LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Khoa ………. Đại học …. vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ thống hiện
đại, đa dạng, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thơng tin.
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn - Thầy ………. đã giảng dạy tận tình, chi tiết để
em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài thu hoạch này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến thức,
trong bài làm chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Thầy để bài thu hoạch được hồn
thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc Thầy nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.
ĐỀ BÀI
HÃY PHÂN TÍCH SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI
VÀ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
BÀI LÀM
1, Hãy phân tích so sánh đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay
Theo lý luận Mac- Lênin đã khẳng định, muốn tiến từ một phương thức sản xuất
thấplên một phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kì quá
độ. Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “ Thời kì quá độ là thời kì cải biến
cách mạng khơng ngừng triệt Để và tồn diện từ phương thức sản xuất này sang
phương thức sản xuất khác. Trong thời kì q độ xét cả về mặt kinh tế, chính trị,
xã hội đó là một thời kì có nhiều mâu thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luận phải giải quyết
triệt để. Từ khái niệm về thời kì quá độ ở trên ta có cơ sở đi tìm hiểu về thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cũng trong di sản lý luận Macxit thì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự phát hiện trực tiếp từ những luận chứng khoa học về tính tất
yếu lịch sử của chủ Nghĩa xã hội về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân. Theo lý luận này thì “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự chuyển tiếp quá độ
bằng cách mạng phủ định một trật tự xã hội cũ sang một trật tự xã hội mới với
phương thức sản xuất mới, quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu mới mang tính chất
xã hội chủ nghĩa, với Nhà nước kiểu mới mà chủ thể quyền lực là giai cấp công
nhân và nhân dân lao động”.
- Thực chất là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa tưbản
chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự
đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức tinh thần của chủ
nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở
của chính nó
- Là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khi xây dựng từng bước cơ sở vật
chất kỹ thuật và đời sống tinh thần của CNXH. Đó là thời kỳ lâu dài , gian khổ
bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền
đến khi xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội có thể phải phát những đặc điểm
cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội như sau
- Trên lĩnh vực kinh tế:
Cái mới:
Tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có:
Thành phần kinh tế XHCN
Thành phần kinh tế đối lập.
Bắt đầu xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Kinh tế nhà nước kinh tế tập thể ngày càng ổn định phát triển củng cố đảm bảo
nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN
Cái cũ(tàn dư):
Kinh tế tư bản, tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
Theo ngun tắc khách quan tồn diện: Tệ nạn, tham ơ, tham nhũng, quan liêu
không phải do CNXH đẻ ra mà là Tàn dư của xã hội cũ mà XHCN, giai cấp công
nhân chưa xóa sổ được
Trong điều kiện nay từ cơng cuộc đổi mới đất nước, hoàn thiện đất nước 1986nay. Đảng ta thực hiện chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý bởi nhà nước theo định hướng
XHCN. Đảng và nhà nước đã xác định kinh tế nhà nước tập thể giữ vai trò nền
tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế Nhà nước vươn lê giữ vai trò chủ đạo để
đảm bảo phát triển theo đúng định hướng XHCN. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể tư nhân là những động lực quan trọng của nền kinh tế
-Trên lĩnh vực chính trị : Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
về phương diện chính trị , là việc thiết lập , tăng cường chun chính vơ sản mà
thực chất của nó là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước
trấn áp giai cấp tư sản , tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp . Đây là sự
thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối
với nhân dân , tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới , chuyên chính với những
phần tử thù địch , chống lại nhân dân .
-Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa : Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau , chủ yếu là tư tưởng vô sản và
tư tưởng tư sản . Giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng
Cộng sản từng bước xây dựng văn hóa vơ sản , nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa
, tiếp thu giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại , bảo đảm đáp ứng
nhu cầu văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân .
- Trên lĩnh vực xã hội : Kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên
trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp , tầng lớp và sự khác biệt giữa các
giai cấp tầng lớp xã hội , các giai cấp , tầng lớp vừa hợp tác , vừa đấu tranh với
nhau . Trong xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại sự khác biệt giữa nơng thơn ,
thành thị , giữa lao động trí óc và lao động chân tay . Bởi vậy , thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội , về phương diện xã hội là thời kỳ đấu tranh
giai cấp chống áp bức , bất cơng , xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư của xã hội
cũ để lại , thiết lập công bằng xã hội trên cơ sở thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động là chủ đạo .
Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn
đan xen , có những đặc trưng cơ bản : Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa ,
nửa phong kiến , lực lượng sản xuất rất thấp . Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt
, kéo dài nhiều thập kỷ , hậu quả để lại còn nặng nề . Những tàn dư thực dân ,
phong kiến còn nhiều . Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế
độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta . Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ , cuốn hút tất cả các nước
ở mức độ khác nhau . Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong q
trình quốc tế hố sâu sắc , ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc
sống các dân tộc . Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước
vừa đặt ra những thách thức gay gắt . Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội , cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ . Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại , vừa hợp tác vừa đấu tranh , cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia ,
dân tộc . Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hồ bình , độc lập dân tộc , dân
chủ , phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn , thách thức , song theo
quy luật tiến hố của lịch sử , lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội .
Chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng
có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế
giới lâm vào thối trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở
thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực
chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc,
chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi
ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của
Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho
rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ
khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta
cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải
gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã
hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn,
chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một
số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với
thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và
tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất
vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân
dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước
tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là
mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa
chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo
của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi
mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế
giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị
trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng
chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta cịn đang
trong thời kỳ quá độ). Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định
hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế
với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng
chính sách và trong suốt q trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: khơng chờ đến
khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng
kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu
phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đơi với xố đói, giảm nghèo
bền vững, chăm sóc những người có cơng, những người có hồn cảnh khó khăn.
Đây là một u cầu có tính ngun tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền
vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
CNTB ở phương Tây đã phát triển đến giới hạn định tính tổng qt vĩ mơ của nó,
dù có thể cịn tiếp tục tăng trưởng về mặt quy mô định lượng cụ thể. Cả thực tế xã
hội khách quan lẫn tư duy biện chứng cho thấy rõ, CNTB từ năm 1825 đã lâm vào
khủng hoảng kinh tế chu kỳ không thể nào tránh khỏi. Từ cuối thế kỷ XIX nó
chuyển thành chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ), CNTB độc quyền, CNTB độc quyền
nhà nước, và từ giữa thế kỷ XX thành CNTB độc quyền xuyên quốc gia, siêu quốc
gia. Qua đó, khủng hoảng tuy được hạn chế phần nào, nhưng không thể bị loại
trừ. Và khi bùng nổ, thì nó trở nên dữ dội, khốc liệt hơn gấp bội, thậm chí cịn kéo
theo chiến tranh tư bản đế quốc lớn, như hai cuộc đại chiến thế giới thứ nhất và
thứ hai. Tức là từ khoảng 150 năm nay, CNTB thực tế đã bước vào một giai đoạn
tiến triển mới dù có thể sẽ khơng ngắn, nhưng với xu hướng rõ rệt là tất yếu sẽ bị
thay thế bằng một chế độ xã hội phát triển cao hơn. Trong giai đoạn đó, mâu thuẫn
cơ bản giữa đại tư hữu và xã hội hóa cao độ sản xuất sẽ được chuẩn bị giải quyết,
khủng hoảng được khắc phục triệt để, lực lượng sản xuất (LLSX) được giải phóng
hồn tồn.
Nói đến các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hay CNXH hiện thực trên thế giới
một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc hiện
nay theo đúng lý luận Mác - Lê-nin, thì phải thấy đó đều là các xã hội ở TKQĐ
gián tiếp với những trình độ khác nhau.
Ví dụ
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại bước sang giai đoạn mới là chủ nghĩa tư bản
tồn cầu hóa, có nhiều thành tựu trong giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển khoa học và công nghệ, nên đã đạt được năng suất lao động cao. Song,
chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có
của nó; các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các tệ nạn xã hội, nhất là khi đại
dịch COVID-19 diễn ra lại càng làm bộc lộ rõ bản chất chế độ chính trị - xã hội
của các nước này khơng vì sức khỏe, hạnh phúc của đại đa số nhân dân lao động.
Các phong trào đấu tranh phản kháng xã hội đã bùng nổ mạnh mẽ, với những nội
dung và hình thức mới ở nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua, càng
làm bộc lộ rõ sự thật về những mâu thuẫn mang tính bản chất khơng thể hóa giải
của chế độ tư bản chủ nghĩa.
2, tại sao nói nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước khơng cịn ngun nghĩa?
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước khơng cịn ngun
nghĩa mà là “nửa nhà nước”, nhà nước tự tiêu vong khi cơ sở kinh tế, xã hội cho
sự tồn tại của nhà nước khơng cịn nữa. V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ q độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, sự trấn áp vẫn cịn tất yếu, nhưng nó
đã là sự trấn áp của đa số bị bóc lột đối với thiểu số bóc lột. Cơ quan đặc biệt, bộ
máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước
q độ, mà khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”(20), trong đó
“Chính quyền mới với tính cách là chun chính của tuyệt đại đa số, đã có thể duy
trì và đã được duy trì chỉ là nhờ vào sự tín nhiệm của quần chúng đông đảo, chỉ
bằng lôi cuốn một cách tự do nhất, rộng rãi nhất và mạnh mẽ nhất tồn thể quần
chúng tham gia chính quyền… Đó là chính quyền cơng khai đến với mọi người,
làm mọi việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực tiếp
sinh ra từ quần chúng, là cơ quan trực tiếp đại biểu cho quần chúng nhân dân và
cho ý chí của họ” Vì thế, nhà nước xã hội chủ nghĩa là “nhà nước khơng cịn
ngun nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần
tới một chế độ tự quản của nhân dân.
Trong quan điểm của các nhà kinh điển mác - xít, nhà nước là một bộ máy cai trị
của giai cấp thống trị, vì thế chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn thống
nhất và quan hệ biện chứng với nhau. Khi chức năng giai cấp yếu thì chức năng
xã hội mạnh và ngược lại, cho nên, khi chức năng giai cấp yếu đi thì chức năng
xã hội ngày một mạnh hơn và đến khi chức năng giai cấp khơng cịn nữa (khi xã
hội khơng cịn giai cấp) thì nhà nước chỉ cịn chức năng xã hội, lúc đó nhà nước
khơng cịn bản chất của bộ máy cai trị của giai cấp thống trị nữa mà chuyển thành
bộ máy tự quản của cộng đồng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, với những đặc trưng cơ bản về kinh tế (chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất cơ bản) và xã hội (giai cấp công nhân là giai cấp
thống trị, nhưng lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động là thống nhất
với nhau; làm theo năng lực, hưởng theo lao động) của mình, vì thế trong xã hội
này, chức năng xã hội của nhà nước nổi trội hơn cả hay nói cách khác chức năng
giai cấp của nhà nước ngày một yếu đi, chức năng xã hội của nhà nước ngày một
mạnh hơn. Đây là những biểu hiện cho thấy, nhà nước xã hội chủ nghĩa khơng
cịn “ngun bản” nhà nước nữa mà chuyển dần sang thiết chế tự quản, phi giai
cấp của mình.
Ví dụ: Trong nhà nước Việt Nam, trong điệu kiện đổi mới đất nước, kinh tế phát
triển, đời sống nhân dân nâng cao, nhà nước quan tâm thực hiện các chính sách
xã hội nhiều hơn so với thời kỳ chiến tranh, thời kỳ bao cấp, chính sách đối với
thương binh, liệt sỹ, xóa đói, giảm nghèo…
3,Anh chị hãy làm rõ sự xác định xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong văn kiện
đại hội đảng từ năm 1991 đến nay
Cương lĩnh năm 1991 đã đưa ra những quan niệm mới về CNXH và phương
hướng xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là một bước tiến lớn
trong tư duy lý luận của Đảng ta, vừa quán triệt tinh thần cơ bản của học thuyết
Mác-Lênin về CNXH vừa thể hiện sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
Đảng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từng bước hoàn chỉnh thêm
nhận thức về vấn đề này.
Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa
những khuynh hướng tiêu cực đó”. Phải đến Đại hội IX (tháng 4/2001) khái niệm
“kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được nêu trong văn kiện
của Đảng, xem đó là mơ hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên
CNXH ở Việt Nam.
Đại hội X của Đảng đã quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Cùng với việc
xác định Đảng ta là đảng cầm quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới
rất quan trọng về nhận thức của Đảng trong 20 năm qua. Nó vừa nói lên được bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện được
nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh,
phù hợp với thực tế Việt Nam, và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân
dân.
Cho đến nay, mặc dù còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng
chúng ta có thể khái quát, xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn
kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan
hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Ví dụ: Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát huy những
thành tựu to lớn đã đạt được, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện cơng cuộc đổi
mới tồn diện, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đưa nước
ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về vấn đề này, tại Đại hội lần thứ
XI, Đảng ta đã khẳng định: ''Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta,
là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. Có thể nói, nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng sâu sắc và cụ thể hơn; trong đó, ln có sự kế thừa, bổ sung, phát
triển và hoàn thiện dần qua từng giai đoạn. Trong bài tham luận này, chúng tôi
chỉ xin đề cập đến một vấn đề - sự phát triển nhận thức của Đảng về các đặc trưng
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua so sánh giữa Cương lĩnh xây dựng đất nước
trơng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991)
và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI (2011).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), tập 30, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Ban Chấp hành Trung ương, Ban
Chỉ đạo Lý luận: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn
20 năm
7. Đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
11. Đảng cộng sản của Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt Nam ( 2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội
15. Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
16. Marx - Engels (1987), Tuyển tập Marx - Engels, tập 1, NXB Sự thật,