Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích nội dung và ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng T2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.52 KB, 5 trang )

Phân tích nội dung và ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng T2/1930?
- Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
+ Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối
nhiệm vụ chiến lược, phương pháp hoạt động... của một chính đảng, hoặc một
tổ chức chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cương
lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những
điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”. Cương lĩnh
chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của tồn Đảng, là ngọn cờ tập
hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội nhằm phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách
mạng của Đảng. Cương lĩnh là văn bản quan trọng và cao nhất của Đảng, có
tính chiến lược lâu dài nhằm định hướng, chỉ đạo to lớn, toàn diện đối với sự
nghiệp cách mạng của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Hai văn
kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng : Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã
phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách
mạng Việt Nam-đó là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
+ Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: từ
việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có cơng nhân,
nơng dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Mục tiêu
chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung
của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vơ sản, gắn giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến lược nêu trên đã chỉ rõ tính chất và
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam-một nước thuộc địa nửa
phong kiến là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân
tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.


+ Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ cơng
nơng binh. Tổ chức ra quan đội công nông”. Các nhiệm vụ trên đây đã phản ánh
đúng mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và đáp
ứng đúng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là đánh đuổi đế
quốc xâm lược để giành lại độc lập cho dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc được đặt đúng tầm quan trọng của nó trong mối quan hệ với đấu tranh


giai cấp. Mục tiêu đó ln ln gắn liền với giải phóng giai cấp cơng nhân, giai
cấp nơng dân và các tầng lớp nhân dân lao động: chống đế quốc giành độc lập
cho dân tộc, chống phong kiến giành ruộng đất cho dân cày là mục tiêu căn bản
trong giai đoạn đầu để tạo điều kiện đi tới chủ nghĩa xã hội. Ở một nước thuộc
địa, thì vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu là giải phóng dân tộc, giành độc lập
hoàn toàn.
+ Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự
do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền,v.v. c) Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng
hố”. Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc
trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư
bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý;
thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành
luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương
diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh
tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, tồn
diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang,
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải
phóng cho hai giai cấp cơng nhân và nơng dân. (Sau đó đã được cụ thể hoá
trong 10 điểm ở Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng). Trong đó, phương diện

kinh tế thể hiện rõ việc xác định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt chỉ tập trung đánh
đế quốc, giải phóng dân tộc, nên mới chỉ: “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”; cịn đối với địa chủ thì phải phân
biệt và tập trung địa chủ phản cách mạng, nên chỉ mới chủ trương “Quốc hữu
hóa tồn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An
Nam chia cho nông dân nghèo”.
+ Về lực lượng cách mạng, ngay khi phân tích tình hình xã hội Việt Nam
sau khi Pháp thống trị, Cương lĩnh đã chỉ rõ thái độ chính trị của từng giai cấp,
trong đó chỉ rõ “ tư bản bản xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ đi
về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế
quốc chủ nghĩa”. Do vậy, Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng
là cơng nhân, nơng dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương
lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để
tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức,trung nơng… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Trên cơ sở nắm vững đặc
điểm sự phân hoá giai cấp của xã hội Việt Nam sau khi Pháp xâm lược và khai
thác thuộc địa, Cương lĩnh đã đánh giá sát thực thái độ của các giai tầng trong
xã hội, từ đó, khơng chỉ làm phân hố lực lượng của kẻ thù, mà còn đã xác định


tập hợp, đoàn kết với tất cả những giai tầng có tinh thần yêu nước để tạo nên
sức mạnh tổng hợp, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trước mắt là giải phóng
dân tộc. Đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc về việc tập hợp lực lượng cách
mạng ở Việt Nam, là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu
nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ
các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

+ Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh
khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải
phóng dân tộc, chứ không thể là con đường cải lương thỏa hiệp “không khi nào
nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách
lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng
về phía giai cấp vơ sản, cịn “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập
hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
+ Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế, Cương lĩnh phát triển quan
điểm về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vơ
sản ở chính quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Cương lĩnh chỉ rõ: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập,
phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô
sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Như vậy, ngay từ khi thành
lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự lực tự cường, đồng thời xác
định rõ lực lượng đồng minh quốc tế đó là sự đồn kết, ủng hộ của các dân tộc
bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Đây là sự
quán triệt sâu sắc tinh thần của khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản “Vơ
sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đối với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Cương lĩnh khơng chỉ đặt cách mạng Việt Nam trong dịng
chảy của cách mạng giải phóng dân tộc thế giới, nhằm phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ
chặt chẽ và sự chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc với phong trào cách
mạng vơ sản thế giới. Đồng thời, Cương lĩnh cịn phân hố kẻ thù khi xác định
đánh đổ thực dân Pháp, nhưng chủ trương đồn kết với giai cấp vơ sản thế giới,
trong đó, “nhất là đồn kết với giai cấp vơ sản Pháp”.
+ Sau khi xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định : “Đảng
là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Đây chính là
nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên
của Đảng mới được thành lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để

lãnh đạo được thì phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, Đảng
muốn “thu phục” thì phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; Đồng thời “làm cho giai cấp minh lãnh


đạo được dân chúng” thì Đảng cần phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh toàn diện về cả tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức,
mới “có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. Những nội dung cơ bản trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được hoạch định
trên cơ sở lý luận khoa học vững chắc và trên cơ sở tổng kết, khảo nghiệm thực
tiễn phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Ý nghĩa lịch sử của cương lĩnh chính trị đầu tiên:


Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng mặc dù còn “vắn tắt”, nhưng đã
phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản
và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng
đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân
tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách của
cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm
vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến
lược và sách lược đã đề ra.



Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản

cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt
Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam,
phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam.



Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Sự vận dụng phù hợp với thực tiễn và phát triển sáng tạo tự nó
đã mang giá trị lý luận và thực tiễn, khẳng định tính khoa học và tính hiện
thực của nội dung Cương lĩnh. Giá trị lý luận của Cương lĩnh là ở chỗ, lần
đầu tiên thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa như Việt Nam
khơng thể giành thắng lợi hồn tồn và triệt để, nếu khơng gắn liền với
giải phóng giai cấp những người lao khổ, giải phóng xã hội, mang lại
quyền tự do, hạnh phúc cho con người. Hai cuộc giải phóng vĩ đại đó
(giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, xã hội) chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.



Vận dụng học thuyết Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đầu tiên đã giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập trường khoa học chủ nghĩa


Mác-Lênin. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã thể hiện quan
điểm khoa học và cách mạng của Mác và Ăngghen trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành

dân tộc”1. Cương lĩnh cũng đã phát triển sáng tạo những quan điểm của
Lênin và Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Chính
vì vậy, con đường cách mạng vơ sản mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng đã khẳng định là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam từ năm
1930 đến nay.



×