghĩa từ một nước kinh tế còn lạc hậu và nền kinh tế còn kém phát triển vì
vậy để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội chúng ta phải tìm ra con đường
đúng đắn tạo cơ sở vững chắc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì thế
chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Để kinh tế thị trường không đi
chệch hướng tư bản chủ nghĩa. Chúng ta phải định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành trên cơ chế thị
trường có sự quản lí vĩ mơ của nhà nước. Trong kinh tế thị trường ở nước ta
có đặc điểm khác với kinh tế thị trường của các nước khác. Trong kinh tế thị
trường ở nước ta tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự tiến bộ và cơng bằng xã
hội. Đó là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đồng thời phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba
mặt: sở hữu, tổ chức, phân phối. Chúng ta cũng thấy được phương hướng và
giải pháp của Đảng và nhà nước đề ra trong những năm tới để đưa kinh tế thị
trường ngày càng phát triển, đưa nước ta phát triển ổn định bền vững.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Kinh tế chỉnh
trị Mảc-Lênin (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận
chính trị, H.2021;
2. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị

quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021;
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.



×