Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận: Tìm hiểu sâu về loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền chèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.69 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có các loại hình nghệ thuật cổ truyền phong phú, 
cho thấy tài hoa và sức sáng tạo của ơng cha ta. Riêng về nghệ thuật 
sân khấu, chúng ta có chèo, tuồng, cải lương, múa rối, ca trù, hát 
xẩm…, trong đó, chèo là sản phẩm tinh thần to lớn của người dân Bắc 
Bộ với những vở chèo nổi tiếng như: Quan âm thị Kính, Tống Trân 
Cúc Hoa, Lưu Bình Dương Lễ,.... Chèo là loại hình nghệ thuật bất hủ. 
Cho tới tận ngày nay, chèo vẫn thu hút sự háo hức đón xem của cơng 
chúng và những vở chèo đã rất thành cơng trong lấy được cảm xúc của 
khán giả. Một số trích đoạn đặc sắc trong chèo thường được sử dụng 
trong các cuộc thi và buổi biểu diễn văn nghệ như Thị Màu lên chùa, 
Súy Vân giả dại,… Nếu được thưởng thức một vở chèo bất kì, người 
ta sẽ vơ cùng khâm phục sức sáng tạo và trí tuệ của con người làm ra 
chèo, từ kịch bản, dàn nhạc cụ đến những động tác, nét mặt, giọng 
điệu của người biểu diễn, tạo ra sức hấp dẫn cho chèo, khiến khán giả 
chú tâm và xúc động trước những cái bi, hài, hùng tráng, trước những 
lời thoại và phân cảnh thấm đẫm tình người mà chèo thể hiện. 
2. Mục đích nghiên cứu
­ Hiểu biết về chèo, những đặc trưng tiêu biểu, cách các nghệ sĩ dân 
gian sáng tạo nên nghệ thuật chèo, điểm chung của các vở chèo và 
giá trị nghệ thuật chèo đem lại.
­ Có tinh thần bảo tồn, trân trọng loại hình nghệ thuật cổ truyền này.
3. Đối tượng nghiên cứu
­ Lịch sử hình thành.


­ Đặc điểm
­ Giá trị nghệ thuật
4. Phương pháp nghiên cứu
­Phương pháp phân tích, tổng hợp


­ Phân tích các tài liệu liên quan tìm ra các hướng nghiên cứu phù hợp 
và khả thi.
­ Phương pháp nghiên cứu thực tế: đạc họa, ghi chép hình ảnh thực tế.
     5. Bố cục tiểu luận
          ­ Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm có 
2 chương cụ thể như sau:
Chương1: Khái qt chung về loại hình nghệ thuật chèo 
Chương 2: Đặc trưng của loại hình nghệ thuật chèo.


NỘI DUNG
Chương 1. Khái qt chung về loại hình nghệ thuật chèo.
1.1.

Một số khái niệm liên quan đến đề tài.

1.1.1 Sân khấu: Sân khấu là một hình thức hợp tác của nghệ thuật sử 
dụng biểu diễn trực tiếp, thường bao gồm việc các diễn viên trình 
bày những trải nghiệm của một sự kiện có thật hay tưởng tượng 
trước những đối tượng khán giả tại chỗ ở một nơi cụ thể, thường 
là nhà hát. Các diễn viên có thể truyền tải kinh nghiệm này đến với 
khán giả thơng qua sự kết hợp của cử chỉ, lời nói, bài hát, âm nhạc, 
và khiêu vũ. Các yếu tố của nghệ thuật, chẳng hạn như khung cảnh 
được dàn dựng và kịch nghệ như ánh sáng được sử dụng để nâng 
cao tính biểu tượng, sự hiện diện và tính tức thời của trải 
nghiệm. Nơi trình diễn sân khấu cũng được gọi tên là sân khấu [1].
1.1.2 Chèo: Chèo là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và 
diễn viên làm phương tiện giao lưu với cơng chúng. Nội dung của 
các vở chèo lấy từ truyện cổ tích, truyện Nơm, mang giá trị hiện 
thực và tư tưởng sâu sắc, đồng thời thể hiện tính dân tộc Việt. Sân 

khấu chèo đơn giản, với các diễn viên có thể khơng chun, biểu 
diễn ngẫu hứng [1].


1.2.

Khái qt chung về loại hình nghệ thuật chèo.

Nếu Kinh kịch của Bắc Kinh là đại diện tiêu biểu của sân khấu truyền 
thống Trung Quốc, kịch nơ là đại diện tiêu biểu của sân khấu Nhật Bản thì 
đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát 
triển mạnh ở các tỉnh miền Bắc với vùng châu thổ sơng Hồng là trọng tâm 
cùng trung du miền núi Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là hai khu vực lan tỏa. Chèo 
phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo là loại hình nghệ thuật mang tính quần 
chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè. Đặc điểm của chèo là 
ngơn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ 
tình.
Bởi đã trải qua q trình lịch sử lâu dài từ thế kỉ 10 tới nay nên 
nghệ thuật sân khấu chèo đã đi sâu vào đời sống xã hội Việt Nam. 
Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: 
lạc quan, nhân ái, u cuộc sống n lành, bình dị, nhưng tràn đầy 
tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc 


[1]. Chúng ta dễ dàng nhận thấy, chèo có đầy đủ các thể loại văn 
học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn,... hơn 
hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, quan 
họ…, cùng với nội dung tu tưởng lành mạnh, giá trị, chèo xứng 
đáng là đại diện tiêu biểu của nghệ thuật sân khấu cổ truyền ở 

nước ta.

Một số vở chèo tiêu biểu: Bài ca giữ nước, Chu Mãi Thần, Đồng tiền Vạn 
Lịch, Hồng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sị ốc hến, 
Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, 
Trương Viên.
Một số trích đoạn của các vở chèo cịn có thể được tách ra để biểu diễn độc  
lập như: Thị Mầu lên chùa & Xã trưởng ­ Mẹ Đốp (vở  Quan Âm Thị  Kính), 
Súy Vân giả  dại (vở  Kim Nham),  Đánh ghen (vở  Tuần ty  Đào Huế), Hồ 
Nguyệt Cơ hóa cáo... Chính vở  Tuần ty Đào Huế  được trích và phát triển từ 
vở Chu Mãi Thần mà ra.
Một số giai điệu chèo cổ : Qn tử dịch, Sử bằng, Đị đưa, Tị vị, Nhịp đuổi, 
Du xn, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường trường trong rừng, Tuyết sương,  
Q giang...
Nghiên cứu về chèo: Hý Phường Phổ Lục (Lương Thế Vinh).


Có thể phân chia chèo làm bốn loại:
Đầu tiên, chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, 
thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền 
q. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngồi sân, 
đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc cơng ngồi hai bên mép chiếu 
tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngơn 
ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng 
là chiếc quạt.
Tiếp theo là một dạng chèo cách tân, chèo cải lương do Nguyễn Đình Nghi 
khởi xướng và theo đuổi, được thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước 
Cách mạng tháng Tám 1945 theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. 
Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu 
trong diễn xuất, xử lý những mơ hình làn điệu chèo cổ, đưa ngun những bài 

dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn 
Đình Nghi gồm các vở chèo nổi tiếng được dựng theo lối chèo này.
Thứ ba, chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm hoặc 
trong đám tang, đám giỗ, tiệc thọ, loại chèo này có nguồn gốc từ việc kết 
nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đơng Anh, Hà Nội).
Cuối cùng, chèo hiện đại ra đời trong q trình hội nhập quốc tế và bảo lưu 
truyền thống văn hóa dân tộc, nghệ thuật chèo của Việt Nam một mặt được 
quảng bá khắp năm châu, mặt khác, cũng tự hiện đại hóa để đáp ứng thị hiếu 
của khán ­ thính giả. Q trình hiện đại hóa ln đi đơi với q trình bảo lưu 
những tinh hoa văn hóa dân tộc được bồi đắp qua nhiều thế kỷ. Hướng hiện 
đại hóa đầu tiên diễn ra sau năm 1954 ở miền Bắc cùng với q trình cuộc 
Chiến tranh Việt Nam. Sau chiến tranh, q trình này vẫn tiếp tục với một số 
vở chèo cải biên phản ánh các chủ đề hiện đại. Sau năm 1954, nhiều đồn 


nghệ thuật chèo Việt Nam đã đi biểu diễn ở các nước xã hội chủ nghĩa và 
được cơng chúng hoan nghênh. Sau Chiến tranh Việt Nam, nghệ thuật chèo 
Việt Nam đã có mặt trong nhiều kỳ liên hoan văn hóa nghệ thuật dân gian ở 
nhiều nước và thu được sự mến mộ của cơng chúng nhiều quốc gia. Về âm 
nhạc, một số điệu hát chèo đã được các nghệ sĩ mạnh dạn cải biên, phối khí 
theo phong cách và nhạc cụ hiện đại nhưng vẫn giữ giai điệu gốc vốn có.

1.3.

Lịch sử hình thành loại hình nghệ thuật chèo.

“Chèo có lịch sử hình thành từ thế kỷ 10, dưới thời nhà Đinh. Kinh đơ Hoa 
Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị 
Trân, một vũ ca tài ba trong hồng cung nhà Đinh. Sau đó chèo phát triển rộng 
ra vùng châu thổ Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ ­ Tĩnh trở ra. Chèo bắt 

nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trị nhại từ thế kỷ 10. Qua thời 
gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trị 
nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một 


mốc quan trọng là thời điểm một con hát qn đội Mơng Cổ đã bị bắt ở Việt 
Nam vào thế kỷ 14, tên gọi Lý Ngun Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên 
nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia 
chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ 
thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.
Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tơng đã khơng cho phép biểu diễn chèo trong 
cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nơng dân, 
kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nơm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã 
được phát triển mạnh ở vùng nơng thơn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt 
đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị 
Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai 
đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích 
truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở 
tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành 
chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ 
tích, truyện Nơm như Tơ Thị, Nhị Độ Mai.” [1]
Chèo gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Những buổi 
diễn chèo xuất hiện mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ 
hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ 
chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hố cổ 
Việt Nam, trong tín ngưỡng, người nơng dân thường đánh trống để cầu mưa, 
trong nghệ thuật, các nghệ sĩ sử dụng trống để đệm cho các buổi biểu diễn 
chèo (phi trống bất thành chèo).



Ch
èo Quan Âm Thị Kính  diễn tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài 
Gịn năm 1972.

Chương 2. Đặc trưng của loại hình nghệ thuật chèo.
2.1. Nội dung


 Các vở chèo thường lấy nội dung từ những truyện cổ tích, truyện Nơm; rồi 
nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư 
tưởng sâu sắc (một số vở chèo hiện đại lấy nội dung từ truyện cổ tích quen 
thuộc như Cây tre trăm đốt, Tấm Cám, Tiếng hát Trương Chi,…) Trong chèo, 
cái thiện ln thắng cái ác và ln có sự đền đáp cho nỗ lực và chịu đựng 
gian khổ của con người, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, ln đỗ đạt, làm quan 
cịn người phụ nữ của họ thì tiết nghĩa tuyệt đối, cuối cùng được đồn tụ với 
phu qn. Các tích trị chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nơm; ca vũ nhạc 
từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn 
những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, 
Hương câm, Đồ điếc, ơng bà họ Sùng,…. Ngồi ra chèo cịn thể hiện tính 
nhân đạo, như trong vở Trương Viên.
Chèo ln gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá 
nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình u 
(Tống Trân­ Cúc Hoa), tình bạn (Lưu Bình­ Dương Lễ, tình thương (tình 
thương gia đình, đồng bào,…)
2.2. Nhân vật trong chèo
 Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khn. Tính 
cách của các nhân vật trong chèo thường khơng thay đổi với chính vai diễn 
đó, ví dụ: Thị Kính nhẫn nhục, từ bi đến cuối đời, Châu Long giữ gìn phẩm 
giá, đức hạnh xun suốt tác phẩm. 
 Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên 

hầu như khơng có tên riêng (đào, kép, lão, mụ, hề). Có thể gọi họ là thầy đồ, 
phú ơng, thừa tướng, thư sinh,... Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật 
như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thốt khỏi tính ước lệ đó và 
trở thành một nhân vật có cá tính riêng.


Những diễn viên đóng chèo khơng chun, hợp nhau trong những tổ chức văn 
nghệ dân gian gọi là phường trị hay phường chèo.
"Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn, có thể coi là “hồn vía” của 
chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong 
cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho 
người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả 
vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính 
bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn. Hề áo ngắn gồm có hề Gậy và hề Mồi. 
Hề Mồi là nhân vật điếu đóm, lính hầu, lính canh nơi quan phủ, tư dinh. Hề 
Gậy là nhân vật hề thường mang theo gậy hoặc địn gánh, theo hầu thầy trên 
đường.  Hề áo dài cịn được gọi là hề tính cách, thường cười cợt, giễu nhại 
trên sân khấu, đả kích, đùa bỡn, nghịch ngợm tự bơi bác mình. 
“Khơng giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền q, 
chèo cịn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nơng thơn” [1]. Khơng ít 
vở chèo cịn thể hiện hình ảnh người phụ nữ truyền thống sẵn sàng hy sinh 
hạnh phúc của bản thân vì tha nhân (nữ chính trong Quan âm Thị Kính) hoặc 
cuộc đời long đong, vất vả, bị động, vương vào cám dỗ (Xúy Vân trong Kim 
Nham).
2.3. Kỹ thuật kịch
“Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại 
hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể 
chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu 
với cơng chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian 
đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó.” [1]

“Để sáng tạo tác phẩm nghệ thuật, nghệ sĩ thường phải có một thế giới 
quan, nhân sinh quan nhất định, đó là hệ thống các quan điểm được đánh giá, 


trong các quan niệm triết, chính trị, đạo đức, tơn giáo. Thế giới quan, nhân 
sinh quan ấy được bộc lộ ra khi nghệ sĩ lựa chọn đối tượng phản ánh hay 
giải quyết các xung đột trong tác phẩm của mình” [2, tr.8]. Điều đó cho thấy, 
những bi, hài, những tình huống xung đột, những phân đoạn thắt nút, mở nút 
hay cách thức khắc họa nhân vật trong các vở chèo cổ và chèo hiện đại đều 
cho thấy tư tưởng nhân đạo, sức sáng tạo và tinh thần trượng nghĩa, trọng 
tình, lạc quan, nhân ái của người làm ra các vở chèo nói riêng và cộng đồng 
người Việt nói chung.
Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, 
phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. 
Ngơn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, 
hoặc những câu ca dao với khn mẫu lục bát rất tự do, phóng khống về câu 
chữ.
Chèo khơng có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu 
Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo 
dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay địi hỏi của 
khán giả. Khơng giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lịng từng 
lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, 
nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính 
có khoảng trên 200.
2.3.1. Yếu tố kịch tính và kĩ thuật tự sự
 Chèo đặc sắc bởi yếu tố kịch tính, trong các vở trèo có những đoạn cao trào, 
thắt nút, cởi nút, có hài xen lẫn với bi. Lấy ví dụ với vở chèo hầu như ai cũng 
biết­ Quan âm Thị Kính, tiếp nối sau phân cảnh đầm ấm Thiện Sĩ học bài, 
Thị Kính khâu áo là phân cảnh nàng bị cả gia đình họ Sùng nghi oan, đay 
nghiến, thóa mạ, gọi cha Thị Kính (Mãng Ơng) đến để trao trả con gái khiến 



người xem khơng khỏi bàng hồng, xót xa. Sau khi mắc oan, trao mình vào 
cửa chùa thì ở hồi hai, khán giả có thể thấy vui, buồn cười trước cảnh Thị 
Mầu vì khơng biết “chú tiểu” Kính Tâm là con gái nên đã tìm mọi cách ve 
vãn, cảnh đối đáp giữa mẹ Đốp và lý trưởng rồi lại buồn rầu, thương xót khi 
chứng kiến Thị Kính dù trao mình vào cửa thiền cũng khơng thể thốt khỏi 
những trái ngang, đày ải mà phải chịu oan khuất lần hai bởi cơ gái lẳng lơ 
Thị Mầu. 
Trong vở chèo Lưu Bình Dương Lễ, sau khi Lưu Bình đạt được cơng danh thì 
khơng cịn thấy nàng Châu Long, người đã giúp đỡ, khích lệ mình, Lưu Bình 
tới nhà Dương Lễ với ý muốn đáp trả lại sự khinh bạc năm xưa mới biết 
Châu Long là thiếp của Dương Lễ và nhận ra ân tình của bạn mình, đó là tình 
huống, những diễn biến độc đáo, hấp dẫn.
  Trong vở chèo Tống Trân Cúc Hoa, người xem có thế thấy kịch tính nối tiếp 
kịch tính, Tống Trân được chọn để trao gả cơng chúa, bị vua thù ghét, sai đi 
sứ bên đất Tần,… cao trào nhất, gay cấn nhất là cảnh Cúc Hoa bị cha ép gả 
cho Viên đình trưởng khi thấy Tống Trân nhiều năm khơng trở về, xung đột 
được giải quyết nhờ sự cứu giúp của thần Sơn Tinh.
 Đó là yếu tố khiến cho các vở chèo trở nên nổi tiếng, được biết đến rộng rãi 
và nhất là để lại dấu ấn, ấn tượng khó phai trong tâm trí khán giả, khiến họ 
muốn xem đi xem lại nhiều lần.
 Có thể thấy, kĩ thuật tự sự trong chèo đạt tới mức điêu luyện. 
2.3.2. Phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật
Khơng chỉ nghệ thuật tự sự,  phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật trong 
chèo cũng vơ cùng tinh tế, độc đáo. Nhân vật thường biểu lộ tính cách một 
cách rõ ràng, nhanh chóng, khơng để khán giả phải đợi chờ hay phỏng đốn.


Trong vở Quan âm Thị kính, nhân vật đóng Thị Kính thì biểu lộ ánh mắt 

nghiêm từ, hiền hịa, phảng phất buồn; trái lại, nhân vật đóng Thị Màu sẽ làm 
vẻ mặt khối chí khi nhìn thấy chú tiểu, đưa đẩy mắt kèm theo cử chỉ múa 
quạt, uốn éo, sao cho tốt lên phong thái của một cơ con gái nhà phú nơng mê 
hoa đắm nguyệt và thiếu đoan chính.
Nhân vật Sùng bà khi mắc nhiếc Thị Kính đã hát rằng: 
“Giống phượng giống cơng
Giống nhà bà đây giống phượng giống cơng
Cịn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ…"
Chính lời thoại cùng với ánh mắt, những cử chỉ khua múa của nhân vật Sùng 
Bà cho thấy tính cách nhân vật này: kiêu ngạo, khinh miệt những người yếu 
thế nghèo khổ hơn mình, cùng với việc khơng cho nàng dâu phân trần, những 
cử chỉ như dìm đầu Thị Kính, chúng ta cịn thấy đây là nhân vật độc đốn và 
thiếu tình người.
2.3.3. Tính chất ước lệ và cách điệu
Tính chất ước lệ và cách điệu thể hiện ở cách bài trí sân khấu cũng như hành 
động, cử chỉ của diễn viên, thậm chí lời thoại, âm thanh… Trên sân khấu 
chèo, khi nhân vật đi một vịng quanh sân khấu, chúng ta có thể hiểu rằng 
nhân vật đã đi một đoạn đường dài. Trong khn khổ sân khấu có giới hạn, 
khán giả vẫn hiểu được đâu là nhà, cổng, đường đi, sơng, núi. Cảnh quan 
thường được mơ phỏng đơn giản hoặc bằng tấm phơng phẳng. Nhân vật có 
thể đứng lên bậc để diễn tả cấp bậc hoặc độ cao địa hình, khoảng cách xa. 
Hành động gieo mình xuống sơng của Súy Vân cuối vở chèo Kim Nham là 
một hành động mang tính cách điệu, hay hình ảnh Thị Mầu làm động tác ngó 
nghiêng khơng giống y hệt như động tác đó ở ngồi đời thật.


ảnh: một sân khấu chèo được bài trí theo lối ước lệ, cách điệu
2.3.4. Ngơn ngữ trong chèo 
 Ngơn ngữ trong chèo phóng khống về câu chữ, song, dễ nhớ do có vần nhịp. 
Ví dụ lời của Thị Kính khi vừa rời khỏi nhà họ Sùng:

“Trách lịng ai đã phụ lịng
Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đơi
Nhật nguyệt rạng soi
Thấu tình chăng nhẽ
Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ
Thay áo quần trá dạng nam nhi”….


Đó là những lời chèo đi vào lịng người.
2.4. Nhạc cụ
Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng 
thời thêm cả sáo. Ngồi ra, các nhạc cơng cịn sử dụng thêm trống và chũm 
chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. 
Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệm cho câu hát. Có câu nói 
" phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm 
diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm 
phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, 
tiêu v.v... Đặc biệt, trống chèo là nhạc cụ quan trọng bậc nhất, chúng ta 
thường nghe thấy tiếng trống với tiết tấu và âm lượng biến đổi chậm­ 
nhanh, to­ nhỏ, hồi trống nhanh, dồn dập trước khi nhân vật bước ra sân 
khấu, khi nhân vật đi vào cánh gà hoặc hồi trống ngắn, trống đệm giúp hỗ 
trợ mơ tả tâm lý nhân vật và tăng thêm tính nhạc.


ảnh: Trích đoạn Thị Mầu lên chùa trong vở chèo Quan âm Thị Kính

2.6. Một vài cảm nhận của bản thân về loại hình nghệ thuật sân khấu 
dân gian chèo.
 Nghệ thuật sân khấu dân gian nói chung và nghệ thuật chèo nói riêng là di 
sản đặc sắc, là món ăn tinh thần ý nghĩa đang được quan tâm, bảo tồn và phát 

triển.
 Giống như các loại hình nghệ thuật khác, một tác phẩm chèo khơng chỉ thỏa 
mãn nhu cầu giải trí mà cịn đem đến những giá trị nhân văn. Một tác phẩm 
chèo có thể mang nhiều lớp ý nghĩa như một bộ phim, song, chính đặc thù 
của nghệ thuật sân khấu đã mang đến sức hấp dẫn bởi tính gần gũi, chân 
thực, cũng vì khán giả thưởng thức trực tiếp tác phẩm chèo nên người biểu 


diễn càng phải cố gắng nhập vai thật xuất sắc, từ ánh mắt đến những cử chỉ 
rất nhỏ.
 Các tác phẩm chèo truyền tải được tư tưởng nhân ái, những tình cảm vị tha, 
bao dung, ngợi ca những mẫu người cao cả đáng q, lên án những tính cách 
tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ và tàn bạo, khơi gợi tình u thương và lịng 
trắc ẩn nơi con người. Khơng chỉ thế, các vở chèo cịn thể hiện nhiều đức 
tính truyền thống tốt đẹp của người Việt, keo sơn, trọng tình trọng nghĩa. 
Các nghệ sĩ chèo đích thực là những người làm nghệ thuật “vị nhân sinh”.
 Về giá trị nghệ thuật, chèo vừa biểu hiện được khả năng sử dụng ngơn ngữ 
tinh tế, khéo léo, điêu luyện qua việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như 
đăng đối, so sánh, ẩn dụ,… ngắt nhịp, gieo vần uyển chuyển, vừa là sự kết 
hợp của múa, diễn xuất và âm nhạc, âm nhạc trong chèo là âm nhạc dân tộc 
Bắc bộ với âm hưởng vui tươi, trong sáng hoặc tha thiết, du dương, đậm 
chất trữ tình. 

Tiểu kết chương.
Chèo là loại hình nghệ thuật quen thuộc trong đời sống sinh hoạt văn hóa 
nghệ thuật nước ta. Vì chèo là nghệ thuật tổng hợp nên muốn thấy được cái 
hay, cái đẹp, cái đặc sắc của chèo, phải trực tiếp đến với các chiếu chèo, các 
vở diễn. Đặc biệt, nếu thuộc được một số làn điệu thì mới thấy được sức 
cuốn hút lạ kỳ của chèo đối với người nghe. Giai điệu của các làn điệu hát 
chèo rất phù hợp với giọng tự nhiên và ngơn ngữ của người Việt. Hát chèo 

được hình thành bắt nguồn từ các làn điệu dân ca, lời hát chèo lấy trong các 


sáng tác văn học dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ là chủ yếu. Ngồi ra các 
làn điệu Chèo cịn chịu những ảnh hưởng từ hát Văn, hát Xẩm, hát Ca trù, hát 
Xoan, hát Quan họ... Hát Chèo là loại hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu 
bền, độc đáo và phổ biến. Nó đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và 
phục vụ đắc lực cho đời sống tinh thần của nhân dân nên chèo ln được 
nhân dân Việt Nam u mến, gìn giữ.  Chèo thể hiện được “quốc hồn”, 
“quốc túy” của dân tộc, ý chí, lý tưởng, ước vọng và phẩm chất cao q của 
người Việt.

Tài liệu tham khảo: 
1. Bách khoa tồn thư mở.
2. Đào Thị Thúy Anh (2010), Nghệ thuật học đại cương, Tài liệu lưu hành 
nội bộ ĐHSP Nghệ thuật TW.


KẾT LUẬN
  Việc tìm hiểu sâu về loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền chèo giúp 
củng cố tinh thần trân quý, gìn giữ, bảo tồn nét đẹp của loại hình nghệ thuật 


này cũng như niềm tự hào về văn hóa, nghệ thuật nước nhà. Nắm và hiểu 
được các đặc trưng của nghệ thuật sân khấu chèo giúp tăng thêm niềm u 
mến, đam mê khơng chỉ với nghệ thuật sân khấu mà cịn với âm nhạc, múa, 
mĩ thuật và văn học, nâng cao thị hiếu nghệ thuật.
 Tìm hiểu và nghiên cứu về nghệ thuật sân khấu chèo nói riêng và các loại 
hình nghệ thuật khác nói chung là việc làm cần thiết của sinh viên theo học 
nghệ thuật dù đang theo học bộ mơn nghệ thuật nào. Nghệ thuật chèo cũng ít 

nhiều chứa đựng yếu tố tạo hình, thường ở mảng bài trí và sắp đặt sân khấu, 
thiết kế đạo cụ,… 
 Nghệ thuật chèo là đặc sản tinh thần của vùng đất Bắc bộ góp phần làm 
phong phú kho tàng văn hóa Việt, là di sản đáng lưu giữ mãi về sau với 
những giá trị to lớn cả về nghệ thuật lẫn nhân văn.  



×