Tải bản đầy đủ (.ppt) (19 trang)

THUYẾT MINH VỀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.88 KB, 19 trang )

TiÕt 64,65 – Tập làm
văn


KIỂM TRA BÀI CU
VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC

ĐẬP ĐÁ Ở CƠN LƠN (Phan Châu Trinh)

Phan Bợi Châu

u

i
h aLàm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu,

đ củ ,
ó n

đ
đ
Chạy mỏi chân thiì̀ hãy ở tù.
o m ngắLừng lẫy làm cho lở núi non.
à
n điể n
ế
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Đã khách không nhà trong bốn biển,
th đặc ruyệ
àm ng ay t .?


Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
l
Lại người có tội giữa năm châu.
y

h

Vậ nh thơ
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, về ể
th
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Nêu đặc điểm của thể thơ đượcNhững
dùngkẻ
trong
haikhi lỡ bước,
vá trời
bài thơ?

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gi đâu.

Gian nan chi kể việc con con!

-Thể thơ Đường luật. Có nguồn gốc từ Trung Quốc
+ 8 câu/ bài. Cả bài có 56 chữ
+ 7 chữ /câu.

+ Cấu trúc: 4 phần (Đề thực luận, kết. Mỗi phần 2 câu)
+ Có sử dụng phép đối trong phần thực, luận
+ Trong câu cuối thương có “nhã tự” – Con mắt thơ.
- Nội dung thơ: Thể hiện tư tưởng, quan niệm, chí anh hùng,


Tiết 64, 65 – Tâp làm văn

THUYẾT MINH MỘT THỂ LOI VN HC

I. Từ quan sát đến miêu tả,
thuyết minh một thể loại văn
học
*Đề bài: Thuyết minh đặc
điểm thể thơ thất ngôn bát cú
1.
Tìm
hiểu
ờng
luật
đề:

1. Tìm hiểu đề:
- Thể loại: thuyết minh về một thể loại
văn học
- Đối tợng thuyết minh: thể thơ thất
ngôn bát cú ờng luật
- Phạm vi tri thức: Đặc điểm về :số
câu, ting ; luật bằng, trắc; niờm; nhịp;
vần; đối; bố cục

- Phơng pháp thuyết minh:
+ Nêu định nghĩa
+ Phân tích
+ Nêu ví dụ


Tiết 64, 65 – Tâp làm văn

THUYẾT MINH MỘT THỂ LOI VN HC

I. Từ quan sát đến miêu tả,
thuyết minh một thể loại văn
học
*Đề bài: Thuyết minh đặc
điểm thể thơ thất ngôn bát cú
1.
Tìm
hiểu
ờng
luật
2. Quan
sát- nhận
đề:

? Cách làm một
bài văn thuyết
minh?

xét:


Để làm một bài văn thuyết
minh, cần tìm hiểu đối tợng
thuyết minh, xác định rõ phạm
vi tri thức về đối tợng đó, sử
dụng phơng pháp thuyết minh
thích hợp, chính xác, dƠ hiĨu.


1

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
B
T
B

2

Lừng lẫy làm cho lở núi non.
T
B
T
Xách búa đánh tan dăm bảy đống,
T
B
T
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
B
T
B
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

B
T
B
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
T
B
T
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
T
B
T
Gian nan chi kể việc con con!
B
T
B

3
4
5
6
7
8

ThĨ th¬ : thất ngôn bát cú Đ
*S cõu :Bi th có 8 câu.
ờng luật.
*S ting : Mỗi câu có 7ting.
*V vn : hiệp vần ở cuối các câu 1,
2, 4, 6, 8 (vần chân-độc vần)_luụn
gieo vn bng .

*Theo hng ngang: Ting thứ 4 luôn trái
thanh với tiếng thứ2 và 6 ;Các tiếng thứ 2,4,6 ở
các cặp câu : 1-2 ; 3-4 ; 5-6 ; 7-8 luôn trái ngược
nhau về thanh => Luật : Nhị tứ lục phân minh
,nhất tam ngũ bất luận
*Theo hàng dọc :Các cặp câu :1-8 ; 2-3 ; 4-5 ;
6-7 trùng nhau về thanh ở các tiếng thứ 2,4,6
=>Niờm( nếu tiếng của dòng trên là B

thì tiếng của dòng dới cũng là B =>
*2cõu :V/ v quan nim lm trai ca ngi gọi là niêm( dính) với nhau.)
*V phộp i: Cặp câu 3 4 ; 5 - 6.
tù C.M=>Nêu và mở đề (phá đề và thừa đề )
* 2câu thực :M.tả về công việc đập đá của
+Về hình thức :-Đối nhauvề từ loại(cùng từ
người tù C.M=>M.tả cụ thể để làm rõ đề
*2câu luận :Từ công việc đập đá suy ngẫm về
con dường hoạt động C.M =>Mở rộng nội dung
đề làm cho đề sâu rõ hơn.
*2câu kết :K.định lai v/đề : dù có khó khăn gian
khổ đến đâu vẫn q.tâm theo đuổi lí tưởng của
mình =>Thâu tóm ý toàn bài .

loại)
-Đối nhau về thanh điệu(ngược
thanh)
+Về nội dung : Bổ sung cho nhau về ý nghĩa

*Bè côc 4 phần: đề, thực, luận, kết
(mỗi phần gồm có hai câu).

*V nhịp : 2/2/3 hoặc 4/3 ;


1

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
B
T
B

2

Lừng lẫy làm cho lở núi non.
T
B
T
Xách búa đánh tan dăm bảy đống,
T
B
T
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
B
T
B
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
B
T
B
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
T

B
T
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
T
B
T
Gian nan chi kể việc con con!
B
T
B

3
4
5
6
7
8

=>Bài thơ làm theo luật bằng

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
T
B
T
Cỏ cây chen đá lá chen hoa .
B
T
B
Lom khom dưới núi tiều vài chú ,
B

T
B
Lác đác bên sông chợ mấy nhà .
T
B
T
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
T
B
T
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
B
T
B
Dừng chân đứng lại trời non nước
B
T
B
Một mảnh tình riêng ta với ta.
T
B
T

=>Bài thơ làm theo luật trắc

Lưu ý :Căn cứ vầo tiếng thứ 2 ở câu thứ nhất , thể thơ Đường luật
thất ngơn bát cú có 2 dạng :
-Làm theo luật bằng (V.D:Đập đá ở Côn Lôn,Vào nhà ngục Quảng
Đông cảm tác ...)
-Làm theo luật trắc (V.D :Qua Đèo Ngang,Bạn đến chơi nhà ...)



Bài thơ làm theo luật bằng

Tiếng:
Câu:

Bài thơ làm theo luật trắc

2

4

6

2

4

1

B

T

B

2

T


B

3

T

4

6

1

T

B

T

T

2

B

T

B

B


T

3

B

T

B

B

T

B

4

T

B

T

5

B

T


B

5

T

B

T

6

T

B

T

6

B

T

B

7

T


B

T

7

B

T

B

8

B

T

B

8

T

B

T



3. Dn bi:

a. Mở bi:
-Thể thơ TNBCĐL là thể thơ
thông dụng trong các thể thơ
ĐL đ
các nhà
b.ợcThân
bi:thơ VN yêu
chuộng
*Xut
x :L thể thơ có nguồn gốc từ
T.Quốc,làm theo luật thơ được đặt ra từ thời
Đường .Thường viết theo lối vịnh vật hoc vnh
cnh t chớ ,t lũng .

*Giới thiệu đặc điểm của thể
thơ:
- Số câu, số chữ trong bi
-Cách gieo vần,
-Quy luật bằng trắc (Niờm Lut =>Lm
theo lut bng hoc trc ?)

-Nghệ thuật đối
- Cấu trúc bài thơ
-Ngắt nhịp
*Nhn xột :Ưu - nhược điểm của thể thơ

ThĨ th¬ : thÊt ngôn bát cú Đ
luật.

*Sờng
cõu :Bi
th có 8 câu.
*S ting : Mỗi câu có 7ting.
*V vn : hiệp vần ở cuối các câu 1,
2, 4, 6, 8 (vần chân-độc vần)_luụn
gieo vn bằng .
*Theo hàng ngang: Tiếng thứ 4 luôn trái
thanh với tiếng thứ2 và 6 ;Các tiếng thứ 2,4,6 ở
các cặp câu : 1-2 ; 3-4 ; 5-6 ; 7-8 luôn trái ngược
nhau về thanh => Luật : Nhị tứ lục phân minh
,nhất tam ngũ bất luận
*Theo hàng dọc :Các cặp câu :1-8 ; 2-3 ; 4-5 ;
6-7 trùng nhau về thanh ở các tiếng thứ 2,4,6
=>Niêm( nÕu tiÕng cđa dßng trên là B

thì tiếng của dòng dới cũng là B =>
gọi là niêm( dính) với nhau.)
*V phộp i: Cặp câu 3 – 4 ; 5 - 6.
+Về hình thức :-Đối nhauvề từ loại(cùng từ
loại)
-Đối nhau về thanh điệu(ngược
thanh)
+Về nội dung : Bổ sung cho nhau về ý nghĩa

*Bè côc 4 phần: đề, thực, luận, kết
(mỗi phần gồm có hai câu).
*V nhip : 2/2/3 hoặc 4/3 ;2/5



3. Dn bi:

a. Mở bi:
-Thể thơ TNBCĐL là thể thơ
thông dụng trong các thể thơ
ĐL đ
các nhà
thơ VN yêu
b.ợcThân
bi:
chuộng
*Xut x :Là thể thơ có nguồn gốc từ
T.Quốc,làm theo luật thơ được đặt ra
từ thời Đường

Thảo luận nhóm :
NhËn xÐt u im( vẻ đẹp, nhạc
điệu), nhợc im ca th th này
trong thơ ca Việt Nam?

*Giới thiệu đặc điểm của thể
thơ:
- Số câu, số chữ trong bi
- Thể thơ này đẹp ở sự tề
-Cách gieo vần,
chỉnh, hài hoà, âm thanh trầm
-Quy luật bằng trắc
-Nghệ thuật đối
bổng, nhạc điệu phong phú, bố
- Cấu trúc bài thơ

cục cân đối hài hoà, vần điệu
-Ngắt nhịp
nhịp nhàng mang đậm chất cổ
Nhn xột :u - nhc im của thể
c. KÕt
thơ
®iĨn. Ngắn gọn , súc tích .
bài :
-Đây là thể thơ có vai trị rất quan trọng
trong đời sng v.hc dõn tc

-Thơ ca VN có nhiều bài thơ
hay đợc sáng tác theo thể thơ
này. Ngày nay thể thơ này
vẫn đợc a chuộng.

- Nhợc điểm: có nhiều ràng buộc
gò bó, cụng thc khuôn mẫu, không
phóng khoáng nh thơ tự do


Tit 61

A.Lí thuyết : Từ quan sát đến
miêu tả, thuyết minh một thể
Từ quan sát trên, rút ra bài h
loại
văn
học
*Đề bài: Thuyết minh đặc

thế nào về cách thminh đặc
điểm thể thơ thất ngôn bát cú
1 thể loại văn học?
1.
Tìm
hiểu
ờng
luật
2. Quan
sát- nhận
đề:
xét:
Muốn thuyết minh một thể
3. Dn bi:
4.Ghi nhớ :sgk (154)
loại văn học , trớc hết phải quan
B. Luyện tập.
sát, nhận xét, sau đó khái quát

thành đặc điểm.
Khi nêu các c im cần chú ý lự
chọn ntn?
Khi nêu các đặc điểm cần lựa
chọn đặc điểm tiêu biểu, quan
trọng và cần có ví dụ cụ thể
để làm sáng tỏ các đặc điểm
ấy.


Tit 61

A.Lí thuyết : Từ quan sát đến
miêu tả, thuyết minh một thể
loại
*Đềvăn
bài:học
Thuyết minh đặc
điểm thể thơ thất ngôn bát cú
1.
Tìm
hiểu
ờng
luật
2. Quan
sát- nhận
đề:
xét:
3. Dn bi:
4.Ghi nhớ :sgk (154)
B. Luyện tập:
Bi tập1 :Thuyết minh đăc điểm
chính của truyện ngắn


1. Tìm hiểu đề:
- Thể loại: thuyết minh về một thể loại văn học
- Đối tợng thuyết minh: Truyn ngn
- Phạm vi tri thức: Đặc điểm :về dung lng, v nhõn vt ,v ct truyn ,v
kt cu..

.Phơngsát:

pháp
thuyết
minhtruyện
: Nêu định
Phân
tích
2.Quan
Qua
3 văn bản
ngắn nghĩa
đà học ;:Tụi
i hc
,Lóo; Nêu ví
Hc , Chic lỏ cui cựng
dụ
*Định nghĩa thể loại truyện ngắn: thuộc thể tự sự loại nhỏ.
*Dung lợng ( Nội dung phản ánh):
Dung lợng nhỏ, tập trung mô tả một mảng cuộc sống hay
một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong
cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách
hay một mặt nào đó của đời sống xà héi (vÝ dơ minh hoa)
* Nh©n vËt sù kiƯn: Ýt
* Cốt truyện thờng diễn ra một khoảng không gian, thời gian
hạn chế, không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một
đời ngời mà chọn những khoảnh khắc, những lát cắt của
cuộc sống để thể hiện.
*Kết cấu thờng là sự sắp đặt những đối chiếu tơng phản để
làm nổi bật chủ đề.
*Truyện ngắn tuy dung lợng ngắn nhng thờng đề cËp vÊn ®Ị
lín cđa cc sống

3.Dàn ý :


Tit 61
A.Lí thuyết : Từ quan sát đến
3.Dn ý :
miêu tả, thuyết minh một thể
loại
a.MB :Truyn ngn l mt th loi t s nh...
*Đềvăn
bài:học
Thuyết minh đặc
điểm thể thơ thất ngôn bát cú
b.TB :Gii thiu cỏc c im tiờu biu :
1.
Tìm
hiểu
ờng
luật
+V dung lng
2. Quan
sát- nhận
đề:
+V nhõn vt
xét:
+V ct truyn
3. Dn bi:
4.Ghi nhí :sgk (154)
+Về kết cấu ...
B. Lun tËp.

c.KB :K.định vai trò , ý nghĩa của thể loại
truyện ngắn
B.tập1 :Thuyết minh c imchớnh
ca truyn ngn
1. Tìm hiểu đề:
2.Quan sát:
3.Dn ý :


+Hoàn thành bài tập1 :Xõy dng dàn
ýchi tit
+.viết bài
+Chuẩn bị bµi :Muốn làm thằng Cuội ,
Hai chữ nước nhà



Ngâm một bài thơ hay có thể làm rung động người nghe, về mặt tĩnh thì đưa tâm tình người nghe vào chỗ mê hồn, phẳng lặng, khiến
họ cảm thấy được nghỉ ngơi sảng khối và về mặt động thì khuấy lên như sấm sét, mưa gào.  Đó chính là nhờ giọng của người ngâm
thơ hay, nhờ chữ của bài thơ (từ thi) sử dụng một cách khéo léo, tự nhiên, có vần, có điệu, nghe lọt cái lỗ tai.
Giá trị bài thơ trước hết được người ta phán xét qua cung cách trình bày, giọng ngâm và tác động của âm hưởng trầm bổng.  Sau đó
mới xét đến ý thơ (tứ thi).  Ý thơ có súc tích, có hàm dưỡng được cái Chân, cái Thiện và cái Mỹ, có thanh cao, có chia sẻ được tâm
tình của đại chúng thì mới gọi là bài thơ có hồn.  Thơ mà khơng có hồn thì không ra làm sao cả.
Người ta làm thơ để bày tỏ một tâm tình hoặc mơ tả một cảnh đẹp nào đó, hoặc vừa tả cảnh, vừa tả tình.  Làm thơ thì tùy theo sở
thích nhưng bắt buộc phải làm theo thể này, thể nọ bởi lẽ thơ là thể văn vần; phá bỏ cái thể, cái nét riêng của nó thì khơng gọi là thơ
được.  Thơ tự do vẫn địi hỏi có vần, có điệu.
Tương tự như hội họa: một người có thể căng một tờ giấy trắng ra, chấm vào đó một chấm hoặc quệt vào đó một gạch và gọi đó là
bức tranh tuyệt tác.  Người đó cảm thấy là tuyệt tác thì khơng có gì đáng lưu ý; điều quan trọng là đa số mọi người có thừa nhận hay
khơng.  Mặt khác, người đó khơng thể gọi "bức tranh" đó là thuộc trường phái lập thể Picasso được: có diễn tả sự vật và phân tích ra
thành những khối hình học đơn giản đâu mà gọi là lập thể ?

Thơ Việt Nam có gốc gác lịch sử từ Trung quốc là lẽ tự nhiên.  Vào lúc ban sơ, người Việt Nam đã có thể bắt chước các thể thơ Cổ
phong và thơ Đường của người Trung quốc một cách dễ dàng, không một chút gượng ép.  Và về sau, với thể thơ Đường cũng
vậy.  Lý do là vì tiếng Việt Nam mang cùng một đặc điểm với tiếng Trung quốc: cùng là loại tiếng độc âm và các thanh đều có thể qui
thành hai thanh bằng (tiếng phát ra đều đều, bằng phẳng, thí dụ: ăn cơm, chiều tà) và trắc (nghiêng lệch, tiếng phát ra hoặc từ thấp lên
cao, hoặc từ cao xuống thấp, thí dụ: ngã sấp xuống, gánh nặng quá, kỷ niệm).  Lúc bấy giờ, Việt Nam chưa có chữ viết và lại chịu ách
đô hộ dã man của Trung quốc hơn cả ngàn năm, tất cả sinh hoạt chữ nghĩa đều phải mượn chữ Hán mà xài.  Thực ra, các dân tộc
chung quanh Trung quốc như Đại Hàn, Nhật Bản đều mượn chữ Hán; và trong thực tế, mỗi dân tộc đều đã thay đổi chữ Hán cách này
hay cách nọ để thích ứng với nét riêng của mình.  Tại Việt Nam, hiện tượng sử dụng chữ Nôm trong khoảng 700 năm và tiếng Hán
Việt là thí dụ cụ thể.  Tuy nhiên, người Việt Nam cũng có sáng tạo một số thể thơ riêng biệt, không chỉ dùng lối gieo vần ở chữ cuối
câu (cước vận) mà còn gieo vần ở lưng chừng câu (yêu vận).  Thí dụ: thể thơ lục bát, song thất lục bát và các biến thể như: hát nói,
sẩm, lý, hề, v.v.
Trong cả hai nền văn học Trung quốc và Việt Nam, thể thơ Đường chiếm vị thế độc tôn trong suốt mấy ngàn năm nay bởi cách bố cục
có đầu, có đi, súc tích, thâm trầm, càng đọc, càng suy nghĩ thì càng thấm thía.  Độc tơn cũng bởi cách cấu tạo vần, đối, niêm và
luật bằng trắc được phối hợp một cách cơng phu, hài hịa, ngâm lên nghe lúc bổng, lúc trầm, lúc lãng mạn tình tứ, lúc trầm hùng, trôi
chảy như núi như sông.  Cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim viết:
"Những bài thơ Đường tựa như những đồ chơi làm bằng ngọc bằng ngà, chạm trổ rất tinh xảo, trau giồi bóng bảy, càng ngắm càng
thấy đẹp, chơi bao lâu cũng khơng thấy chán.  Những thơ ấy lại có nhiều tình sâu ý cao, ngâm nga tiêu khiển và ngẫm nghĩ kỹ, thật là
lợi cho tính tình biết bao"


Thể thơ Đường xuất xứ từ thể thơ Cổ phong, còn gọi là Cổ thể.  Thơ cổ phong chỉ cần giữ vần mà thơi.  Những bài dùng suốt một
vần thì gọi là độc vận; cịn đổi vần ở mỗi đoạn thơ thì gọi là hốn vận.  Số chữ trong thơ cổ phong khơng nhất định, có lúc khởi
bằng câu ba chữ rồi tới bảy chữ, có lúc khởi bằng câu năm chữ rồi tới bảy chữ, hoặc có khi chen lẫn những câu chín, mười chữ.
Đến đời nhà Đường, kể từ thời Sơ Đường, năm Võ Đức thứ ba (620) cho tới  thời Vãn Đường, đời vua Chiêu Tuyên (905) thì thể
thơ Đường thay thế thể cổ phong.  Khoảng thời gian gần 300 năm này đã lưu lại trong lịch sử thơ Trung quốc không biết bao
nhiêu bài thơ Đường bất hủ của nhiều thi hào như: Vương Tích, Vương Bột, Trần Tử Ngang, Đường Huyền Tông, Trương Húc,
Trương Cửu Linh, Vương Xương Linh, Thôi Hạo, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Cao Thích, Sầm Tham, Trương Kế, Liễu Tông Nguyên,
Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Đỗ Mục, v.v.
Về hình thức, số chữ trong một bài thơ Đường phải giới hạn: hoặc bảy chữ (thất ngôn) hoặc năm chữ (ngũ ngơn) và có tám câu
(bát cú); cứ bốn câu gọi là một giải, bốn câu đầu gọi là tiền giải và bốn câu sau gọi là hậu giải.

Ngắt một bài thơ Đừờng có tám câu để làm thành bài thơ có bốn câu thì gọi là tứ tuyệt (tuyệt nghĩa là ngắt, dứt.)  Khi ngắt thì rất
linh động, có thể ngắt hai câu 1,2 nhập với hai câu 3,4, hoặc ngắt câu 3,4 nhập với câu 5,6, hoặc ngắt câu 5,6 nhập với câu 7,8,
hoặc ngắt câu 1,2 nhập với câu 7,8, hoặc ngắt câu 1,2 nhập với câu 5,6.
Hai câu đầu của tiền giải gọi là hai câu khởi (còn gọi câu thứ nhất là câu phá đề để mở đầu bài thơ và câu thứ hai là câu thừa đề
để nối câu phá mà vào bài) và hai câu kế gọi là hai câu thừa (còn gọi là hai câu thực hoặc trạng  để giải thích chủ đề bài thơ).
Hai câu đầu của hậu giải gọi là hai câu chuyển (còn gọi là hai câu luận để bàn rộng chủ đề) và hai câu chót gọi là hai câu hợp (còn
gọi là hai câu kết).
Phàm làm thơ Đường thì người ta hay dùng hai câu khởi và hợp để diễn tả tình ý thơ; cịn hai câu thừa và chuyển để diễn tả cảnh
thơ bằng cách dùng chữ đối nhau.  Bài thơ nào đạt được cả hai cái tình và cảnh là ưu hạng; nếu chỉ đạt một cái thì bị xếp là thứ
hạng.
Hai câu khởi thường là phải mạnh mẽ.  Bốn câu đối ngẫu thì câu ba, câu bốn tiếp theo hai câu trên đang mạnh mẽ nên phải giảm
dần, êm dịu để thay đổi âm hưởng; nhưng câu thứ năm và sáu thì lại phải bật lên để mở ra một khung cảnh khác.  Trong bốn câu
đối ngẫu, thường thường người ta hay dùng hai câu thừa để tả tình và hai câu chuyển để tả cảnh.  Tình thì có tính chất hư, nhẹ cịn
cảnh thì thực., nặng.  Nếu đảo ngược lại, trên thực, dưới hư thì như "lâu đài xây trên cát", khơng hay. Nếu cả bốn câu khơng tả
tình mà chỉ tả cảnh (điệp cảnh) thì phải có hai ý khác nhau, gọi là phép tam muội của thơ Đường.
Hai câu hợp để thắt lại ý nghĩa của toàn bài thơ.
Về chi tiết cấu tạo của một bài thơ Đừờng thì phải xét đến vần, đối, niêm và luật bằng trắc.  Để dễ theo dõi các vấn đề này, xin lấy
thí dụ một bài thơ Đường thất ngơn, bát cú của Tuệ Trung Thương Sĩ (1230 - 1291, tên thật là Trần Tung là con trai Trần Liễu, anh
ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn), tựa là "Nhập Trần" trong tập thơ "Thượng Sĩ Ngữ Lục", nguyên bản chữ Hán và do Huệ
Chi dịch:
Âm Hán Việt:


Đối là đặt hai câu sóng đơi cho ý và chữ trong hai câu đó cân xứng với
nhau.  Đối chữ thì phải vừa đối thanh (bằng đối với trắc), vừa đối từ
loại (danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, v.v.)  Câu thứ ba
đối với câu thứ tư và câu thứ năm đối với câu thứ sáu.  Thí dụ:
Bụng ngựa rong chơi, này xóm Bắc,
Thai lừa lạc bước, nọ nhà Đông.
Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi,

Cọp đá lôi về, giây sắt giong.
 
Niêm (nghĩa là dính) là sự liên quan bằng trắc giữa hai câu thơ.  Hai
câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ nhì của cả hai câu hoặc cùng là
bằng cả, hoặc cùng là trắc cả.  Trong bài thơ Đường, câu 1 niêm với
câu 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 5, câu 6 niêm với câu
7, câu 8 niêm với câu 1. Thí dụ:  
 
Câu 1: xăm niêm với câu  8: hoa
Câu 2: óng niêm với câu 3: ngựa
Câu 4: lừa niêm với câu 5: bùn
Câu 6: đá niêm với câu 7: một
Câu 8: hoa niêm với câu 1: xăm.  


Luật thơ là cách sắp xếp tiếng bằng, trắc.  Luật bằng bắt đầu bằng hai chữ bằng.  Luật trắc bắt đầu bằng hai chữ
trắc.  Một câu thơ đáng lẽ phải Bằng nhưng dùng chữ Trắc thì gọi là thất luật.
1.Luật bằng, vần bằng:
b  B  t  T  t  B  B (v)
t  T  b  B  t  T  B (v)
t  T  b  B  b  T  T
b  B  t  T  t  B  B (v)
b  B  t  T  b  B  T
t  T  b  B  t  T  B (v)
t  T  b  B  b  T  T
b  B  t  T  t   B  B (v)
2.Luật trắc, vần bằng:
t  T  b  B  t  T  B (v)
b  B  t  T  t  B  B (v)
b  B  t  T  b  B  T

t   T  b   B  t  T  B (v)
t   T  b  B   b  T  T
b  B  t   T  t   B  B (v)
b  B  t   T  b  B  T
t   T  b  B  t  T  B (v)
Chú thích: các chữ B, T viết hoa có nghĩa là bắt buộc phải Bằng, Trắc, không được du di.  Do việc giữ đúng luật
bằng, trắc như trên quá khó khăn nên có lệ bất luận (khơng kể), nghĩa là các chữ thứ nhất, thứ ba, và thứ năm không
cần giữ đúng luật.  (nhất, tam, ngũ bất luận).  Tuy bất luận nhưng cần ráng tránh đổi các chữ từ bằng ra trắc để tránh
nạn "khổ độc" (khó đọc).  Các chữ từ trắc đổi thành bằng thì dễ đọc, khơng có vấn đề gì.   
Người mới làm thơ Đường nên cố gắng giữ đúng luật; một khi thành thạo rồi thì tự khắc biết phá luật mà bài thơ, khi
ngâm lên, vẫn có âm hưởng trơn tru, không gượng gập.  Điều này giống như người mới tập lái xe: khi mới lái thì giữ
cả hai tay trên tay lái nhưng thành thục rồi thì có thể lái một tay, thậm chí vài ngón tay!  Đó là chưa nói đến kỹ thuật
điệp ngữ làm cho ý thơ mạnh lên; chỉ cỡ thi hào như Lý Bạch, Đỗ Phủ mới dám phá luật thơ.



×