ĐỀ TÀI 07: Thắng lợi nào của cách mạng Việt Nam được đánh giá
là một chiến công vĩ đại của dân tộc trong thế kỷ XX và “đi vào lịch sử
thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân
dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân”. Hãy cho
biết đó là thắng lợi nào của cách mạng Việt Nam? Bằng kiến thức đã
học, anh/ chị hãy nêu rõ diễn biến, kết quả và ý nghĩa lịch sử của chiến
thắng trên. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với bản thân.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................3
1.
THẮNG LỢI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ..........................3
1.1.
Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................3
1.2.
Diễn biến chiến dịch.............................................................................5
1.2.1.
Tình hình trước chiến dịch..................................................................5
1.2.2.
Chuẩn bị cho chiến dịch......................................................................7
1.2.3.
Đợt tấn công lần thứ nhất..................................................................11
1.2.4.
Đợt tấn công lần thứ hai....................................................................12
1.2.5.
Đợt tấn công thứ ba...........................................................................14
1.3.
Kết quả chiến dịch.............................................................................15
2.
Ý NGHĨA LỊCH SỬ......................................................................................16
3.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN.................................................................18
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................21
TÀI LIỆU KHAM KHẢO.......................................................................................23
PHỤ LỤC................................................................................................................24
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi
bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng
thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hồn
tồn". "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các
dân tộc bị áp bức trên thế giới". Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn
toàn thuộc về nhân dân Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ không những
ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son rực sáng nhất trong thế kỷ XX, mà
ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, trái lại, những
bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là lý do chọn đề tài của nhóm em.
Với mục đich là làm rõ chiến dịch điện biên phủ , chứng minh một chân lý của
thời đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối
đúng đắn, sáng tạo, biết đồn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định
thắng lợi . Qua đó sẽ rút ra bài học cho thế hệ trẻ đặc biệt các bạn học sinh, sinh viên
đang ngồi trên ghế nhà trường.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất trong 9 năm kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, mở đường đi tới thắng lợi của ta tại Hội nghị
Giơnevơ năm 1954.Chiến dịch Điện Biên Phủ chỉ diễn ra trong gần 2 tháng
(13/3/1954-7/5/1954) nhưng công cuộc chuẩn bị cho thắng lợi của chiến dịch đã diễn
ra trong rất nhiều ngày, tháng đầy thử thách với biết bao đóng góp to lớn của nhiều
tầng lớp nhân dân ta, trong đó nổi bật là đóng góp của thế hệ trẻ Việt Nam ở hậu
phương và tiền tuyến. Do đó nhóm em xin trình bày lại diễn biến, kết quả và ý nghĩa
của chiến dịch này.
2
PHẦN NỘI DUNG
1.
1.1.
THẮNG LỢI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ
Hoàn cảnh lịch sử.
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, nằm ở phía tây của vùng rừng núi Tây
Bắc Việt Nam, bốn bên là núi hoặc những quả đồi nối tiếp nhau. Dưới con mắt của các
nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Điện
Biên Phủ nằm sát biên giới Việt- Lào, cách biên giới các nước Trung Hoa, Miến Điện,
Thái Lan từ 150 đến 300km, cách Hà Nội gần 500km. Phía Đơng và Đơng Bắc giáp
tỉnh Sơn La, phía Tây Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), phía Tây và Tây Nam
giáp hai tỉnh Phong Saly và Luang Prabang (Lào) với 170km đường biên giới, Điện
Biên là tỉnh có chung đường biên giới với hai quốc gia Trung Quốc và Lào. Giờ đây
Điện Biên Phủ sẽ trở thành ngã tư chiến lược quan trọng không những đối với chiến
trường Đơng Dương mà cịn đối với miền Đơng Nam Á. Một trục giao thông nối liền
các miền biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc. Đó là “một cái chìa khóa
để bảo vệ Thượng Lào”, một “bàn xoay” có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến
Điện và Trung Quốc. Do nắm được tầm quan trọng chiến lược của Điện Biên Phủ nên
Pháp quyết định xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đơng
Dương. Bên cạnh đó, những tính tốn của Nava về khó khăn của Việt Minh đã khiến
viên tướng này hài lịng. Việt Minh khơng thể mở đường lên Điện Biên Phủ bằng sức
lao động thủ công nên không thể đưa pháo vào trận địa và vận chuyển cơ giới qua
vùng Tây Bắc hiểm trở, nếu có thì cũng là rất ít. Cũng vì thế, vấn đề lương thực là một
vấn đề nan giải đối với một lực lượng chiến đấu lên đến hàng chục vạn người. Việt
Minh không thể chịu nổi thời tiết, khí hậu khắc nghiệt ở Tây Bắc. Là những người
miền xuôi, họ sẽ đau ốm, mệt mỏi khơng thể duy trì được sức chiến đấu liên tục. Mùa
mưa tới vận tải khó, đời sống chiến hào sẽ thiếu thốn, sẽ xảy ra nạn dịch lúc đó khơng
đánh cũng thua. Bộ đội chủ lực Việt Nam không thể nào tiếp cận được các trung tâm
đề kháng của Tập đồn cứ điểm mà khơng bị thương vong và không thể nào đánh liên
tục cả ngày lẫn đêm kéo dài hằng tháng trời. Trên thực tế những gì đã diễn ra sau đó
3
khơng nằm trong bất cứ sự tính tốn nào của Nava. Tướng Giáp cũng có những tính
tốn của riêng mình và đó là những tính tốn của người Việt Nam trên mảnh đất mà họ
được quyền làm chủ Ngày 07 tháng 5 năm 1954, tiếng kèn Điện Biên Phủ vang dội
khắp năm châu, đánh thức phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế giới, đe dọa
thành trì của chủ nghĩa thực dân.
Trong nước
Vào năm 1947 ta làm phá sản âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp. Điều này
giúp ta thay đổi vị thế trên chiến trường từ thế bị động, yếu chuyển sang thế chủ động.
Pháp buộc phải chiến đấu lâu dài với ta.
Thế giới
Tại Đông Âu, các nước theo XHCN dần ổn định. Nhà nước CHND Trung Hoa –
ngay sát Việt Nam được thành lập năm 1949. Đặc biệt thời điểm 1950 -1951 vấn đề
ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thừa nhận, những giúp đỡ về
quân sự được tiến hành.
Pháp dần phụ thuộc vào Mỹ do những hậu quả về người và của hết sức nặng nề
để lại sau thế chiến thứ 2. Chúng xây dựng Điện Biên Phủ thành một “pháo đài không
thể công phá”. Từ đây, Điện Biên Phủ trở thành trung tâm trong kế hoạch của Pháp
được xây dựng kiên cố với 49 cứ điểm, 2 sân bay và 3 phân khu.
Về phía địch
-
Vì kế hoạch Na-va không thực hiện được theo dự kiến, Pháp quyết định xây dựng
Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với lực lượng lúc
cao nhất lên đến 16.200 quân, được bố trí thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ gồm
49 căn cứ điểm.
-
Pháp và Mỹ đều đưa Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm”. Điện Biên Phủ
trở thành địa điểm trung tâm của kế hoạch Nava.
Về phía ta
4
-
Từ tháng 11-1953 đến tháng 2- 1954, bộ đội ta liên tục mở các cuộc tiến công ở Tây
Bắc, Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, Thượng Lào và các chiến trường phối hợp khác.
Chiến thắng đó đã làm cho kế hoạch Na-va của địch đứng trước nguy cơ bị phá sản.
-
Đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, vùng giải phóng đã mở
rộng, hậu phương đã lớn mạnh, quân đội ta đã trưởng thành, có đủ tinh thần và lực
lượng đảm bảo cho việc giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ.
-
Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở chiến dịch Điện Biên Phủ,
nhằm tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng Tây Bắc tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc đấu tranh ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Ta đã huy động đại bộ phận lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch gồm 4 đại đoàn bộ
binh (308, 312, 316, 304), một đại đoàn pháo binh, nhiều tiểu đồn cơng binh, thơng
tin, vận tải, quân y,…thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương và các cấp để
đảm bảo chi viện cho tiền tuyến, trong một thời gian ngắn có khoảng 55 nghìn qn,
hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, 27 nghìn tấn gạo… được đưa ra mặt trận. Như vậy,
Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược của quân dân Việt.
1.2.
Diễn biến chiến dịch.
1.2.1. Tình hình trước chiến dịch.
Vào ngày 2/9/1945 Nhật Bản chính thức kí văn kiện đầu hàng quân đồng minh
chấm dứt cuộc chiến thảm khóc bậc nhất loài người. Mọi đau thương tưởng đâu kết
thúc thế nhưng câu chuyện lại dường như mới chỉ bắt đầu tại bán đảo Đơng Dương.
Người Nhật lúc đó mất quyền kiểm soát các thuộc địa và người Phát đã trở lại với
quyết tâm tái chiếm liên ban Đông Dương mà ngày nay là Lào Campuchia và Việt
Nam, cuộc chiến này được nhiều người gọi là chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và
người Việt ta quen gọi nó là kháng chiến chống Pháp, lực lượng tham chiến có thể
điểm danh như sau. Bên thứ nhất là lực lượng liên Hợp Pháp bao gồm quân đội viến
chinh Pháp, binh đoàn Lê Dương cùng các lực lượng bản xứ của quân đội quốc gia
Việt Nam, quân đội vương quốc Lào, quân đội vương quốc Campuchia nằm trong Liên
hợp Pháp. Bên còn lại là lực lượng Việt Nam dân chủ cộng hòa còn được gọi là Việt
minh viết tắt của cụm từ việt nam độc lập đồng minh hội phối hợp cùng quân đội
5
kháng chiến của lào và Campuchia quân đội của việt nam dân chủ cộng hòa được đặt
tên là quân đội nhân dân việt nam cần nói thêm rằng binh đồn Lê Dương là một đội
quân đánh thuê, họ không tuyên thệ trung thành với Pháp mà tuyên thệ trung thành với
binh đồn Lê Dương, người ta khơng địi hỏi gì về quá khứ của những người gia nhập.
Lính Lê Dương đến từ các khu vực khác nhau, trong đó lính đức chiếm 80% binh đoàn
này tại VN phần lớn họ là từ lực lượng tù binh phát xít Đức.
Xung đột thật sự nổ ra 23/9/1945 khi pháp theo chân Anh tiến vào miền nam Việt
Nam để giải giáp quân đội nhật, kháng chiến bắt đầu vào 12/1946 khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến. Cũng chính Chủ tịch đã dự báo rằng đây
cuộc chiến giữa Voi và Hổ, nếu Hổ đứng yên sẽ bị Voi giẫm chết nếu hỗ khơng đứng
n ban ngày nó ẩn nấp trong rừng và ra ngoài vào ban đêm nó sẽ nhảy lên lưng Voi xé
những mảng ra lớn và chạy vào rừng, dần dần Voi sẽ chảy máu đến chết cuộc chiến
tranh ở Đông Dương sẽ là như vậy. Trong cuộc chiến ấy một chiến dịch lớn nhất khóc
liệt nhất mang tính quyết định nhất khơng thể khơng kể đến đó chính là chiến dịch
Điện Biên Phủ huyền thoại diễn ra vào 1954 tại lòng chảo mường thanh nay thuộc tỉnh
Điện Biên. Ngay từ những ngày đầu trở lại qn đội pháp quyết tâm bình định Đơng
Dương bằng mọi giá nhưng do nhân dân Việt Nam kháng chiến quyết liệt mãi đến cuối
năm 1953 cuộc chiến đã kéo dài 8 năm khiến nền kinh tế Pháp đã không còn đủ sức
gánh chịu buộc họ phải cầu viện giúp đỡ của Hoa Kỳ kết quả là đến 1954 73% chi phí
của Pháp ở Đơng Dương do Hoa Kỳ chi trả, người Pháp lập tức bổ nhiệm viên tướng
giày dặn kinh nghiệm Henri NaVarre làm tổng chỉ huy tối cao tại Đông Dương tiến
hành xây dựng lực lượng cơ động lớn kết hợp mở rộng quân đội quốc gia Việt Nam.
Trước mùa khơ 1953-1954 trên tồn bộ lãnh thổ Việt Nam quân đội liên hiệp Pháp
đang chiếm thế áp đảo với tổng số là 445 nghìn người gồm 146 nghìn lính Âu Phi và
299 nghìn lính người Việt chiếm 67%. Lực lượng Pháp khơng chỉ có bộ binh mà cịn
có hơn 600 máy bay, gần 500 tàu tăng thiết giáp và pháo binh nhiều vô số kể. Lực
lượng quân đội nhân dân Việt Nam có tổng số là 252 nghìn người chỉ bằng hơn ½ lực
lượng liên hiệp Pháp ngồi việc tổ chức được mốt số trung đoàn pháo binh còn lại là
thuần bộ binh các quân đội của Việt Minh cũng có biên chế ít hơn. Một tiểu đồn của
quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có khoảng hơn 600 người trong khi biên chế tiểu
6
đoàn của Pháp lên tới 1000 người. Về mặt viện trợ tính đến năm 1954 con số mà Việt
Minh nhận được từ Trung Quốc và Liên Xô vào dưới 1% mà con số mà người Mỹ viện
trợ cho người Pháp hơn 4 tỷ USD tương đương 40 tỷ USD ngày nay. Tổng cộng Mỹ đã
cung cấp 400 nghìn tấn vũ khí các loại, 360 máy bay, 347 tàu bè, 1400 xe tăng và xe
bọc thép 16 nghìn xe vận tải đạn dược vơ tư. Phía Việt Minh nhận được hơn 21 nghìn
500 tấn hàng viện trợ các loại trị giá khoảng 34 triệu USD tương đương 325 triệu
USD ngày nay.
1.2.2. Chuẩn bị cho chiến dịch.
Lúc bấy giờ Điện Biên Phủ là một thung lũng phì nhiêu ở phía Tây Bắc Việt
Nam dài 15km rộng 5km và cách Hà Nội khoản 1h bay, ở đó có 1 sân bay dã chiến
nhỏ bỏ hoang từ khi quân đội Nhật đầu hàng từ năm 1945, nằm ở phía bắc lịng chảo
có núi đồi chập trùng rừng bao quanh. Chỉ huy quân đội pháp tại Bắc Kỳ tướng René
Cogny nhấn mạnh “ Điện Biên Phủ là 1 căn cứ bộ binh không qluân lý tưởng, là chiếc
chìa khóa của Thượng Lào” vì vậy người Pháp quyết định biến nơi này thành 1 tập
đoàn cứ điểm án ngữ vùng Tây Bắc kiểm sốt lưu thơng với Thượng Lào để làm bẩy
nhữ thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Theo kế hoạch của Pháp Việt Minh
sẽ bị nghiền nát tại đây. Cuối 11/1953 Pháp tổ chức cuộc hành quân Castor tạm dịch là
Hải Ly để đánh chiếm Điện Biên Phủ . Sau một số cuộc đụng độ đến 22/11/1953
khoản 4.500 lính dù đã có mặt tại cách đồng Mường Thanh, 2 ngày sau lực lượng Pháp
đã sữa chữa xong đường băng do người Nhật để lại, cơ bản kiểm sốt thành cơng Điện
Biên Phủ nhờ vậy quân số được tăng cường liên tục bằng đường hàng không. Vào
ngày 7/12/1953 Đại tá Christian De Castries đã được chỉ định là tổng chỉ huy tập đoàn
cứ điểm. Quân Việt minh đã buộc phải hạ quyết tâm phải tiêu diệt nhanh chống tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tạo ra bước ngoặc mới trước khi Mỹ xâm lược vào Đông
Dương.
Sự tương quan lực lượng giữa ta và Pháp
-
Lực lượng tham gia chiến dịch của Pháp bao gồm:
7
o Một phi đội máy bay tại chỗ gầm 14 chiếc, khoản 400 máy bay các loại từ các sân bay
lân cận như Gia Lâm, Cát Bi, Đồ Sơn…. Có thể kể đến máy bay ném bom B-26, máy
bay cường kích, máy bay vận tải C119 và rất nhiều chủng loại khác.
o 10 xe tăng hạn nhẹ M24 loại 18 tấn do Mỹ cung cấp, ngồi ra cịn có 200 xe vận tải,
pháo binh có 4 trạm pháo 155mm, 28 khẩu pháo 105mm, 20 súng cối 120mm. Bộ binh
có 16 tiểu đồn, 7 đại đội ngồi ra cịn có 1 tiểu đồn cơng binh. Lực lượng này gồm
có 16 nghìn 200 lính Pháp và gồm cả lính Lê Dương, 4 nghìn quân sĩ thuộc quân đội
quốc gia Việt Nam, 30 nghìn qn nhân kỹ thuật vận hành cho khơng qn Pháp đóng
tại các sân bay ở Bắc bộ, 3 nghìn phu khuân vác người Việt.
o Tập đoàn cứ điểm gồm 3 phân khu với tổng cộng 49 cứ điểm phòng thủ kiên cố liên
hoàn, xung quanh là hàng rào dây thép gai có mìn chơn khắp nơi, cơng sự ngầm có tác
động của đạn pháo 105mm và chúng cịn tranh bị hảo lực rất mạnh để yểm trợ lẫn
nhau.
o Phân khu Bắc bao gồm có các đồi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo nhằm ngăn chặn
hướng tấn công của quân ta từ phía Bắc, Đơng Bắc và Tây Bắc.
o Phân khu trung tâm gồm: Sân bay Mường Thanh, các cao điểm phía Đơng và phía Tây
đây là khu vực mạnh nhất của quân Pháp với 2/3 lực lượng.
o Phân khu Nam có sân bay Hồng Cúm và các cụm cứ điểm phía Nam.
o Chỉ huy trưởng Đại tá De Castries về sau được lên lon chuẩn Tướng ngay trong quá
trình diễn ra chiến dịch. Hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm kết nối cổng hàng
không với Hà Nội và Hải Phịng. Trung bình mỗi ngày có 100 lần chiếc máy bay vận
tải tiếp tế khoản 200-300 tấn hàng.
-
Phía quân đội nhân dân Việt Nam tham gia chiến dịch gồm:
o 11 Trung đoàn bộ binh thuộc các Đại đoàn 304, 308, 312 và 316. Trong đó có 1 trung
đồn cơng binh, 2 trung đoàn pháo binh hảo lực mạnh nhất chỉ có 24 khẩu pháo
105mm, 24 khẩu sơn pháo 75mm, 16 khẩu súng cối cỡ 120mm. Trong số này 4 khẩu
pháo 105mm thu được từ Pháp còn lại đa số do Liên Xơ và Trung Quốc viện trợ. Một
trung đồn pháo phịng khơng với 24 khẩu pháo 61-K cỡ nịng 37mm. Bốn đơn vị
thanh niên xung phong có nhiệm vụ hỗ trợ chiến đấu, vận tải, sửa đường,…. Tổng
quân số chính quy là 53 nghìn 800, thanh niên xung phong khoản 20 nghìn người về
8
sau khoản 8 nghìn thanh niên xung phong được chuyển sang bổ xung cho lực lượng
chính quy. Hơn 261 nghìn dân công vận tải hậu cần gấp 5 lần lực lượng quân chủ lực.
o Vấn đề về lương thực để kháng chiến bấy giờ rất khó khăn. Chúng ta phải dùng ít nhất
4.200 tấn gạo, 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều vận
chuyển trên hành trình hơn 500km phần lớn là đèo dốc hiểm trở miền núi mà máy bay
Pháp lại thường xuyên đánh phá. Theo kinh nghiệm của chiến dịch ở Tây Bắc 1952
nếu dân cơng gánh gạo bằng đồn gánh để có 1kg gạo đến đích thì cần có 24kg ăn dọc
đường, muốn có 4.200 tấn gạo nói trên phải huy động từ hậu phương hơn 100.000 tấn
gạo và cần hơn 2 triệu dân cơng để gánh đó là chưa kể rau, thịt, muối, đường các loại,
… con số này nói trắng ra là bất khả thi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cán bộ chỉ
huy đã đề ra các giải pháp với sức mạnh nhân dân, ngoài việc động viên đồng bào dân
tộc Tây bắc tiết kiệm đóng góp ngay tại chỗ, mà Việt Minh cịn huy động tối đa các
phương tiện thô sơ, 1 trong những lực lượng quan trọng là đội xe thồ với trên 2 vạn
người xe có thể hoạt động trên các địa hình hiểm trở, năng suất mỗi xe có thể chở
được từ 200-300kg kỉ luật lên tới 352kg đó là ơng Ma Văn Thắng là người đứng đầu
của đội dân công hơn 10 người ở Phú Thọ. Các phương tiện thô sơ khác được trang bị
bao gồm 11.800 bè di chuyển trên sơng, hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe
ngựa. Trừ đi số tiêu hao dọc đường lượng hàng tới được đã vượt dự kiến ban đầu lên
tới 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô, 1.200
tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu và 177 tấn vật chất khác.
o Việc kéo pháo vào trận địa cũng là một nổ lực khó mà hình dung được, xe kéo pháo
chỉ có thể kéo vào cách Điện Biên 15km những khẩu pháo nặng tới 2,2 tấn được kéo
bằng tay vào trận địa trên quãng đường dài 15km rất hiểm trở có nơi phải kéo qua
những ngọn núi cao 1.150m và bên trên là làn mưa đạn khủng khiếp của địch. Máy
bay Pháp đã khơng kích gần 1.200 trận.
Tất cả vũ khí của Pháp đều do khơng qn vận chuyển đến vì vậy việc qn ta
đưa được pháo 105mm vào sâu bên trong lòng núi sườn đồi chỉ cách mục tiêu tầm 57km bằng khoản một nữa so với tầm bắn tối đa là điều người Pháp khơng thể ngờ
tới.Phương án bố trí pháo của hai bên hoàn toàn trái ngược. Quân ta thực hiện nguyên
tắc hỏa khí phân tán hỏa lực tập trung được Tướng Giáp đưa ra, phía Pháp lại bố trí
9
hỏa lực tập trung và hầu như các đồn bốt của địch lại nằm trên cao dự trữ đạn pháo dồi
dào hơn hẳn có máy bay và tăng thiết giáp yểm trợ. Trong q trình chiến đấu bộ đội ta
cịn dựng lên các trận địa giả để làm hao tổn hảo lực địch.
Vào ngày14/1/1954 tại Hang Thẩm Púa đã chốt phương án “Đánh nhanh thắng
nhanh” tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm với sức tiến công đồng loạt vũ bão
vào ngày 20/1/1954. Tuy nhiên vì một số lý do và nhiều ngày đêm suy nghĩ Đại Tướng
Võ Nguyên Giáp đã quyết định rút bộ binh và pháo binh ra khỏi trận địa. Ông nhận
thấy phương án “Đánh nhanh thắng nhanh” mang nhiều tính chủ quan và có 3 khó
khắn lớn. Một là bộ đội chủ lực chưa có kinh nghiệm đánh cấp tập các công sự kiên cố
liên hồn trên địa hình bằng phẳng vào ban ngày. Hai là pháo binh và bộ binh chưa
từng đánh hiệp đồng lớn như thế này. Ba là đối phương có ưu thế vượt trội về máy bay,
xe tăng và pháo binh. Thế là Đại tướng phải đưa ra phương án đánh mới đó là “ Đánh
chắc tiến chắc” khơng sử dụng lối đánh xung phong trực diện mà phải dùng cách đánh
bốc vỏ, đào hào áp sát vây lấn tiếp cận tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng cho đến
khi Pháp khơng cịn đủ sức kháng cự, hạn chế tối đa thương vong của bộ đội Việt
minh. Sau này Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất
trong cuộc đời cầm qn của ơng, chiến dịch sẽ diễn ra hoàn toàn trong mùa mưa và
áp lực về hậu cần sẽ tăng lên rất nhiều lần.
Giai đoạn cuối 1953-1954 pháp phát hiện một số lực lượng lớn từ phía Việt
Minh từ nhiều hướng đang tiến về lòng chảo Điện Biên, Tướng De Castries tung lực
lượng từ xa để ngăn chặn nhưng khơng như ý muốn. Vì thế tướng De Castries tập
trung lực lượng lại nên đã cho lệnh rút toàn bộ quân từ Lai Châu về thế nhưng trên
đường rút quân Pháp lại bị Đại đoàn 316 của quân ta phục kích truy đuổi quyết liệt.
Lực lượng đặc công và bộ đội địa phương của quân ta đã tổ chức đánh tập kích tiêu
hao lực lượng không quân từ xa của Pháp tại các sân bay lớn như Gia Lâm, Cát Bi
tổng cộng có 24 máy bay Pháp bao gồm có máy bay ném bom B-26 đã bị phá hủy.
1.2.3. Đợt tấn công lần thứ nhất.
Đề đảm bảo nguyên tắc trận đầu phải thắng Quân đội ta đã lên kế hoạch rất tỉ mỹ,
sử dụng lực lượng gấp 3 lần quân Pháp.
10
Lúc 17 giờ 5 phút chiều 13/3/1954 Đại Đoàn 312 của ta đã bắt đầu tấn công đồi
Him Lam, khoản 40 khẩu pháo và hàng loạt súng các loại của ta bất đầu khai hỏa bắn
cấp tập, một viên đạn pháo 105mm rơi trúng sở chỉ huy Him Lam khiến sở chỉ huy
trưởng ở đây cùng 3 sĩ quan khác tử trận do đó Him Lam mất liên lạc với Mường
Thanh và một kho xăng bóc cháy trận địa pháo của Pháp tê liệt hoàn toàn, 18 chiếc
máy bay của Pháp bị phá hủy trong đó có 3 chiếc C-47 Skytrain. Sau hơn 4 giờ bắn
phá bộ binh của ta xung phong tấn công trận chiến diễn ra đến 23 giờ 30 đêm mới kết
thúc. Đại Đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Đại Đoàn trưởng Lê Trọng Tấn chỉ Huy đã
xóa sổ cứ điểm Him Lam tiêu diệt hơn 300 lính Pháp bắt sống khoản 200 lính thu giữ
nhiều vũ khí đạn dược. Về phía quân ta do phân tán lực lượng nên thiệt hại ít hơn
khoản 120 người mất và 200 người bị thương.
Lúc 14/3/1954 Pháp đã tăng cường 1 tiểu đoàn dù cho ĐBP.
Vào lúc 3 giờ 30 15/3/1954 Đại Đoàn 308 do Đại Đoàn trưởng Vương Thừa Vũ chỉ
huy đã triển khai tấn công đồi Độc Lập, hơn 4 giờ sáng chỉ huy trưởng người Pháp tại
đây bị thương nặng, quân Pháp mặc dù được yểm trợ tối đa bằng hảo lực đến pháo
155mm, không quân và xe tăng vẫn thất thủ vào lúc 6 giờ 30 sáng cùng ngày.
Vào sáng hơm đó Trung Tá Charles Piroth đã tự sát.
Sáng 17/3/1954 Trung Đoàn 36 thuộc Đại Đồn 308 của ta đã chiếm trọn Bản Kéo
mà khơng tốn một viên đạn nào.
Kết quả của đợt tống công lần thứ nhất sau Năm ngày đêm cách cửa phía Bắc của
tập Đoàn cứ điểm ĐBP mở toang, Hai tiểu đoàn Pháp tinh nhuệ cùng Một tiểu đoàn và
Ba đại đội thuộc quân đội quốc gia Việt Nam đã bị tiêu diệt. Tổng cộng hơn 2.000 lính
Pháp đã bị loại khỏi vòng chiến. Chúng ta đã bắn rơi 12 máy bay. Từ 23/3/2954 pháo
binh Việt Minh đã loại bỏ khẳ năng cất cánh và hạ cánh của sân bay Mường Thanh và
Hồng Cúm từ đó trở đi máy bay Pháp chỉ tiếp tế bằng cách thả dù.
1.2.4. Đợt tấn công lần thứ hai.
Quân đội nhân dân Việt Nam tiến công vào phân khu trung tâm nhằm đánh
chiếm dãy đồi phía Đông để khống chế cánh đồng Mường Thanh, khu vực này được
Pháp chia làm Bốn trung tâm đề kháng mỗi trung tâm lại có trên dưới 20 cứ điểm
11
trong đó 6 cứ điểm có vị trí chiến lược quan trọng nhất đó là ( E, D2, D1, C2, C1 và
A1) riêng đồi A1 giữ vai trò đặt biệt quan trọng khống chế phạm vi rộng lớn bao gồm
cả sở chỉ huy của Tướng De Castries.
18 giờ ngày 30/3/1954 tại cao điểm C1 Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự hỗ
trợ của Pháo binh đã xung phong chiếm được trận địa cấm cờ lên nóc sở chỉ huy sau
đó dùng lưỡi lê lựu đạn và lao lên đánh trực diện trận đánh diễn ra đúng 45 phút do
tinh thần lực lượng Pháp ở đây đi xuống trầm trọng cộng thêm yếu tố bất ngờ nên số
liệu thương vong của Quân đội ta giảm tối đa chỉ khoản 10 người trong khi phía Pháp
có 140 lính bị tiêu diệt và bắt sống.
Tại đồi C2 lúc 23 giờ Một Trung đội Việt Minh đã đột nhập được vào chiến hào
Pháp chiếm liên tiếp được 11 lô cốt và ụ súng tuy nhiên lực lượng phía sau qua nhiều
lần xung phong đã bị hỏa lực áp đảo của địch chặn lại. Tuy khơng có con số chính xác
nhưng tại đồi C2 thương vong rất nhiều vì thế Tiểu đồn 215 buộc phải rút lui về C1
để cũng cố lực lượng.
Tại cao điểm D1 Trung đoàn 209 chỉ mất 5 phút đầu tiên thọc sâu chia cắt đội
hình Pháp tuy nhiên ngay sau đó quân pháp chống trả quyết liệt bộ đội Việt Minh mất
đến 2 giờ chiến đấu và thương vong khơng hề nhỏ mới kiểm sốt được tồn bộ ngọn
đồi D1.
Tại cao điểm E pháo binh của Quân đội ta khai hảo đúng lúc Hai Đại đội ngoài
hâm trú ẩn đang giao ca nên đã bị tiêu diệt gọn, cứ điểm này được đánh chiếm dễ
dàng.
Bộ đội ta tiếp tục tấn công sang D2 tại đây cuộc giao tranh quyết liệt kéo dài
mãi đến khi trời sáng D2 mới chịu thất thủ thương vong cả hai bên đều nặng nề.
Tại đồi A1 Trung Đoàn trưởng Nguyễn Hữu An ra lệnh cho hảo lực Trung đoàn
174 bắn vào cứ điểm yểm trợ cho bộ binh xung kích tuy nhiên cứ điểm này rất kiên cố
gài mìn khắp nơi, có nhiều giao thơng hào liên hồn, tất cả các lơ cốt và hầm trú ẩn
đều có nấp đậy chịu được đạn pháo 105mm. Lúc đó cuộc chiến trên những cao điểm
khác đã kết thúc toàn bộ hỏa lực của Pháp tập truug đã bắn hỗ trợ đồi A1, lực lượng ta
bị tổn thất nặng nề, cuộc chiến kéo dài từ nữa đêm đến gần sáng nhưng thế trận vẫn
giằng co. Mặt dù Trung đoàn 174 và Trung đoàn 98 đã sử dụng đến lực lượng dự bị
cuối cùng họ vẫn chưa làm chủ được hai cao điểm A1 và C2 thậm chí ngay cả những
cứ điểm đã chiếm được cũng đang rất mong manh nếu Pháp phản công. Ngay lập tức
12
Trung đoàn 102 thuộc Đại đoàn 308 được lệnh di chuyển từ phía Tây sang tăng viện
cho phía Đơng để hỗ trợ phịng ngự và tiếp tục tấn cơng tiêu diệt A1.
Đúng như nhận định sang ngày 31/3/1954 Pháp phản kích dữ dội và Quân đội
ta đã thương vong rất nhiều. Sau 25 phút giao chiến Pháp đã chiếm lại hầu hết đồi D1
và dồn lực lượng ta vào một phía đồi, Quân ta dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt
phản kích của Pháp quyết tử giữ mảnh đồi còn lại, điện đài liên lạc bị cắt nhưng phía
chỉ huy của Quân đội ta đã kịp thời quan sát thấy tình hình nên đã lập tức điều hai Đại
đội chi viện, sau hơn 1 giờ chiến đấu Quân Pháp buộc phải rút về Mường Thanh vừa
không thể chiếm lại được D1 mà cịn bỏ ln cả D3 và rút trận địa pháo khỏi cao điểm
210 do những vị trí này khơng thể đứng vững nếu đã mất D1.
Vào 1 giờ 30 ngày cùng ngày tại đồi C1 nơi hai bên giằng co quyết liệt Pháp
được tăng viện hai tiểu đoàn dù điều này giúp họ chiếm được điểm cao cột cờ đẩy
được lực lượng Việt Minh vào thế bất lợi ngay lúc đó lực lượng tăng viện của Trung
đoàn 102 đã lên kịp thời phối hợp cùng lực lượng phòng ngự đánh bật quân Pháp khỏi
cột cờ. Đến 16 giờ chiều cùng ngày quân Pháp buộc phải rút lui.
Trong suốt tháng 4 Quân đội ta sử dụng chiến thuật “ Vây lấn” và “Bắn tỉa”
vừa để tiêu hao sinh lực địch vừa có thời gian cũng cố lại lực lượng do các trận đánh
trước đó gây thương khơng nhỏ. Bộ đội chủ lực và lính cơng binh phải lao động cật
lực từ 14-18 giờ mỗi ngày để đào hào. Thời tiết khơng thuận lợi mưa dầm, gió bấc,
cơng sự lầy lội, bùn nước,… dưới làn mưa bom bão đạn của quân Pháp.
Nhờ vào sự sáng tạo của bộ đội ta họ đã nghĩ ra cách là làm dùng một “ con
cúi” dài khoảng 2m đường kính 1m được làm bằng rơm và nhồi bên trong băng thân
cây. “ Con cúi” này dùng để chắn đạn cho bộ đội đào hào của ta vào ban đêm.
Kết quả là ta thu được 5.500 viên đạn pháo 105mm tương đương 1/3 kho
đạn của Bộ đội ta và nhiều đạn dược khác.
1.2.5. Đợt tấn cơng thứ ba.
Để hồn thành nốt nhiệm vụ của đợt 2 Đại đồn 316 tấn cơng tiếu diệt hết lực
lượng Pháp tại A1, C1, C2. Đại đoàn 312 tiến đánh các cứ điểm phía Đơng, Đại đồn
308 tiến đánh các cứ điểm phía Tây. Sau đó tất cả sẽ đánh thọc sâu vào trung tâm, Đại
đoàn 304 chốt chặn không cho quân địch rút chạy sang Lào, siết chặt vòng vây chung
13
quang Hồng Cúm. Công sự ngầm tại đồi A1 kiên cố đến mức gần như bất khả xâm
phạm gây ra thương vong nặng nề cho quân đội ta trong suốt chiến dịch.
Sau nhiều tính tốn bộ đội ta đã tìm ra được phương án đào hầm từ trận địa của
mình xuống sâu vào bên dưới hầm của Pháp, sau đó đưa bọc phá với số lượng lớn vào
đặt nổ. Trong quá trình thực hiện phương án bộ đội ta đã phải chiến đấu đến những
người cuối cùng để bảo vệ cửa hầm.
Ngày 1/5/1954 bộ đội Việt minh đã đánh cấp tập từ đồi D1 vào vị trí quân Pháp tại C1,
sau tiếng pháo khai hỏa bộ đội Việt minh tại một phần đồi C1 đã lập tức xung phong,
và chỉ 5 phút sau Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiếm được cao điểm Cột cờ. Khi
đó lực lượng dù cứu viện của pháp mới lên phản công tuy nhiên qn tiếp viện phía
Việt minh đã kịp thời có mặt từ dưới đánh lên tạo thành thế gộng kìm. Trận chiến kéo
dài đến nữa đêm bộ đội ta mới tiêu diệt được hoàn toàn cứ điểm C1.
Đến 2/5/1954 hàng loạt các cứ điểm khác của Pháp ở phía Đơng và phía Tây
lịng chảo cũng đã thất thủ sau những trận đánh với con số thương vong khủng khiếp
cho hai bên. Lực lượng Liên hợp Pháp tại các cứ điểm đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Mặt
dù quân Pháp đã nhiều lần phản công nhưng không thành công.
Ngày 5/5/1954 đường hầm ở đổi A1 đã hồn thành. Dưới tối hơm đó một số
lượng lớn pháo đã được đặt vào dưới hầm ngầm của Pháp. Tối 6/5/1954 trước giờ G 5
phút bộ đội chung phong được lệnh quay lưng về phía đồi A1 há miệng nhắm mắt để
đề phịng sóng xung kích và ánh chớp của lượng bộc phá khổng lồ. Đúng 20h30 một
tiếng nổ lớn bất ngờ đối với địch đã thổi bay cụm lô cốt bên trên đồi A1 diệt phần lớn
đại đội lính dù đang đóng ở đây. Đạn pháo được bắn cấp tập và sau đó là đợt xung
phong như vũ bão cảu chung đoàn 174. Trên đỉnh đồi lính dù Pháp đã cật lực kháng cự
chờ quân tiếp viện. quá nữa đêm tình hình hai bên vẫn quyết liệt, Trung đoàn trưởng
Nguyễn Hữu An quyết định đưa lực lượng dự bị vào tham chiến chia thành các tụ nhỏ
để tiêu diệt dần từng ụ đề kháng của Pháp.
Vào 4h sáng ngày 7/5/1954 Đại úy Jean Pouget bị thương nặng ơng cùng 34
lính dù cịn lai đã sử dụng những viên đạn cuối cùng, khơng lâu sau đó họ đều bị bắt
14
sống, quân đội ta đã giành dược quyền kiểm soát và lá cờ chiến thắng của Quân đội
nhân dân Việt Nam tung bay trên cao điểm A1. Đúng 3h chiều cùng ngày bộ đội ta đã
tổng tấm công trên khắp các mặt trận với ba hướng chính chọc sâu vào trung tâm. Đại
đội trưởng Tạ Quốc Luật thuộc trung đoàn 209 lập tức dẫn Đại đội 360 dưới làn pháo
của địch băng qua cầu Mường Thanh bắt một lính người Việt của địch yêu cầu chỉ
đường nhanh nhất tới sở chỉ huy của Tướng De Catories. Lúc 17h chiều ta đã tiến vào
dược sở chỉ huy có mặt của Tướng De Catories và các sĩ quan Pháp, Tạ Quốc Luật đã
nói bằng tiếng Pháp “ Hãy đầu hàng đi các ông thua rồi. Các ông phải ra lệnh cho
những ổ đề kháng cịn lại hạ vũ khí và điện về Hà Nội không cho máy bay ném bom
xuống Điện Biên nữa”. 17h30 chiều Tướng De Catories đồng ý đầu hàng và tồn bộ
qn Pháp đã hạ vũ khí. Chiến dịch kết thúc hoàn toàn thắng lợi.
1.3.
Kết quả chiến dịch.
Đối với lực lượng Liên hiệp Pháp: có 2.300 lính thiệt mạng, 6.600 người bị
thương, mất tích 1.700.
Đối với Pháp: thiệt hại 28 khẩu pháo và súng cối, hơn 5.900 khẩu súng bộ binh,
20.000 lít xăng dầu cùng rất nhiều đạn dược, quân trang quân dụng. Về không quân
Pháp tổn thất 59 phi cơ bị phá huy, 62 chiếc bị bắn rơi.
Về phía quân đội ta theo hồ sơ quân y là 4.020 người chết, gần 9.700 người bị
thương và 792 người mất tích.
2.
Ý NGHĨA LỊCH SỬ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954 của Quân đội và Nhân dân
Việt Nam cách đây 66 năm đã đập tan những cố gắng, nỗ lực về quân sự tối cao nhất
của thực dân Pháp và có sự can thiệp của Mỹ. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
năm1954 đã bắt buộc chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneva (tháng 7 năm 1954).
Công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đơng
Dương trong đó có Việt Nam. Và đây cũng là kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ
gian khổ kéo dài chín năm (1945 – 1954) của Quân đội và Nhân dân Việt Nam. Đồng
thời cũng chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, chiến thắng
lịch sử này đã mở ra một bước ngoặt phát triển mới cho cách mạng Việt Nam và Đảng
cộng sản Việt Nam. Đây là thắng lợi quân sự lớn nhất của quân đội và nhân dân Việt
15
Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tiêu diệt tập đoàn cứ
điểm mạnh nhất của Pháp ở Đơng Dương, làm cho kế hoạch Nava thất bại hồn tồn;
làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đơng Dương. Điều này đã chứng minh về
việc cảnh báo khuynh hướng ảo tưởng, chờ đợi, ỷ lại vào giải pháp ngoại giao trước đó
là hồn tồn đúng đắn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rõ chủ trương nhất quán
của ta là hịa bình.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ
chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to
lớn vào phong trào đấu tranh vì hịa bình, tiến bộ của nhân loại. Chiến thắng Điện Biên
Phủ giáng một địn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh
sập thành lũy của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn
cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu. Chiến thắng
Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến
thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hịa
bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời
đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng
lợi. Chân lý đó đã thơi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thốt khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân,
đế quốc.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ, trước hết được bắt nguồn từ sự lãnh
đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt cả
cuộc kháng chiến, nhất là ở những thời điểm có tính bước ngoặt quan trọng của cuộc
chiến tranh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln nắm vững lý luận khoa học
16
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát động cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện,
xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt; đánh địch bằng cả
sức mạnh của thời đại ngày nay trong sự kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm truyền
thống của dân tộc, của nhân loại; đánh địch bằng sức mình là chính, đồng thời tranh
thủ tối đa sự ủng hộ mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn khắp 5 châu,
chủ động tạo nên sự chuyển hóa căn bản về thế và lực, làm cho sức ta càng đánh càng
mạnh và đẩy quân địch vào tình thế ngày càng khốn đốn, phải đầu hàng vơ điều kiện.
Chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ còn bắt nguồn từ tình đồn kết trong
sáng, thủy chung của nhân dân và quân đội 3 nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trên
một chiến hào chống kẻ thù chung và sự ủng hộ chí tình, to lớn, có hiệu quả về vật
chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa anh em cùng với sự cổ vũ, động viên
của các nước bạn bè, các đảng cùng chí hướng, của nhân loại tiến bộ dành cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đều là những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần làm
nên chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ. Chúng ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ về tình cảm
sâu nặng và sự giúp đỡ to lớn đó.
3.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN.
Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ có
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng
chiến và trường kỳ kháng chiến, với khẩu hiệu “Tất cả vì Điện Biên Phủ”, “Tất cả để
chiến thắng” thực dân Pháp xâm lược, nhằm mục tiêu bảo vệ nền độc lập, tự do cho Tổ
quốc, nên Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ sức mạnh của lòng
yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của cả dân tộc, đưa cả nước cùng ra trận.
Đảng ta phải động viên và khơi dậy sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí quyết tâm của
cả dân tộc lên một tầm cao mới, tạo ra sự đồng thuận cao nhất trong toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân nhằm đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, chiến thắng được
nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh”. Để làm được điều đó, ngồi việc Đảng ta phải hoạch định và
đề ra được đường lối chiến lược, chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, theo
17
kịp xu thế phát triển của thời đại, thì địi hỏi mỗi cán bô, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, người đứng đầu các cấp phải nêu cao tinh thần tiền phong, gương mẫu; chống
quan liêu, tham ô, lãng phí và các tiêu cực khác trong xã hội một cách tích cực, hiệu
quả; quan tâm chăm lo đời sống nhân dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người
có cơng với nước, những người bất hạnh trong xã hội… Từ đó sẽ củng cố được niềm
tin trong nhân dân, tạo sức mạnh, động lực to lớn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đi
đến thành công.
Đề cao tinh thần sáng tạo, độc lập, tự chủ; coi trọng thực tiễn, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm trước nhiệm vụ trước Đảng và nhân dân. Điều này đã được
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quán triệt và thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới
đánh. Không chắc thắng không đánh”, trước khi nhận nhiệm vụ thay mặt Trung ương
Đảng và Hồ Chủ tịch trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Quán triệt tinh thần
đó, từ thực tế nghiên cứu chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định
chuyển từ phương án “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” do Đoàn cố vấn Trung Quốc đi
trước đã đề xuất sang “Đánh chắc, tiến chắc”. Trước những vấn đề mới, phức tạp nảy
sinh, hoặc chưa có cơ sở vững chắn tuyệt đối khơng được nóng vội, mà phải hết sức
bình tĩnh, tỉnh táo để phân tích, đánh giá tình hình một cách sát, đúng, thẳng thắn chỉ
ra những vấn đề còn băn khoăn, do dự, đặc biệt không bị lung lay trước các tác động,
gây sức ép từ người khác mà mình nhận thấy điều đó chưa đủ cơ sở… và khi đã tin
tưởng một điều gì đó thì kiên quyết thực hiện cho bằng được.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của toàn dân, của cả nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên
Phủ, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thơng qua đường lối, chủ trương,
chính sách đúng đắn, phù hợp với lòng dân và đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân
dân, nên đã động viên được sức mạnh của cả nước tham gia kháng chiến. Ngày nay,
Đảng ta vẫn tiếp tục nhấn mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh và động
lực to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
18
Để động lực và nguồn lực to lớn này phát huy hiệu quả, cần chú trọng xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc một cách vững chắc.
Kết quả của ý chí, tinh thần quả cảm, sự đồn kết. Chiến thắng Điện Biên Phủ
lịch sử là kết quả của tinh thần quả cảm, sự đoàn kết, vượt qua gian khổ, ý chí quyết
chiến, quyết thắng của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập. Với thế hệ trẻ được sống trong hịa bình hơm nay, chúng ta hãy sống có
lý tưởng, trách nhiệm, khơng có việc gì khó, nếu có quyết tâm, khó mấy cũng vượt
qua. Hãy mang tinh thần Điện Biên Phủ năm xưa vào công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế-xã hội hôm nay để đất nước ngày một văn minh và giàu đẹp.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là một bản anh hùng ca bất hủ bắt nguồn từ
truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc ta; từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; từ tinh thần sáng tạo, độc lập, tự chủ và
phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc... Nó đã trở thành những bài học
quý báu cho thế hệ hôm nay và mai sau. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo những bài học
đó sẽ là nguồn lực tinh thần – vật chất to lớn của đất nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
19
PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc tập kích chiến lược quy mơ lớn bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội,
Hải Phòng kéo dài 12 ngày, đêm đã bị thất bại hoàn tồn.
Trong 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên khơng” qn và dân ta đã bắn rơi 81
máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B-52, 5 máy bay F111 và 42 máy bay chiến
thuật khác.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”,
đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt trong suốt 8 năm chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc đọ sức quyết liệt nhất từ trước tới nay. Nghệ thuật
tác chiến phịng khơng hiệp đồng chiến đấu, quân binh chủng của bộ đội ta đã chứng
tỏ sức mạnh tổng hợp của lực lượng phòng khơng ba thứ qn mà nịng cốt là bộ đội
Phịng không – Không quân.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn, là
sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó, quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến,
quyết thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đồn kết chiến đấu
bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước Đông Dương và sự đoàn
kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn bè quốc tế.
Góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và
các nước trên bán đảo Đông Dương, bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng
Tám năm 1945; mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
20
chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử; xứng đáng là một đỉnh cao chiến
thắng của văn hóa quân sự Việt Nam hiện đại.
Kỷ niệm 45 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên khơng” chúng ta có
dịp ơn lại truyền thống hào hùng của dân tộc Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt
Nam, của quân và dân Thủ đơ Hà Nội Anh hùng; qua đó, càng tin tưởng, tự hào hơn về
dân tộc ta, Đảng ta, Quân đội ta - một dân tộc ln đồn kết chống lại một kẻ thù hùng
mạnh và đã làm nên những chiến thắng chấn động năm châu, lừng lẫy địa cầu. Một
Đảng mác xít kiên cường, ln trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, có đường lối đúng đắn, sáng tạo đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Một Quân đội anh hùng, quân đội của dân, do dân, vì dân. Chúng ta tự
hào về truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc, lịng u nước, ý chí quyết
chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trước mọi kẻ thù xâm lược.
Đó là cội nguồn sức mạnh, là nội lực của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN hôm nay.
21
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
[1]. />[2]. />[3]. />[4]. />AspxAutoDetectCookieSupport=1
[6]. Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 (tinhdoanqnam.vn)
[7]. />n-thang-dien-bien-phu-nhung-bai-hoc-co-y-nghia-ly-luan-va-thuc-tien-sau-sac.aspx
[8].
/>
Kinhnghiem/2017/11049/Ha-Noi-Dien-Bien-Phu-tren-khong-Chien-thang-cua-banlinh.aspx
22
PHỤ LỤC
Danh mục viết tắt:
ĐBP: Điện Biên Phủ
XHCN : Xã Hội Chủ Nghĩa
CHND: Cộng Hòa Nhân dân
23
Biên bản họp nhóm
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.
1.1. Thời gian: 24/07/2021
1.2. Địa điểm: Online
1.3. Thành phần tham dự: Các thành viên của nhóm.
+ Chủ trì: Nguyễn Thị Minh Chuyện
+ Tham dự: Lê Thị Hoàng Phim
Nguyễn Thị Thùy Ngân
Cao Thúy Vi
Lê Thị Thùy Dung
Dương Thúy Hồng
Huỳnh Thị Bích Trâm
+ Vắng:Khơng
2. Nội dung cuộc họp
2.1.Nhóm trưởng đánh giá mức độ hồn thành công việc cho các thành viên như
sau:
Họ tên
Nhiệm vụ
Đánh giá
Ghi chú
hoàn thành
Nguyễn Thị Minh Chuyện
Lê Thị Hoàng Phim
Phần diễn biến chiến Hoàn thành
dịch (1.2)
tốt, đúng hạn,
Phần mục lục
Tổng hợp word
Chỉnh sửa word
Phần lời cam đoan
Nhiệt tình
Nguyễn Thị Thùy Ngân
Phần mở đầu
Cao Thúy Vi
Lê Thị Thùy Dung
Hoàn thành
tốt, đúng hạn,
bài tốt
Phần hồn cảnh lịch Nhiệt tình, có
sử (1.1)
đóng góp ý
kiến
Phần ý nghĩa đối với Có trách
bản thân (3)
nhiệm, hồn
thành bài xuất
24
sắc
Dương Thúy Hồng
Phần kết luận
Hồn thành tốt
Huỳnh Thị Bích Trâm
Phần ý nghĩa lịch sử Hoàn thanh
(2)
bài đúng hạn
Tài liệu kham khảo
2.2. Ý kiến của các thành viên: Đề nghị ghi rõ ý kiến của từng thành viên, đồng ý
hay không đồng ý với ý kiến của nhóm trưởng, hoặc phản biện với các ý kiến của các
thành viên khác,...
2.3. Kết luận cuộc họp
Thống nhất lại nội dung cuộc họp sau khi có ý kiến của từng thành viên
(Đây là căn cứ đánh giá mức độ hồn thành cơng việc của từng thành viên)
Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc ....giờ.... phút cùng ngày.
Thư ký
Chủ trì
( Ký và ghi rõ họ tên)
( Ký và ghi rõ họ tên)
25