Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề quyền lực nói chung và quyền lực chính trị nói
riêng là những vấn đề đang rất đợc quan tâm ở nớc ta hiện
nay. Quyền lực chính trị trong đó có quyền lực nhà nớc tập
trung ở đâu? Phải chăng tập trung vµo Qc héi? Tỉ chøc
nhµ níc nh thÕ nµo lµ hợp lý để phát huy đợc sức mạnh Nhà
nớc xà hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và khắc
phục đợc sự cồng kềnh, tệ quan liêu, nạn tham nhũng và
tính kém hiệu quả của bộ máy nhà nớc của chúng ta hiện
nay? Những vấn đề trên đợc đặt ra và đang chờ đợi câu
trả lời xác đáng của nhiều ngành, nhiều giới, nhiều cấp trong
đó có trách nhiệm của những ngời làm công tác nghiên cứu
khoa học xà hội.
Trong nhiều năm qua Đảng ta đà có chủ trơng xây dựng
nhà nớc ta thành Nhà nớc pháp quyền xà hội chủ nghĩa. Thực
hiện chủ trơng đó là một quá trình lâu dài, liên tục với
không ít khó khăn và việc tham khảo các lý thuyết xây
dựng nhà nớc đà cã trong lÞch sư cịng nh häc tËp cã chän lọc
kinh nghiệm tổ chức nhà nớc ở các quốc gia trên thế giới một
cách thực sự cầu thị chắc sẽ góp phần cho sự thành công.
Từ năm 1986, năm đánh dấu sự đổi mới toàn diện,
chúng ta bắt đầu tiến hành mở rộng quan hệ với các nớc trên
thế giới bất kể chế độ chính trị thế nào. Trong số các nớc
đó có Nhật Bản, quốc gia tính đến thời điểm này chiếm tỷ
trọng đầu t OĐA lớn nhất cho nớc ta và kim ngạch buôn bán
đứng thứ ba. Mặc dù vậy, trong các cuộc tiếp xúc gần đây,
giới quan chức hai bên đều cho rằng kết quả quan hệ của hai
nớc cha tơng xứng với mong muốn. ở đây, có một nguyên
nhân là sự hiểu biết lần nhau còn nhiỊu bÊt cËp, trong ®ã
có cả sự hiểu biết cha đầy đủ của chúng ta về nhà nớc Nhật
Bản nói chung và cơ quan lập pháp nói riêng.
Những yếu tố chủ yếu trên khiến cho việc tiếp tục đi
sâu tìm hiểu cơ quan lập pháp Nhật Bản hiện nay là một
vấn đề hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đại tớng Mỹ, Douglas MacArthur, Tổng t lệnh các lực lợng
đồng minh chiếm đóng tại Nhật Bản là ngời thực sự chỉ
đạo và cho ra đời bản Hiến pháp Nhật Bản năm 1946. Bản
Hiến pháp này xác định chủ quyền thuộc về nhân dân, và
quy định rằng nhân dân có quyền tham gia các hoạt động
chính trị. Hình thức dân chủ nhất để nhân dân thực hiện
quyền tham gia chính trị, đó là Quốc hội. Hiến pháp quy
định: Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ quan
lập pháp duy nhất của đất nớc (Điều 41). Nh vậy, có thể nói
nền chính trị Nhật Bản hoạt động theo nguyên tắc Quốc
hội là trung tâm. Với t cách là tác giả của bản Hiến pháp làm
cơ sở cho việc xây dựng nhà nớc Nhật Bản hiện nay, ngời
Mỹ đà có những nghiên cứu sâu sắc về quyền lực Quốc hội
nớc này.
Trong suốt những năm chiến tranh lạnh, các học giả Xô
viết, Trung Quốc cũng đà có những công trình tìm hiểu về
nhà nớc Nhật Bản nói chung và Quốc hội nớc này nói riêng.
Song chủ yếu nghiên cứu dới góc độ phê phán.
Các học giả Nhật bản trong hơn 50 năm qua cũng đÃ
cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu về Quốc hội của nớc
họ nhng dẫu sao đó vẫn là cách nhìn của những ngời trong
cuộc.
ở nớc ta, bộ môn Nhật Bản học còn rất non trẻ nên các
công trình nghiên cứu về đất nớc này còn rất ít và phần lớn
tập trung vào lĩnh vực kinh tế. Có thể nãi cho ®Õn nay cha
có một công trình của học giả Việt Nam nào đề cập đến
cơ quan lập pháp Nhật Bản độc lập và hoàn chỉnh cũng nh
đi sâu vào tìm hiểu quyền lực của nó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm sang tỏ quyền lực của cơ
quan lập pháp, thể hiện trong bộ máy nhà nớc, trong hệ
thống chính trị cũng nh trong xà hội Nhật bản hiện nay.
Để đạt đợc mục đích đó, tiểu luận phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
-Góp phần làm sang rõ thêm một số vấn đề lý luận nh
khái niệm quyền lực, khái niệm quyền lực nhà nớc,và khái
niệm quyền lực cơ quan lập pháp.
-Làm rõ sự phân chia quyền lực bên trong cơ quan lập
pháp và quyền lực của nó đối với xà hội.
-Chỉ ra cách thức phân chia quyền lực của nhà nớc
Nhật Bản hiện nay và phân chia quyền lực mà cơ quan lập
pháp đảm nhiệm trong tơng quan với cơ quan hành pháp và
t pháp.
-Nghiên cứu để thấy đợc quan hệ của cơ quan lËp ph¸p
víi c¸c tỉ chøc kh¸c trong hƯ thèng chính trị.
4. Phơng pháp nghiên cứu đề tài
Về mặt phơng pháp luận, tiểu luận này dựa trên cơ sở
của Chủ nghÜa duy vËt biƯn chøng, Chđ nghÜa duy vËt lÞch
sư, những thành tựu của Chính trị học, Triết học cũng nh
những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nớc.
Tiểu luận sử dụng phơng pháp phân tích và tổng hợp,
lịch sử và lô gíc, và phơng pháp nghiên cứu so sánh.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục những từ viết
tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Tiểu luận gồm
3 chơng vµ 9 tiÕt.
NộI DUNG
Chơng 1
Sự PHÂN CHIA QUYềN LựC TRONG CƠ QUAN LậP PHáP
Và QUAN Hệ CủA Nó ĐốI VớI XÃ HộI
1. Một số vấn đề lý luận
Chính trị ra đời cùng với sự phân chia thành giai cấp và
sự xuất hiện nhà nớc. Đồng thời với sự ra đời của chính trị
các t tởng về nó cũng xuất hiện. Tuy nhiên, nh chúng ta đều
biết, chính trị học trở thành một môn khoa học độc lập
cách đây không lâu. ở nớc ta, bộ môn khoa học này lại càng
non trẻ nên phần lớn các vấn đề của nó trong đó có các phạm
trù còn đang đợc bàn luận sôi nổi. Vì vậy, trong phần này
của tiểu luận, tác giả xin mạnh dạn đề cập đến một số phạm
trù trong chừng mực làm rõ chủ đề chính.
a. Khái niệm về quyền lực và quyền lực chính trị
Chúng ta rất dễ nhất trí với nhau rằng, trong các mối
quan hệ xác định, dù ít dù nhiều các sự vật đều chịu ảnh hởng của n hau. Nh vậy, phải chăng theo một nghĩa chung
nhất: quyền lực có nghĩa là sự ảnh hởng của sự vật này đối
với sự vật khác. Nếu điều đó là xác đáng thì ở mỗi sự vật
quyền lực mới chỉ tồn tại ở dạng khả năng còn hiện thực của
nó bao giờ cũng đợc thể hiện qua các mối quan hƯ hÕt søc
cơ thĨ hay qun lùc lu«n mang trong đó bản chất khách
quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xác định rằng chỉ có
một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất, nên
xét một cách tổng thể không có cái gọi là quyền lực của thế
giới vật chất vì không có thế giới thứ hai để nó đặt quan
hệ.Song điều đó không loại trừ sự tån t¹i qun lùc trong nã
hay quyền lực của các bộ phận cấu thành nên thế giới vật
chất này.
XÃ hội loài ngời với t cách là một dạng cụ thể, phát triển
cao cảu thế giới vật chất thì mang trong nó cả hai loại quyền
lực. Một là, xét một cách tổng thể, quyền lực của xà hội đối
với bộ phận còn lại của thế giới mà một trong những việc lạm
dụng quyền lực này. Ngày nay bất cứ ai cũng thấy rõ, đó là
sự huỷ hoại môi sinh.Hai là quyền lực trong xà hội, là loại
quyền lực của các bộ phận cấu thành nên xà hội khi chúng
liên hệ với nhau hay với những sự vật bên ngoài nó.Theo cách
hiểu thứ hai này thì: Quyền lực là cái mà nhờ nó ngời khác
phải phục tùng. Trong sè c¸c bé phËn, c¸c lÜnh vùc cđa x· hội
loài ngời từ khi xuất hiện giai cấp có cái gọi là chính trị.
Chính trị với t cách đó, nhận đợc sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều môn khoa học. Ýt nhÊt, theo nhiỊu nhµ khoa
häc cã uy tÝn ë nớc ta, thì đó là môn chính trị học, nghiên
cứu chính trị ở dạng đại cơng, và các môn khoa học chính
trị chuyên ngành-nghiên cứu các bộ phận, lĩnh vực chính
trị.
Trớc đến nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về
chính trị, trong đó đáng lu tâm là cách hiểu của tập thể
tác giả trong cuốn: Đổi mới và tăng cờng hệ thống chính trị ở
nớc ta trong giai đoạn mới.Trong cuốn sách này, các tác giả
cho rằng: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa
các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan đến vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nớc. Là biểu hiện tập
trung của kinh tế, là những phơng hớng, những mục tiêu đợc
quy định bởi những lợi ích căn bản của giai cấp, của đảng
phái; là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các
đảng phái, các nhà nớc để hiện thực hoá lợi ích căn bản của
mình trong mối tơng quan với các chủ thể chính trị khác.
Mỗi bộ môn khoa học khi lấy chính trị làm đối tợng
nghiên cứu đều có cách nhìn nhận riêng của mình, còn
chính trị học thì Giáo s Đỗ Nguyên Phơng đà có lý khi ông
cho rằng: cái độc đáo của chính trị học là ở chỗ mọi quá
trình, hiện tợng (hoạt động chính trị, hành vi chính trị,
quan hệ chính trị, văn hoá chính trị v.v) đều đợc đặt
trong mối quan hệ và đợc xem xét dới góc độ quyền lực
chính trị. Vì quyền lực chính trị thể hiện bản chất và nội
dung của các hiện tợng và quá trình đó. Chính trị chỉ nảy
sinh ở nới có đấu tranh giai cấp, đấu tranh giành quyền lực.
Không có quyền lực thì không thể có chính trị vì quyền
lực là phơng tiện để thực hiện chính trị. Đây là tiêu chuẩn
đặc thù nhờ đõ mà chính trị học đợc tách ra thành một
khoa học xà hội độc lập.
ở đây, cũng tơng tự nh khi đề cập đến các loại quyền
lực trên, quyền lực chính trị cũng đợc xét ở hai khía cạnh,
quyền lực của chính trị và quyền lực trong chính trị. Nói
cách khác, quyền lực của chính trị đối với các lĩnh vực ngoài
nó nh kinh tế, văn hoá và quyền lực của các bộ phận khác
nhau của chính trị trong quan hệ giữa chúng cũng nh giữa
chúng với các sự vật khác ngoài chính trị. Theo cách hiểu của
Viện Khoa học về chính trị thì quyền lực chính trị là
quyền lực của một giai cấp, một tập đoàn xà hội hay những
sự liên minh giữa chúng (hoặc của nhân dân- trong điều
kiện của CNXH), nó nói lên khả năng của một giai cấp thực
hiện lợi ích khách quan của mình (C.Mác). Trong một ý
nghĩa riêng của từ - Ăngghen viết quyền lực chính trị là
bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp giai cấp
khác.
b. Nhµ níc vµ Qun lùc nhµ níc
Cách quan niệm trên, cũng nh bao cách hiểu khác về
chính trị đều đặt nhà nớc vào vị trí trung tâm của nó.
Hay nói đến chính trị, ngời ta không thể không đề cập
đến vấn đề nhà nớc nh là một bộ phận cấu thành không thể
thiếu. Song cũng nh chính trị, nhà nớc cũng là đối tợng xem
xét của nhiỊu bé m«n khoa häc. Cã thĨ kĨ ra mét số cách
tiếp cận đối tợng nhà nớc của một số bộ môn sau:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu những quy luật
chung nhất của xà hội, và nhà nớc nh một hiện tợng lịch sử
hình thành trong một giai đoạn phát triển nhất định của xÃ
hội cũng đợc nó ®Ị cËp ®Õn. Nã cho r»ng: Nhµ níc lµ tỉ
chøc chÝnh trÞ cđa giai cÊp thèng trÞ vỊ kinh tÕ nhằm bảo
vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác.
Kinh tế chính trị học nghiên cứu quan hệ giữa con ngời
với con ngời trong quá trình sản xuất vật chất, tức là quan hệ
hợp thành cơ sở kinh tế của xà hội. Nhà nớc đợc xây dựng
trên một cơ sở kinh tế nhất định và do cơ sở kinh tế đó
quyết định.
Chủ nghĩa xà hội khoa học, tập trung nghiên cứu nhà nớc
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nhà nớc và pháp luật xem xét những vấn đề chung
nhất về nhà nớc.
Còn ở đây, dới con mắt của chính trị học chúng ta
xem xét nhà nớc không tách rời vấn đề quyền lực. Nói cách
khác, nhà nớc đề cập đến ở đây là quyền lực nhà nớc ở
dạng khả năng cũng nh hiện thực.
Nh trên đà đề cập đến, nhà nớc với t cách là một yếu tố
của chính trị, nên quyền lực nhà nớc, xét về bản chất luôn
là quyền lực của giai cấp thống trị.Nó đợc thực hiện bằng cả
một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Quyền
lực nhà nớc đợc thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.
Một trong những điểm phân biệt với phơng thức thực hiện
các loại quyền lực khác là quyền lực nhà nớc đợc tổ chức
thành cả một hệ thống thiết chế và có khả năng vận dụng
các công cụ của nhà nớc để buộc các giai cấp, tầng lớp xà hội
khác phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Tơng tự nh c¸ch xem xÐt qun lùc x· héi, qun lùc
chÝnh trị, ở đây ta cũng có cái gọi là quyền lực của nhà nớc,
khi nhìn nhận nhà nớc nh một chỉnh thể tác động đến các
đối tợng ngoài nó. Những đối tợng đó có thể thuộc chính
trị, cũng có thể thc x· héi, cịng cã thĨ lµ n»m ngoµi x·
héi. Sau đây chúng ta có thể xét quyền lực nhà nớc với t
cách đó ở một số trờng hợp cụ thể.
b.1) Sự tác động của nhà nớc đến kinh tế hay quyền
lực nhà nớc đối với kinh tế.
Chúng ta biết rằng, kinh tế quyết định chính trị, kinh
tế là yếu tố có trớc, đồng thời với sự tồn tại của xà hội loài ngời còn chính trị là cái có sau. Do sự vận động của kinh tế
mà nảy sinh ra và trong quá trình phát triển của xà hội thì
chính trị luôn là yếu tố bị quy định do chỗ nó là công cụ
để bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị, trong đó trớc hết
là kinh tế. Ăngghen, một trong những ngời sáng lập ra chủ
nghĩa cộng sản khoa học đà không ít hơn một lần nói rằng:
Chúng tôi cũng đà có lỗi khi ngày nay các an hem trẻ nhấn
mạnh quá mức đến yếu tố kinh tế, và tuyệt đối nó. Thật ra,
khi bắt tay vào xây dựng học thuyết của mình, chúng tôi
buộc phải chống lại một số vấn đề hết sức cơ bản mà kẻ thù
t tởng luôn tìm cách phủ nhận là tính quyết định của kinh
tế đối với chính trị, t tởng. Song trong quá trình vận động
của xà hội, chính trị, t tởng luôn có tác động mạnh mẽ trở lại
cơ sở sản sinh ra chúng đó là kinh tế.
Khi nhà nớc tác động đến kinh tế, có thể có một số khả
năng xảy ra nh sau:
- Tác động của nhà nớc cùng chiều, thúc đẩy sự phát
triển của kinh tÕ. SÏ cã mét sè d¹ng xt hiƯn ë đây là:
+ Hoạt động của nhà nớc góp phần tạo ra các quan hệ
kinh tế phù hợp với sự phát triển của sản xuất.
+ Hoạt động của nhà nớc trên cơ sở nắm bắt đợc xu hớng vận động của các quy luật xà hội, nhận thức đúng nó và
từ đó tạo điều kiện để các mặt tích cực của quy luật đợc
phát huy đồng thời loại bỏ những điều kiện để các quy luật
đó không thể hiện đợc những mặt tiêu cực của nó.
+ Hoạt động của nhà nớc thể hiện đợc lợi ích của các
giai cấp tiến bộ trong từng giai đoạn lịch sử của sự phát
triển xà hội.
- Tác động của nhà nớc ngợc chiều và kìm hÃm sự phát
triển của kinh tế, với những biểu hiện là:
+ Các hoạt động nhà nớc duy trì các quan hệ kinh tế
đà lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển của lực lợng sản
xuất.
+ Các hoạt động của nhà nớc nhằm bảo vệ cho lợi ích
của giai cấp phản động chống lại lợi ích của nhân dân lao
động.
+ Các hoạt động nhà nớc không phù hợp với quy luật vận
động khách quan của xà hội.
- Tác động của nhà nớc nhằm hạn chế một số xu hớng
phát triển này của kinh tế và thúc đẩy một số xu hớng phát
triển khác của kinh tế. Điều này đợc thực hiện bằng cách loại
bỏ điều kiện hoạt động của mét sè quy luËt, khiÕn cho sù
vËt tiÕn triÓn theo một hớng mới. Kết quả của kiểu tác động
này cuối cùng có thể quy vào một trong hai kiểu trên.
- Tác động của nhà nớc nh là một khâu trung gian mà
thông qua đó các hình thái ý thức nh văn hoá, nghệ thuật,
triết học v.v ảnh hởng đến sự vận động của kinh tế.
b.2) Quyền lực của nhà nớc đối với các đảng chính trị
Các học giả và chính trị gia trớc C. Mác thờng hiểu nhà
nớc là tổ chức quyền lực công cộng của toàn xà hội, không
phải của giai cấp nào. Ngày nay, nhiều học giả và chính trị
gia phi Mác xít cũng hiểu theo nghĩa đó. Quan điểm trên
đây còn có nhân tố hợp lý ở chỗ, tiền thân của nhà nớc là
các tổ chức tự quản trong thị tộc, bộ lạc. Song họ lại không
thấy đợc rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc hình thành
nhà nớc là sự xuất hiện của giai cấp. Lênin đà từng nói: Nhà
nớc là sản phẩm và biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hoà đợc. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà đợc thì nhà nớc xuất hiện và ngợc lại: sự tồn tại của
nhà nớc chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không
thể điều hoà đợc nhà nớc ®ã lµ viƯc lËp ra mét trËt tù, trËt
tù nµy nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức bằng cách làm
dịu sự xung đọt giai cấp. Nói cách khác, các quan điểm
ngoài Mác xít trên đúng với nghĩa, nhà nớc nào thực thi
quyền lực cũng phải thể hiện nh quyền lực công cộng, phải
tính lợi ích của toàn thể, nếu ngợc lại sẽ mất khả năng tồn tại.
Nh vậy, ở nhà nớc, chức năng xà hội chịu sự chi phối bởi
chức năng thống trị giai cấp. Song cũng không loại trừ vai trò
to lớn của nhà nớc trong việc thực hiện chức năng xà hội.
Ăngghen đà chỉ ra rằng: ở khắp nơi, chức năng xà hội là cơ
sở của sự thống trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo
dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xà hội của nó
Quán triệt cách nhìn trên khi xem xét nhà nớc ảnh hởng
đến các đảng chính trị nh thÕ nµo. Chóng ta cã thĨ chia
các đảng chính trị thành ba nhóm lớn: Nhóm thứ nhất là các
đảng cầm quyền và đồng minh của chúng. Nhóm thứ hai
gồm các đảng đối lập với đảng cầm quyền và nhóm thứ ba
là các đảng theo đờng lối trung dung.
Thờng thì nhà nớc luôn phải thể hiện ý chí của đảng
cầm quyền, song cũng có khi nó dờng nh đối lập với lợi ích
của đảng cầm quyền. Trong trờng hợp sau, thì thờng là ẩn
dấu đằng sau đó việc bảo vệ cho sự cầm quyền của đảng
đó trớc sức tấn công của các lực lợng đối lập, và lúc này nhà
nớc xuất hiện nh là t cách của một tổ chức công cộng thực
hiện chức năng xà hội của mình.
Đối với nhóm các đảng phái thứ hai và thø ba, nhµ níc thêng thĨ hiƯn qun lùc cđa nó bằng các công cụ hiện đại và
thờng bắt buộc họ phải tuân thủ theo ý chí của nó bằng các
thủ đoạn cụ thể hết sức đa dạng, phong phú. Và dĩ nhiên,
trong mọi trờng hợp nh vậy, quyền lực đó đợc thể hiện bề
ngoài là nó thực hiện chức năng xà hội với tầng ngầm vô thức
hay có ý thức là bảo vệ lợi ích của đảng cầm quyền đại
diện cho những nhóm xà hội xác định.
Trở lại vấn ®Ị, ta thÊy, ngoµi viƯc xÐt qun lùc cđa
nhµ níc nh là một chính thể thống nhất thì còn có cái gọi là
quyền lực trong nhà nớc. Đó là các loại quyền lực của các bộ
phận cấu thành nên nhà nớc đó. Nhìn vào các nhà nớc hiện
đại chúng ta ®Ịu thÊy r»ng chóng lµ mét tỉ chøc hÕt søc
phøc tạp nh nó bao gồm rất nhiều cơ quan có quan hệ theo
chiều ngang giữa các tổ chức cùng cấp, lại có kiểu quan hệ
theo chiều dọc nh giữa trung ơng với địa phơng v.v.
Trong lịch sử, tổ chức tiền thân nhà nớc trong các thị
tộc bộ lạc chỉ đảm nhận những công việc chung của cộng
đồng đà bị tha hoá thành nhà nớc của một nhóm ngời thống
trị. Và kể từ đó là lịch sử đấu tranh giai cấp giành lại quyền
lực đà mất diễn ra hết sức ác liệt mà mỗi bớc tiến của lịch sử
là một bớc để khắc phục tính chất tha hoá đó. Với cách
nhìn đó ta thấy việc phân chia quyền lực thống nhất của
nhà nớc thành các nhánh khống chế và kiểm soát lẫn nhau ®·
trë thµnh mét bíc tiÕn bé to lín cđa loµi ngời trong việc xây
dựng nhà nớc.
Quan sát từng con ngời ta thấy thờng thì trớc khi làm
một việc gì bao giờ ngời ta cũng phải định hình công việc
đó trong đầu trớc và sau khi công việc đà hoàn tất lại phải
xem mức độ phù hợp của nó với dự định ban đầu thế nào và
đó chính là sự phân biệt cơ bản giữa con ngời và con vật
nh chủ nghĩa Mác đà vạch ra. Trình tự trên ngày càng đợc
làm sâu sắc hơn trong tiến trình phát triển của nhân loại.
Tơng tự nh vậy, đối với mỗi tổ chức trong xà hội loài ngời
đặc biệt là nhà nớc quy trình đó cũng tồn tại một cách
khách quan. Nhà nớc cần định ra những quy định để thực
hiện chức năng của mình trớc khi bắt tay vào những công
việc cụ thể và sau đó phải xem xem những việc đà làm có
phù hợp với những dự định đà đặt ra ban đầu không. Nói
cách khác: lập pháp, hành pháp, t pháp là những công việc
vốn có, tồn tại khách quan trong nhà nớc. Song chỉ sau cách
mạng t sản nó mới đợc chỉ ra rõ rang, đợc hiện thực hoá, và
có những cơ quan đảm trách riêng.
T tởng tam quyền phân lập đà có từ rất lâu trong lịch
sử, song ngời cha đẻ đích thực của học thuyết này là nhà t
tởng chính trị vĩ đại ngời Pháp S.L.Mongtexkiơ sống rất gần
thời với chúng ta. Ông sinh năm 1686, mất năm 1775. S.L.
Moongtexkiơ cho rằng: Lập pháp tức là làm ra luật.Luật là
hình thức cao nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nớc,
không chỉ vì hiệu lực pháp lý của nó mà còn vì sự uỷ
quyền pháp lý - luật do chính những đại biểu do nhân dân
bầu làm ra. Nếu quan niệm luật là ý chí của nhà nớc đợc
nâng lên thành luật thì ý chí ở đây là ý chí của cơ quan
đại diện cho nhân dân, suy cho cùng chính là ý chí của
nhân dân vì thông qua bầu cử nhân dân đà thể hiện ý
chí của mình. ĐÃ uỷ quyền cho những đại diện của
mình.Nhiều khi ý chí của nhân dân cũng đợc biểu thị một
cách trực tiếp; khi thông qua đạo luật cơ bản là Hiến pháp.
Giới hạn, phạm vi của quyền lập pháp do Hiến pháp quy định.
Nh vậy, Hiến pháp thể hiện tính tối cao, hiệu lực cao nhất
của đạo luật cơ bản. Cơ quan lập pháp hoạt động trong
khuôn khổ mà hiến pháp quy định. Các đạo luật khác do cơ
quan lập pháp thông qua đều phải phù hợp với Hiến pháp.
Quyền hành pháp chính là quyền thi hành pháp luật,
cơ quan thực hiện quyền hành pháp (cơ quan hành pháp)
tức là cơ quan thừa hành sự uỷ quyền từ phía cơ quan khác
cơ quan lập pháp. ĐÃ là hành vi đợc thực hiện theo sự uỷ
quyền thì không thể vợt ra khỏi phạm vi, giới hạn đợc uỷ
quyền. Nếu nh quyền của cơ quan lập pháp là quyền phái
sinh từ cử tri thì quyền của cơ quan hành pháp là quyền
phái sinh từ cơ quan lập pháp. Nếu xét từ phơng diện quyền
lực thì quyền hành, hoạt động của nó không phải do chính
nó tự đề ra.
Tự do có nghĩa là quyền đợc làm tất cả những gì mà
luật không cấm, sự phân quyền trong nhà nớc là sự bảo
đảm của tự do cộng đồng. Chính các cơ quan nắm quyền
t pháp bảo đảm cho sự tự do công cộng ấy. Cơ quan lập
pháp cũng có thể xâm hại đến quyền và lợi ích của công
dân (khi ban hành những đạo luật tuỳ tiện), cơ quan hành
pháp lại càng có thể xâm hại đến quyền và lợi ích của công
dân (lấn át quyền hành pháp, thực hiện quyền hành ngoài
sự uỷ quyền). Trong những trờng hợp nh vËy, c¬ quan t
pháp sẽ đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích, sự tự do của công
dân đà bị xâm hại.
Đề cập đến tác hại của công việc không có sự tách biệt
giữa ba quyền này, S.L. Mongtexkiơ nói: nếu nh quyền hành
pháp và lập pháp nằm trong tay một ngời, hoặc một cơ quan
thì sự tự do sẽ không có bởi vì sẽ có nguy cơ ông vua hay
nghị sỹ nào đó sẽ ban hành các đạo luật tàn bạo để rồi áp
dụng cái đạo luật đó cũng theo kiểu tàn bạo. Nếu nh quyền
t pháp gắn với quyền lập pháp thì cuộc sống và tự do của
công dân sẽ đặt dới quyền lực của sự tuỳ tiện bởi vì quan
toà chính là ngời làm ra luật.Nếu nh quyền t pháp gắn với
quyền hành pháp thì quan toà dễ trở thành kẻ áp bức. Và sự
tự do của công dân sẽ không thể có đợc nếu nh cả ba quyền
rơi vào tay một ngời.
Nh vậy, qua cách hiểu trên ta có thĨ quan niƯm r»ng:
Qun lùc nhµ níc lµ mét thĨ thống nhất của ba quyền lập
pháp, hành pháp và t pháp nhằm thực hiện chức năng xà hội
và thống trị giai cấp.
2. Phơng thức hình thành cơ quan lập pháp Nhật
Bản và quyền lực của nó đối với xà hội
Với ¶nh hëng cđa d ln tiÕn bé trªn thÕ giíi, sự áp đặt
của đồng minh và sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân Hiến
pháp Nhật Bản năm 1946 đà đợc ban hành. Hiến pháp tuyên
bố rằng nhân dân nắm giữ chủ quyền và soạn thảo hiến
pháp này nhân dân phủ nhận và coi nh vô giá trị những
bản Hiến pháp, đạo luật, quy tắc vi phạm Hiến pháp (Lời nói
đầu Hiến pháp 1946). Đồng thời bản Hiến pháp đà thể hiện
đợc ba nội dung cơ bản là: nguyên tắc chủ quyền nhân
dân, bảo đảm các quyền cơ bản và tinh thần hoà bình.Nhà
nớc Nhật Bản hiện nay đợc hình thành trên cơ sở của Hiến
pháp đó.
Từ việc xác định chủ quyền thuộc về nhân dân, Hiến
pháp năm 1946 đà khẳng định quyền tham gia hoạt động
chính trị của nhân dân, Hình thức dân chủ nhất để
nhân dân tham gia chính trị là trực tiếp bầu ra cơ quan
đại diện cho mình thực hiện quyền lực chính trị, đó là
Quốc hội. Hiến pháp quy định rõ Quốc hội là cơ quan đại
diện cao nhất cho quyền lực nhân dân và vị trí tợng trng
của Thiên Hoàng.
Theo nguyên tắc chủ quyền do nhân dân quyết
định, Hiến pháp Nhật bản năm 1946 quy định việc thành
lập các cơ quan nhà nớc nh Quốc hội nội các, toà án là những
cơ quan quyền lực nhà nớc. Tổ chức bộ máy nhà nớc đó của
nhà nớc Nhật Bản đợc xây dùng theo Thut “Tam qun
ph©n lËp” cđa J.Locke (1632 – 1704) và S.L.Mongtexkiơ
(1686 1775). Trên cơ sở học thuyết này, Hiến pháp khẳng
định rằng: Quốc hội là cơ quan đại diện cho nhân dân,
gồm các nghị sỹ đợc bầu cử công khai. Quốc hội là cơ quan
quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp duy nhất của đất nớc
(Điều 41, Hiến pháp 1946). Nh vậy, có thể nói nền chính trị
Nhật Bản hoạt động theo nguyên tắc Quốc hội là trung
tâm với hình thức cộng hoà nghị viện.
Quốc hội Nhật Bản hiện nay có hai Viện: Hạ nghị viện
và Thợng nghị viện. Trong khi cơ cấu hai Viện của Quốc hội
theo Hiến pháp Minh Trị trớc kia không có thực quyền thậm
chí chỉ là hình thức, tất cả quyền lực tập trung vào Thiên
Hoàng thì cơ cấu theo hai Viện của Quốc hội hiện nay,
nhằm giám sát và hạn chế quyền lực của nhau.Bảo đảm sự
không thái quá của mỗi Viện trong quá trình thực hiện
quyền lực. Các nghị sỹ hiện nay là do nhân dân bầu ra, là
đại biểu của toàn thể nhân dân, còn các nghị sỹ theo
Hiến pháp cũ có thể đợc bầu theo hình thức đại cử tri, cũng
có thể do Thiên Hoàng bổ nhiệm. Hình thức tổ chức Quốc
hội kiểu này cũng đợc áp dụng ở Quốc hội của các nớc theo trờng phái luật Anh và các nớc Tây Âu. ở nớc ta và một số níc x·
héi chđ nghÜa kh¸c nh Trung Qc, Cu Ba… không tổ chức
theo mô hình này, mà Quốc hội là sự thống nhất (Quốc hội
đơn nhất). Quốc hội nớc ts và những nớc đó đợc trao quyền
tự xem xét những việc làm đợc và cha làm đợc của mình.
a. Phơng thức hình thành và cơ cấu tổ chức của
Hạ nghị viện
Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 trao cho Hạ nghị viện có
quyền lực cao hơn Thợng nghị viện trên nhiều phơng diện.
Khác hẳn với Hạ nghị viện theo Hiến pháp Minh Trị năm
1889, quyền lực của Hạ nghị viện bị Thợng nghị viện (Viện
quý tộc) kiểm soát.
Theo Luật bầu cử áp dụng từ năm 1946 đến năm 1994,
Hạ nghị viện gồm các nghị sỹ đợc bầu theo các khu vực. Con
số Hạ nghị sỹ cũng nh khu vực không cố định mà luôn luôn
thay đổi theo diễn biến của chính trờng Nhật Bản (xem
bảng 3, phụ lục). Vào năm 1993, số Hạ nghị sỹ là 511 với 129
khu vực bầu cử. Số ứng cử viên cảu từng tỉnh, vùng xê dịch
từ 1 (vùng Amami Islands) đến 6 (vùng Hokkaido), nhng phần
lớn các quận, huyện thờng có từ 3 đến 5 ứng cử viên (gọi là
đơn vị bầu cử trung bình).
Luật bầu cử sửa đổi năm 1994, đợc áp dụng lần đầu
tiên trong cuộc tổng tuyển cử ngày 20.10.1996 xác định số
Hạ nghị viện chỉ còn 500. Lúc này, Nhật Bản lần đầu tiên
áp dụng chế độ bầu cử kết hợp giữa khu vực bầu cử nhỏ
(300 ghế) với khu vực bầu cử theo tỷ lệ (200 ghế). Mỗi cử tri
sẽ đồng thời bỏ hai lá phiếu:một ghi tên ứng cử viên (khu vực
bầu cử nhỏ)và một ghi tên chính đảng (khu vực theo tỷ lệ).
Cả nớc chí làm 300 khu vực bầu cử nhỏ, mỗi khu vực chỉ
chän mét nghÞ sü. Ngêi cao phiÕu nhÊt tróng cư, song phải
đạt ít nhất 1/6 số phiếu bầu nếu không, phải bầu lại. 47
tỉnh và thành phố trực thuộc đợc chia làm 11 khu vực bầu
cử theo tỷ lệ (Tôkyô và Hokkaido là 2 đơn vị độc lập).
Hiện nay, theo Luật bầu cử mới, đợc sửa đổi vào ngày
27.01.2000 và đợc áp dụng lần đầu tiên trong cuộc bầu cử
ngày 25.06.2000 đà rút số nghị sỹ cấu thành nên Hạ nghị
viện xuống còn 480 nghị sỹ.20 ghế rút bớt này tập trung vào
khu vực bầu cử nhỏ, nghĩa là khu vực bầu cử nhỏ hiện nay
chỉ còn 280 điểm. Tuy nhiên cách thức bầu cử vẫn nh Luật
sửa đổi năm 1994. Đặc điểm lớn nhất của chế độ bầu cử từ
năm 1994 đến nay là một chính khách có thể đồng thời
ứng cử ở cả hai khu vực, tạo điều kiện cho ngời ở các đảng
phái thất bại ở khu vực bầu cử nhỏ vẫn có khả năng trở thành
nghị sỹ Hạ nghị viện ở khu vực theo tỷ lệ.
Khác với bầu cử Hạ nghị viện hiện nay, theo Hiến pháp
Minh Trị và Luật bầu cử vào Hạ nghị viện năm 1889 (văn bản
pháp luật số 3, Minh Trị thứ 22) thì những ngời có quyền
bầu nên Hạ nghị viện phải là nam giới, là thần dân từ 25
tuổi trở lên và là ngời có thu nhập cao. Vì vậy những ngời
có quyền bầu cử thời gian đầu chỉ chiếm không quá 1%
tổng số dân, và trớc khi có Luật bầu cử sửa đổi năm 1925
mở rộng quyền bầu cử cho tất cả nam giới thì con số đó
cũng chỉ là 5,5%. Việc bầu cử vào Hạ nghị viện từ trớc đến
nay luôn thể hiện sự chênh lệch lá phiếu của cử tri giữa
thành thị và nông thôn do phông trào di dân. Giá trị phiếu
bầu vào Hạ nghị viện ở vùng nông thôn ít ngời cao gấp
nhiều lần so với phiếu bầu ở thành thị. Chính vì sự chênh
lệch nh vậy, cho nên tháng 7 năm 1985. Toà án tối cao Nhật
Bản đà tuyên bố rằng sự phân bố khu vực bầu cử hiện tại
thực tế đà vi phạm Hiến pháp. Tình hình các đảng phái
tham gia Hạ nghị viện cho thấy Đảng Dân chủ -Tự do thờng
chiếm đa số tuyệt đối hay tơng đối trong Hạ nghị viện so
với các đảng đối lập, điều này đợc thể hiện ở kết quả
tuyển cử Hạ nghị viện trong nhiều năm.
Nhiệm kỳ của Hạ nghị viện là 4 năm. Nhng theo quy
định của Hiến pháp thì Hạ nghị viện có thể bị giải tán bởi
sắc lệnh của Nhật Hoàng trên cơ sở đề nghị của Thủ tớng,
vì hiếm khi thấy đại biểu của Hạ nghị viện có thể phục vụ
đợc hết thời hạn.
Theo Hiến pháp, Luật công chức và luật tuyển cử thì Hạ
nghị viện có thể bị giải tán trong các trờng hợp sau đây:
-Theo đề nghị của ít nhất 2/3 tổng số đại biểu vì xét
thấy tình hình chính trị cần phải đợc thay thế bằng một
Hạ nghị viện khác.
-Đảng cầm quyền mất uy tín và gây những hậu quả to
lớn cho chính trị và kinh tế Nhật Bản và đơng nhiên vị trí
của đảng cầm quyền trong Quốc hội thiếu ổn định và mất
thế lực.
-Bất đồng lớn về chính trị giữa nội các và Hạ nghị viện
mà chính Thủ tớng thấy cần thiết phải giải tán hạ nghị viện
vì lợi ích quốc gia, và các trờng hợp khác khi cần thiết.
Về cơ cấu tổ chức, quan hệ bên trong của Hạ nghị
viện, chúng ta có thể thấy bao gồm các cơ quan chủ yếu nh
sơ đồ phụ lục 2 đà chỉ ra.
Hội đồng và các Uỷ ban thờng trực của Hạ nghị viện đợc bầu trong số các nghị sỹ và số thành viên đợc quyết định
theo sức mạnh của từng đảng. Hội đồng và các Uỷ ban này
hoạt động thờng xuyên, thông qua cơ quan thờng trực, thực
hiện chức năng giám sát hoạt động của Nội các (ra nghị
quyết không tín nhiệm Nội các và Thủ tớng); thẩm định các
dự luật trớc khi trình để thông qua ở hai Viện.
Theo điều 58 của Hiến pháp, mỗi Viện sẽ tự chọn chủ
tịch và các viên chức của mình. Chức năng chủ yếu của chủ
tịch và phó chủ tịch các Viện là điều hành các khoá họp và
quyết định chơng trình làm việc của mỗi Viện. Ngoài ra,
do số lợng các dự luật quá lớn khiến các thành viên của Quốc
hội rất khó tập trung để cùng nhau thảo luận về từng dự luật
nên Quốc hội đợc chia thành nhiều uỷ ban chuyên trách cho
từng lĩnh vực hoạt động khác nhau. Chức năng, nhiệm vụ
của các Uỷ ban là giúp Quốc hội chuẩn bị trớc các dự án và
kiểm tra hoạt động của Chính phủ. Hạ nghị viện có 20 uỷ
ban thờng trực, mỗi uỷ ban ngoài các thành viên của mình
còn có một chủ nhiệm và hai phó chủ nhiệm. Các uỷ ban này
sẽ giúp Hạ nghị viện giải quyết những vấn đề liên quan
đến những lĩnh vực mà nó đảm trách.
Hai mơi uỷ ban của Hạ nghị viện, bao gồm:
1-
Uỷ ban Nội các: Giám sát hoạt động của Nội các
(Văn phòng Thủ tớng không thuộc phạm vi quyền hạn
của uỷ ban này cũng nh các uỷ ban khác).
2-
Uỷ ban về các vấn đề pháp luật: Phụ trách các vấn
đề thuộc quyền hạn của Bộ T pháp nh Luật dân sự,
Luật hình sự, Luật thơng mại.
3-
Uỷ ban tài chính: Phụ trách các vấn đề thuộc
quyền hạn của Bộ Tài chính trừ dự thảo ngân sách
và các dự luật.
4-
Uỷ ban các vấn đề Lao động và XÃ hội: Giám sát
các vấn đề thuộc quyền hạn của Bộ Y tế và Phúc lợi
và Bộ Lao động.
5-
Uỷ ban thơng mại và Công nghiệp: Giám sát các
vấn đề thuộc quyền hạn của Bộ Công thơng (MITI),
Cục Kế hoạch Kinh tế và Uỷ ban Mậu dịch Công
bằng.
6-
Uỷ ban thông tin: Giám sát các thông tin thuộc
quyền hạn của Bộ Bu chính Viễn thông.
7-
Uỷ ban kỷ luật: Xem xét việc kỷ luật của các thành
viên của Hạ nghị viện.
8-
Uỷ ban khoa học công nghệ: Giám sát các vấn đề
thuộc quyền hạn của Cục Khoa học Công nghệ.
9-
Uỷ ban Môi trờng: Giám sát các vấn đề thuộc
quyền hạn của Cục Môi trờng.
10-
Uỷ ban ngân sách: Giám sát việc thực hiện ngân
sách và các vấn đề quốc gia.
11-
Uỷ ban Chính quyền địa phơng: Giám sát chính
quyền địa phơng và tài chính thuộc quyền hạn của
Bộ Tự trị.
12-
Uỷ ban Giáo dục: Giám sát các vấn đề thuộc quyền
hạn của Bộ Giáo dục.
13-
Uỷ ban Giao thông Vận tải: Giám sát các vấn đề
về phơng tiện giao thông.
14-
Uỷ ban xây dựng: Giám sát các vấn đề thuộc
quyền hạn của Bộ Xây dựng
15-
Uỷ ban Nông Lâm Ng nghiệp: Giám sát các vấn
đề thuộc Bộ Nông Lâm Ng nghiệp.
16-
Uỷ ban Kiểm toán: Xem xét giải quyết các vấn đề
tài chính.
17-
Uỷ ban các Luật lệ và Hành chính: Điều hành Quốc
hội và chuẩn bị các chơng trình nghị sự cho các
phiên họp toàn thể.
18-
Uỷ ban Ngoại giao: Giám sát các vấn đề thuộc
quyền hạn của Bộ Ngoại giao bao gồm cả các hiệp ớc.
19-
Uỷ ban An ninh
20-
Uỷ ban Sức khoẻ và Phúc lợi xà hội.
b. Phơng thức hình thành và cơ cấu tổ chức của
Thợng nghị viện
Thợng nghị viện cũng đợc thành lập trên cơ sở bầu cử
nh Hạ nghị viện, Thợng nghị viện gồm 252 nghị sỹ đợc bầu
với nhiệm kỳ 6 năm và cứ 3 năm lại bầu lại một nửa. 252 nghị
sỹ đợc bầu từ hai loại hình thức khác nhau: 152 nghị sỹ đợc
bầu từ 47 khu vực tơng ứng với 47 tỉnh của Nhật bản, mỗi
khu vực đợc bầu từ 2 đến 8 đại biểu tuỳ theo tỷ lệ dân số
của tỉnh, còn lại 100 nghị sỹ đợc phân bổ cho các đảng
phái chính trị dựa trên kết quả cđa cc tỉng tun cư réng
r·i trong c¶ níc. Nh vậy, mỗi lần bầu cử Thợng nghị viện thì
các tỉnh sẽ bầu 76 ghế và 50 ghế sẽ đợc giành cho các đảng
phái theo tỷ lệ phiếu họ thu đợc. Trong hệ thống bầu theo tỷ
lệ phiếu, các đảng phải thoả mÃn vào một số điều kiện tối
thiểu sau:
1-
Đảng đó phải có ít nhất 5 thành viên là nghị sỹ
của khoá trớc
2-
Trong cuộc tổng tuyển của lần trớc đó đảng phải
đạt đợc tối thiểu 4% số phiếu bầu.
3-
Số ngời tiến cử phải lớn hơn 10.
Ví dụ, nếu trong một đơn vị bầu cử bầu ra 6 đại biểu
thì các đảng trúng cử sẽ phụ thuộc vào số phiếu bầu mà họ
nhận đợc. (Xem bảng sau làm tròn số)
Bảng tính số ghế các Đảng giành đợc qua bầu cử
(24,11). Cách tính này học theo cách tính của nhà toán học
Dont tức là lấy số phiếu thuận nhận đợc của mỗi Đảng chia
cho các số tự nhiện. Thơng nhận đợc xếp theo thứ tự giảm
dần từ lớn đến nhỏ cho đến khi đủ số ngời ấn định từ trớc.
ở đây số nhỏ trong ngoặc chỉ số thứ tự của thơng đó.
Số phiếu bầu
Chia cho 1
Chia cho 2
Đảng A
1000 (1)
500 (3)
Đảng B
550 (2)
275 (6)
Đảng C
350 (4)
175
Chia cho 3
Chia cho 4
333 (5)
250
183
138
117
117
ở đây số ghế mỗi Đảng giàng đợc là:
Đảng A: Giành đợc 3 ghế
Đảng B: Giành đợc 2 ghế
Đảng C: Giành đợc 1 ghế.
Tất cả mọi công dân từ 30 tuổi trở lên đều có thể
tham gia ứng cử vào thợng nghị sỹ. Tuy nhiên không cho
phép ai đợc kiêm nhiệm chức vụ nghị sỹ ở cả hai Viện (Điều
48 - Hiến pháp). Đối với cử tri thì tuổi tối thiểu cho phép đợc
đi bầu cử là 20 tuổi và phải c trú ở khu vực của mình từ 3
tháng trở lên. Cách thức lựa chọn Thợng nghị sỹ hiện nay khác
về cơ bản với cách thức lựa chọn Thợng nghị sỹ hiện nay
khác về cơ bản với cách thức lựa chọn Thợng nghị sỹ theo
Hiến pháp Minh Trị. Nếu nh ngày nay các Thợng nghị sỹ do
dan bầu thì thời Minh Trị, Thợng nghị viện (Viện quý tộc)
chỉ bao gồm những ngời thuộc tầng lớp quý tộc và do Thiên
Hoàng bổ nhiệm. Trên thực tế mọi quyền lực đều do Thiên
Hoàng nắm giữ và Thợng nghị viện có vai trò lấn lớt trong so
sánh với Hạ nghị viện. Tình hình này xem ra hiện nay bị
đảo ngợc (vấn đề này chúng ta sẽ xem xÐt kü ë tiÕt sau) tuy
nhiƯn do nhiƯm kú cđa Thợng nghị viện dài hơn so với nhiệm
kỳ của Hạ nghị viện và trong quan hệ với Nội các giải tán nên
đợc đảm bảo về mặt chính trị hơn.
Một trong những thiếu sót nghiêm trọng của hệ thống
bầu cử Thợng nghị viện nói riêng và cơ quan lập pháp nói
chung của Nhật Bản nh phần trên đà đề cập đến là sự
chênh lệch ngày càng nhiều về giá trị lá phiếu ở nông thôn
so với thành thị. Điều này là do tốc độ đô thị hoá quá nhanh
trong khi theo luật hiện hành thì việc điều chỉnh dân số
phải sau 5 năm mới thực hiện một lần theo kết quả ®iÒu tra
dân số mới nhát. Trong cuộc tổng tuyển cử 1983, giá trị của
một lá phiếu bầu vào Thợng nghị viện ở vùng nông thôn ít
ngời gấp 4,4 lần so với một lá phiếu ở thành thị. Con số đó
với năm 1986 ít gấp 4,6 lần, năm 1989 là 5,2 lần, năm 1992
là 5,5 lần và đơng nhiên những kỳ tiếp theo con số đó vẫn
tiếp tục tăng.
ở Nhật Bản, Đảng Dân chủ - Tự do (LDP), đảng cầm
quyền hiện nay thờng chiếm tỷ lệ lớn trong thành phần Thợng
nghị viện so với các đảng khác.
Số ghế trong Thợng nghị viện của các đảng phái phản
ánh uy tín của đảng đó trên vũ đài chính trị ở Nhật Bản.
Tuy kết quả có khác nhau qua một số cuộc tuyển cử vào Thợng nghị viện song Đảng Dân chủ - Tự do vẫn luôn là một
đảng có thế lực mạnh cho dù không phải lúc nào nó cũng
chiếm đợc u thế tuyệt đối.
Trong phiên họp đầu tiên của khoá mớ, Thợng nghị viện
sẽ bầu ra Uỷ ban Kiểm tra t cách của các đại biểu để tiến
hành kiểm tra t cách của các đại biểu mới đợc bầu bổ sung.
Đồng thời tiến hành bầu Chủ tịch Thợng nghị viện, Hội đồng
và các cơ quan chuyên môn giúp việc của Thợng nghị viện.
Các Uỷ ban thờng trực của Thợng nghị viện tơng tự nh
Hạ nghị viện trừ Uỷ ban An ninh, Uỷ ban môi trờng và Uỷ ban
Khoa học và Công nghệ, nó bao gåm 17 ban:
- ban vỊ c¸c vÊn ®Ị ph¸p lt: T theo tõng kho¸,
ban cã thĨ có từ 9 12 thành viên, có 1 Chủ nhiệm và 2
phó Chủ nhiệm. Các thành viên của Uỷ ban này thờng là
những ngời có am hiểu sâu về pháp luật do đợc đào tạo khá
cơ bản về pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn trong việc
xây dựng và giám sát pháp luật. Uỷ ban sẽ giúp Thợng nghị
viện về những vấn đề liên quan đến ban hành và gi¸m s¸t
luËt.
- Uỷ ban về Ngoại giao: Tơng tự nh Uỷ ban về các vấn
đề pháp luật, số thành viên của Uỷ ban này cũng thay đổi
tuỳ từng khoá Thợng nghị viện và giúp Thợng nghị viện về
những vấn đề liên quan đến ngoại giao. Bên cạnh đó còn có
các Uỷ ban khác nh: Uỷ ban về Tài chính, Uỷ ban về Giáo
dục, Uỷ ban về các vấn đề Lao động và XÃ hội v.v.với cơ
cấu cũng tơng tự các Uỷ ban trên.
Hội đồng và các Uỷ ban thờng trực của Thợng nghị viện
đợc bầu từ các nghị sỹ, trong đó có một số thành viên hoạt
động thờng xuyên. Hội đồng và các Uỷ ban thờng trực của
Thợng nghị viện đóng vai trò quan trọng tạo nên hiệu quả
hoạt động của Thợng nghị viện. Thành viên của Hội đồng và
các ủy ban thờng trực của Thợng nghị viện đợc quyết định
theo sức mạnh của từng đảng tham gia Thợng nghị viện.
Tuỳ theo tình hình thực tế, Thợng nghị viện có thể
thành lập một số Uỷ ban đặc biệt, giúp Thợng nghị viện giải
quyết những công việc có tính chất quan trọng, hoặc nảy
sinh trong điều kiện mới, nh có nội chiến, khủng hoảng
chính trị. Các Uỷ ban này cũng có thể tån t¹i hÕt nhiƯm
kú, nhng cã thĨ chØ tån t¹i trong một thời gian nhất định
theo tính chất đặc biệt của công việc.
Ngoài ra, Thợng nghị viện còn thành lập các Uỷ ban
nghiên cứu về các vấn đề của đời sống kinh tế xà hội nhằm
giúp cho Thợng nghị viện có đợc những thông tin mang tính
khoa học tạo cơ hội để có những quyết sách đúng đắn.
3. Mối quan hệ giữa hai Viện của cơ quan lập
pháp.
Nghị viện Nhật Bản tổ chức trên cơ sở Hiến pháp Minh
Trị hay còn gọi là Đế quốc Nghị hội đợc tổ chức thµnh hai
Viện: Thợng nghị viện tức Viện Quý tộc và Hạ nghị viện tức
Chúng nghị viện. Trong đó, Thợng nghị viện đại diện cho
tầng lớp quý tộc, bao gồm những ngời thuộc dòng dõi Hoàng
tộc đợc Thiên Hoàng bổ nhiệm. Còn Hạ nghị viện tuy là cơ
quan do dân bầu nhng có vai trò rất mờ nhạt trong bộ máy
nhà nớc, quyền lực thực tế đều nằm trong tay Thiên Hoàng
cùng với sự chi phối của Thợng nghị viện. Ngoài ra, Hiến pháp
này còn có những quy định rất chặt chẽ về tiêu chuẩn đối
với cử tri cũng nh ứng cử viên. Và để hạn chế thêm quyền lực
của Hạ nghị viện, một cơ quan nữa của Hoàng đế đà đợc
thành lập đó là Viện Cơ mật giúp nhà vua giải quyết những
vấn đề trọng yếu của đất nớc. Tuy nhiên trong giai đoạn
1912 1932, với sự hoạt động mạnh mẽ của các chính đảng
và vai trò to lớn của nó đợc xác định trong đời sống chính
trị đà khiến cho hạ nghị viện xích gần lại tới vị trí trung
tâm hơn.
Sau khi Hiến pháp Nhật Bản đợc ban hành vµo ngµy
03.11.1946 vµ cã hiƯu lùc ngµy 03.05.1947, qun lùc của
Quốc hội đà có sự thay đổi cơ bản.Hiến pháp quy định
Thiên Hoàng là biểu tợng quốc gia, chủ quyền thuộc về
nhân dân và do Quốc hội bầu. Vì vậy, Quốc hội là cơ quan
đại diện cho dân và có quyền lực cao nhất, cơ quan làm
luật duy nhất và giám sát việc thực hiện các văn bản đó.
Cũng nh hầu hết các nớc phơng Tây, Quốc hội Nhật Bản gồm
hai Viện (Điều 47 Hiến pháp). Trong đó, Hạ nghị viện có u
thế hơn so với Thợng nghị viện. Việc áp dụng cơ cấu nh vậy
ở Nhật Bản là dựa trên cơ sở quan điểm hai Viện có tổ chức
khác nhau sẽ tiến hành các cuộc họp riêng bàn về từng dự
luật, làm cho các dự luật đợc xem xét, bàn bạc kỹ lỡng
hơn.Trong khi thực hiện nhiệm vụ mà đặc biệt là quá trình