BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN MƠN LUẬT CẠNH TRANH
lơi kéo khách hàng bất chính
GIÁO VIÊN: LỮ LÂM UYÊN
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì cạnh tranh là yếu tố quan trọng
thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế và hiệu quả của nền kinh tế. Vì thế, nhu
cầu tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng là điều thiết yếu. Luật cạnh tranh
(LCT) 2018 ra đời đã tạo nên khung pháp lý bình đẳng, chặt chẽ hơn về cạnh tranh.
Một lĩnh vực quan trọng mà LCT điều chỉnh đó là hành vi cạnh tranh khơng
lành mạnh (CTKLM) trong đó theo báo cáo thường niên Cục quản lý cạnh tranh
2018 thì một trong những hành vi bị khiếu nại nhiều nhất trong thời gian qua là lôi
kéo khách hàng không lành mạnh. LCT 2018 đã bỏ các quy định về quảng cáo cạnh
tranh khơng lành mạnh thay vào đó bổ sung một quy định tồn diện hơn là hành vi
“lơi kéo khách hàng bất chính” vào nhóm hành vi CTKLM bị cấm. Các doanh
nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh bất chính này nhằm tăng lợi ích kinh tế thu về,
tạo lợi thế trong quá trình cạnh tranh so với doanh nghiệp khác. Nhưng các hành vi
“lôi kéo khách hàng bất chính” gây hoang mang cho người tiêu dùng và ảnh hưởng
tiêu cực đến tên tuổi, hoạt động kinh doanh đồng thời gây thiệt hại không nhỏ về
kinh tế của doanh nghiệp khác.
Bài nghiên cứu này tập trung phân tích làm rõ hành vi lơi kéo khách hàng bất
chính theo LCT 2018. Đồng thời nêu lên thực tiễn thi hành từ đó đề xuất một số
kiến nghị hồn thiện các quy định này chặt chẽ, hiệu quả hơn.
I.
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LÔI KÉO KHÁCH HÀNG BẤT
CHÍNH
1.
Thế nào là hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
Lơi kéo khách hàng bất chính thuộc nhóm hành vi CTKLM bị cấm. Vì thế,
đầu tiên chúng ta cần hiểu rõ hành vi CTKLM là gì?
Hiện nay trên thế giới tồn tại 3 quan điểm khác nhau về khái niệm này. Ở Việt
Nam khái niệm này được nêu ra tại điều 3.6 LCT 2018: “Là hành vi của doanh
nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn
mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”. Theo khái niệm này ta hiểu không phải tất
cả hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp đều là hành vi CTKLM
mà chỉ gồm những hành vi của doanh nghiệp trái với các chuẩn mực LCT gây thiệt
hại cho đối thủ cạnh tranh trên cùng thị trường liên quan.
2.
Hành vi lơi kéo khác hàng bất chính gây cản trở cạnh tranh
2.1. Khái niệm lơi kéo khách hàng bất chính
Pháp luật Việt Nam tuy chưa có 1 quy định cụ thể nào định nghĩa hành vi “ lôi
kéo khách hàng bất chính”. Nhưng dưới góc nhìn LCT, ta hiểu rằng lơi kéo khách
hàng là làm tác động vào ý chí mua hàng của khách hàng từ đó khiến khách hàng
lựa chọn sử dụng hàng hóa dịch vụ của mình. Việc xác định hành vi lơi kéo của
doanh nghiệp đó có phải là CTKLM hay không dựa trên ranh giới “bất chính”.
Hành vi đó khơng lành mạnh khi nó khơng chính đáng, trái với các nguyên tắc,
chuẩn mực theo pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác.
2.2. Đặc điểm cơ bản
Thứ nhất, chủ thể thực hiện là doanh nghiệp. Vì là một hành vi CTKLM nên
chủ thể thực hiện hành vi lơi kéo bất chính tương tự với chủ thể CTKLM. Tuy
nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng “ doanh nghiệp” trong LCT khác biệt so với doanh
nghiệp trong LDN, LTM mà chúng ta đã biết. Bởi so với LDN, trong LCT không
nêu khái niệm nhưng theo điều 2.1 LCT 2018 thì xác định là chủ thể “ doanh
nghiệp” khơng chỉ là tổ chức kinh tế mà cịn gồm cả cá nhân kinh doanh. Và doanh
nghiệp cũng không nhất thiết phải tiến hành hoạt động kinh tế nhằm mục đích lợi
nhuận ( bảo hiểm xã hội là 1 ví dụ) như LTM.
Thứ hai, mục tiêu và đối tượng hướng đến là khách hàng. Tác động đến quyết
định sử dụng hàng hóa,dịch vụ của khác hàng từ đó lơi kéo khách hàng, thu về lợi
nhuận kinh tế lớn.
Thứ ba, phương thức thực hiện: doanh nghiệp vi phạm đưa những thông tin
không đúng sự thật hoặc không đầy đủ, nửa vời làm khách hầng nhầm lẫn và so
sánh phiến diện không chứng minh được nội dung đã so sánh sản phẩm của mình
với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác .
2.3. Các hành vi lôi kéo khách hàng bất chính
Gồm 2 dạng hành vi chính quy định tại điều 45.5 LCT 2018:
Cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp với tính chất gian dối hoặc gây
nhầm lẫn nhằm thu hút khách hàng
Để xác định hành vi này ta dựa trên 2 yếu tố điều 45.5.a LCT 2018 quy định,
gồm: (1) Phương tiện để thực hiện hành vi này là thông tin về doanh nghiệp và các
thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó như: hàng hóa,
dịch vụ, khuyến mại, điều khoản giao dịch. (2) Mục đích thu hút khách hàng các
doanh nghiệp khác bằng việc sử dụng các phương tiện trên tác động đến quyết định
của khách hàng.
Xét về yếu tố lỗi thì hành vi trên gồm 2 trường hợp. Đầu tiên là trường hợp
doanh nghiệp cố ý đưa ra các thông tin không trung thực hoặc nửa vời nhằm làm
cho khách hàng hiểu sai lệch về hàng hóa dịch vụ của mình. Trường hợp tiếp theo,
có thể do lỗi vơ ý khi DN cung cấp thơng tin chính xác nhưng thiếu đã gây nhẫm
lẫn cho khách hàng.
Ví dụ: DN X để thơng tin trên sản phẩm bìa sản phẩm tẩy rửa Z có chức năng
diệt khuẩn 99%, khiến khách hàng hiểu rằng vi khuẩn nào cũng diệt được nhưng
thực ra sản phẩm A đó chỉ diệt được một số loại vi khuẩn. Như vậy DN X đã đưa ra
thông tin gian dối về hàng hóa của DN A vi phạm điều 45.5.a LCT 2018.
Một ví dụ thực tế nữa cho hành vi này là việc mỳ Omachi đưa thông tin trên quảng
cáo là 100% làm từ khoai tây. Trong khi đó thành phần khoai tây thật sự chỉ có 5%
làm người tiêu dùng tin rằng sản phẩm này chứa tồn thành phần tốt nhưng thực tế
thì thành phần đó lại chiếm rất ít1.
“So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung”
Hai tiêu chí mà điều 45.5.b LCT 2018 đặt ra để xác định hành vi này là hàng
hóa, dịch vụ bị mang so sánh là sản phẩm cùng loại và nội dung so sánh đó doanh
nghiệp vi phạm khơng chứng minh được.
Ví dụ: công ty A chuyên sản xuất nước mắm đã đăng các bài viết giới thiệu,
quảng cáo sản phẩm mới trong đó so sánh nước mắm do cơng ty A sản xuất có
nguồn gốc an tồn, đạt chuẩn quy định an tồn về thạch tín hơn so với nước mắm
1 tham khảo ngày 29/4/2020
của công ty B đã làm cho một số khách hàng nghi ngờ về chất lượng sản phẩm của
công ty B và không mua sử dụng nữa.
3.
Chế tài xử phạt
Chế tài xử phạt rất là quan trọng vì đảm bảo tính răn đe các cá nhân, tổ chức
vi phạm.Theo nguyên tắc thì chủ thể vi phạm LCT sẽ bị xử phạt hành chính, hình
sự hoặc dân sự, kèm theo một số hình phạt bổ sung tùy vào mức độ và tính chất vi
phạm2.
Đa số các hành vi CTKLM thì thường chỉ xử phạt về hành chính. Theo NĐ
75/2019/NĐ-CP thì hành vi lơi kéo khách hàng bất chính sẽ bị phạt tiền từ
100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng và phạt hai lần mức này nếu vi phạm thực
hiện trên phạm vi từ hai tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương trở lên3.
Điều 110 LCT quy định rằng những hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường. Như vậy, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về lợi ích do
hành vi lơi kéo khách hàng bất chính có thể khởi kiện u cầu bồi thường.
II. THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LƠI
KÉO KHÁCH HÀNG BẤT CHÍNH
1.
Thực tiễn thi hành quy định lơi kéo khách hàng bất chính hiện nay
Nhìn chung quy định về hành vi lôi kéo khách hàng bất chính trong LCT 2018
tồn diện và có ưu điểm nhiều hơn luật cũ:
Có phạm vi rộng hơn: nếu như LCT 2004 trước đây gói gọn các hành vi đưa
thơng tin khơng chính xác hoăc gây nhầm lẫn và so sánh với hàng hóa dịch vụ của
doanh nghiệp khác nhằm lơi kéo khách hàng trong hoạt động quảng cáo. Thì LCT
2018 đã có những cải thiện đáng kể khi khơng giới hạn phạm vi, mà doanh nghiệp
nào có hành vi lơi kéo khách hàng bất chính theo quy định tại điều 45.5 LCT trên
bất kì lĩnh vực nào đều là vi phạm.
Đối với hành vi so sánh hàng hóa, dịch vụ cùng loại với doanh nghiệp khác thì
LCT 2018 khơng yêu cầu đó phải là so sánh trực tiếp mà mọi tích chất so sánh trực
tiếp hay gián tiếp sản phẩm cùng loại nếu không chứng minh được nội dung thì sẽ
vi phạm. Như vậy LCT 2018 cho phép những so sánh mà chứng minh được nội
dung4. Ngoài ra, mức xử phạt hành chính đã được tăng lên để đảm bảo tính răn đe.
Sau gần 1 năm thi hành thì LCT 2018 cũng cho thấy một số bất cập trong quy
định này, cụ thể:
2 Điều 110 Luật Cạnh tranh 2018
3 Điều 20 Nghị định 75/2019/NĐ-CP Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh
4 />tham khảo ngày 28/4/ 2020
Một là luật quy định hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫm
nhưng không đưa ra tiêu chí để đánh giá vì như theo phần phân tích quy định trên
thì việc đưa thơng tin gây nhầm lẫn nếu xét trên yếu tố lỗi thì có nhiều cách hiểu.
Hai là luật quy định hành vi so sánh sản phẩm, dịch vụ cùng loại nhưng khơng
có bất kỳ quy định nào hướng dẫn, cũng như đưa ra các tiêu chí cụ thể để xác định
hàng hóa dịch vụ đó có cùng loại hay khơng.
Việc xác định 2 vấn đề nêu trên có vai trị quan trong q trình giải quyết khiếu nại
vi phạm. Trong khi đó NĐ 35/2020/NĐ-CP hướng dẫn thi hành LCT 2018 khơng
có một quy định nào hướng dẫn cụ thể hai bất cập nêu trên.
Ba là việc bồi thường thiệt hại do hành vi CTKLM bị cấm nói chung và hành
vi lơi kéo khách hàng nói riêng còn quy định chung chung gây nên sự chồng chéo.
Cụ thể Điều 110 LCT quy định về bồi thường thiệt hại với nguyên tắc “theo quy
định của pháp luật”.Trong khi đó theo LCT thì UBCTQG có thẩm quyền “giải
quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh” như vậy việc giải quyết bồi
thường thiệt hại do CTKLM bị cấm gây ra không thuộc thẩm quyền của UBCTQG
LCT. Do đó căn cứ vào quy định BLDS 2015 thì TAND có thẩm quyền sẽ giải
quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do CTKLM bị cấm gây ra. Tuy nhiên Luật
khơng có quy định cụ thể nào về trình tự dẫn đếnTòa án cũng phải tiến hành điều
tra, xem xét tính khơng lành mạnh của hành vi bị khiếu nại bồi thường.
2.
Phân tích 1 vụ việc thực tế
Vào ngày 11/1/2020, trong buổi ra mắt sản phẩm xe điện 2 bánh eSH của Pega
đã sử dụng hình ảnh xe SH 2020 của hãng Honda so sánh với xe điện eSH. Ơng
Đồn Ngọc Linh – CEO của Pega không ngần ngại khẳng định rằng: “sản phẩm
eSH của mình đã học theo thiết kế của SH, thế nhưng nó đẹp hơn”. Ngày 14/2 phía
Honda gửi cơng văn u cầu Pega chấm dứt việc dùng hình ảnh Honda SH so sánh
để quảng cáo xe điện eSH và sửa chữa nội dung trong buổi ra mắt; nếu Pega không
tuân thủ, Honda sẽ tiến hành khởi kiện. Nhưng ơng Đ.N.Linh phúc đáp rằng việc
dùng hình ảnh Honda SH để so sánh là điều bình thường trong giới cơng nghệ và
pega khơng quảng cáo, hình ảnh và video so sánh rộng rãi ra công chúng mà chỉ
trong buổi ra mắt nội bộ. Pega cũng đã gỡ bỏ video phát trực tiếp trên fanpage
hãng5. Vụ việc đã gây ra tranh cãi lớn. Liệu hành vi của Pega có vi phạm LCT
không? Nếu vi phạm Pega sẽ bị xử phạt thế nào?
Đầu tiên căn cứ theo điều 2.1 LCT 2018 thì chủ thể trong vụ việc này là Pega.
Hành vi so sánh của Pega đã vi phạm điều 45.5.b LCT 2018 quy định về cách
hành vi CTKLM bị cấm: “So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch
vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng khơng chứng minh được nội dung”. Vì
5 tham
khảo ngày 29/4/2020
việc so sánh rằng eSH có kiểu dáng đẹp hơn, động cơ bền bỉ hơn Honda SH là
khơng có căn cứ chứng minh. Và Điều 45.5.b LCT 2018 không quy định việc so
sánh phải được quảng cáo phát tán rộng rãi nên Pega khơng thể biện minh khơng vi
phạm vì đó chỉ là buổi ra mắt nội bộ. Điều gây tranh cãi ở đây là việc eSH là xe
điện còn Honda SH là xe máy tay ga thì có được xếp là hàng hóa cùng loại hay
khơng. Tuy LCT khơng quy định cụ thể thế nào thì được xếp vào cùng loại nhưng
chúng ta biết rằng việc xác định chủng loại dựa trên 4 yếu tố: cùng chức năng,
nhóm khách hàng tiêu thụ, kênh phân phối, giá bán. Hai sản phẩm eSH và Honda
SH đều là phương tiện 2 bánh dùng để di chuyển, có cùng phân khúc thị trường và
khách hàng do đó được coi là hàng hóa cùng loại.
Mức xử phạt mà Pega phải chịu cho hành vi so sánh nhằm lơi kéo khách hàng
bất chính vi phạm LCT là bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng
theo quy định tại Điều 20.1 nghị định 75/2019/NĐ-CP.
Ngoài LCT Pega cịn có dấu hiệu vi phạm LQC khi so sánh và LSHTT khi đã học
theo thiết kế của SH và tên gọi eSH gần giống với SH dễ gây lầm tưởng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Thứ nhất nên bổ sung các quy định về hướng dẫn xác định hành vi đưa thông
tin gian dối và đưa thông tin gây nhầm lẫn. Đối với hành vi gây nhầm lẫn của
doanh nghiệp nếu do lỗi vô ý thì biện pháp xử phạt nên giảm nhẹ hơn so với hành
vi cố ý đưa thơng khơng chính xác gây nhầm lẫn .
Thứ hai, liệt kê các tiêu chí để xác định sản phẩm cùng loại như: đặc tính
tương tự nhau, cùng mục tiêu sử dụng, phân khúc thị trường, nhóm khác hàng
hướng đến. Hoặc có thể quy định sử dụng tiêu chí xác định sản phẩm thay thế trên
thị trường liên quan trong LCT để xác định sản phẩm cùng loại.
Thứ ba, nên có quy định cụ thể hơn về việc bồi thường thiệt hại do vi phạm
CTKLM để tránh sự chồng chéo như: chủ thể bị thiệt hại gửi đơn khiếu kiện đòi
bồi thường lên tòa án sau khi đã có kết luận điều tra của UBCTQG, tạo nên sự phối
hợp thống nhất giữa UBCT và Tòa án.
Ngồi ra, nên tun truyền người dân tìm hiểu quy định pháp luật trở thành người
tiêu dùng thông minh, lên án và khơng sử dụng những sản phẩm có dấu hiệu
CTKLM.
Kết luận
Ngày nay, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Nhiều doanh
nghiệp không dựa vào nỗ lực của mình mà bằng cách sử dụng các thủ đoạn tác
động xấu đến khách hàng để tạo lợi thế trên thị trường. LCT 2018 đã quy định khá
toàn diện và đầy đủ về các hành vi lôi kéo khách hàng bất chính. Với quy định này
phạm vi hành vi bị xử được mở rộng hơn tạo nên sự minh bạch, tránh tính trạng bỏ
xót. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số bất cập do chưa có quy định hướng dẫn
cụ thể. Bài viết cũng đã đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện quy định này chặt
chẽ hơn giúp cho quá trình giải quyết khiếu nại nhanh chóng, thống nhất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản quy phạm pháp luật:
1.
( truy cập ngày
26/05/2020).
2.
Trần Linh Huân (2018), Giá cung ứng dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới
góc độ pháp luật mơi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày 28/05/2020).
3.
Trần Linh Huân (2018), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ quản lý
chất thải nguy hại dưới góc độ luật môi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày
26/05/2020 ).
4.
( truy cập ngày
26/05/2020).
5.
Trần Linh Huân (2018), Giá cung ứng dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới
góc độ pháp luật môi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày 28/05/2020).
6.
Trần Linh Huân (2018), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ quản lý
chất thải nguy hại dưới góc độ luật mơi trường xem trực tuyến tại
( truy
cập ngày 26/05/2020).
7.
Trần Linh Huân (2018), Giá cung ứng dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới
góc độ pháp luật mơi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày 28/05/2020).
8.
Trần Linh Huân (2018), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ quản lý
chất thải nguy hại dưới góc độ luật môi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày
26/05/2020 ).
9.
( truy cập ngày
26/05/2020).
10. Trần Linh Huân (2018), Giá cung ứng dịch vụ quản lý chất thải nguy hại dưới
góc độ pháp luật mơi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày 28/05/2020).
11. Trần Linh Huân (2018), Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ quản lý
chất thải nguy hại dưới góc độ luật mơi trường xem trực tuyến tại
( truy cập ngày
26/05/2020 ).
12. ai-nguy-hai-duoi-goc-do-luat-moi-truong ( truy cập ngày 26/05/2020 ).