Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

TIỂU LUẬN môn QUYỀN lực CHÍNH TRỊ cầm QUYỀN vấn đề KIỂM SOÁT QUYỀN lực CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.18 KB, 12 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN

Đề tài:
VẤN ĐỀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


LỜI MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của
Đảng ta năm 1991 đã khẳng định: Tồn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng bước nền dân chủ XHCN,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng, những năm qua trong
khi lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chúng ta cũng đã từng bước đổi mới hệ
thống chính trị. Vai trị lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước,
tính tích cực chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị xã hội ngày càng được nâng cao, ý thức và quyền làm chủ của nhân dân
tham gia vào côg việc quản lý nhà nước ngày càng phát triển và mở rộng.
Nhờ vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định, đời sống của
nhân dân được cải thiện từng bước.
Trong khi khẳng định những bước tiến đó, chúng ta cũng thấy rằng so với
yêu cầu thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; tổ chức
và hoạt động của Nhà nước còn quan liêu, cồng kềnh, kém hiệu quả; Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cịn kém năng động, đội ngũ cán bộ đồn thể
vẫn chưa khắc phục được tình trạng "cơng chức hóa". Nghiêm trọng hơn là một
bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị thối hóa về phẩm chất đạo đức cách
mạng; một bộ phận đuối về năng lực, trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang
đặt ra trước hệ thống chính trị nước ta những vấn đề cấp bách cần giải quyết.
Những yếu kém trên đây đã dẫn tới tình trạng quyền làm chủ của nhân dân ở
nhiều nơi bị vi phạm nghiêm trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống chính


trị mới có thể nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của quá trình đổi mới theo định hướng XHCN.
Vì vậy, vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay vơ
cùng quan trọng đặc biệt là quyền kiểm sốt của nhân dân lao động trong tiến
trình đổi mới hệ thống chính trị.
2


NỘI DUNG
I. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ (QLCT):
1. Khái niệm quyền lực:
Quyền lực là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa trong lịch sử phát
triển của loài người nhưng cho tới nay vẫn còn là một vấn đề đang được tranh
cãi. Có thể nhận thấy sự có mặt của quyền lực trong tất cả các mối quan hệ xã
hội. Theo nghĩa chung nhất, quyền lực được hiểu là khả năng tác động, chi
phối của một chủ thể đối với một đối tượng nhất định, buộc hành vi của đối
tượng này tuân thủ, phụ thuộc vào ý chí của chủ thể. Như vậy, bản thân quyền
lực xuất hiện trong mọi mối quan hệ giữa những cá nhân hay những nhóm
người khác nhau.
Nắm được quyền lực trong xã hội là nắm được khả năng chi phối
những người khác, bảo vệ và thực hiện được lợi ích của mình trong mối quan
hệ với lợi ích của những người khác. Chính vì vậy, xung đột quyền lực trong
xã hội là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Không phải mọi xung đột
quyền lực trong xã hội đều mang ý nghĩa tiêu cực đối với sự phát triển. Chẳng
hạn, đấu tranh giai cấp là một hiện tượng xung đột quyền lực phổ biến trong
xã hội có giai cấp. Sự xung đột quyền lực này lại đóng vai trị quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội và do đó mang ý nghĩa tích cực.
2. Khái niệm quyền lực chính trị:
Quyền lực chính trị là một mối quan hệ về tâm lý giữa những người
thực thi quyền lực với những người bị tác động. Nó cho phép người thực thi

quyền lực kiểm soát những hành động nhất định của người bị tác động thông
qua ảnh hưởng mà người thực thi quyền lực gây nên đối với nhận thức của
người bị tác động. Ảnh hưởng đó có thể tồn tại dưới dạng mệnh lệnh, đe doạ,
thuyết phục hoặc là kết hợp giữa những hình thức trên.
Thực tế, quyền lực chính trị là một dạng của quyền lực trong xã hội có
giai cấp. Đó là quyền lực của một giai cấp, một tập đoàn xã hội hay của nhân

3


dân trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội thể hiện “khả năng của một giai cấp
thực hiện lợi ích khách quan của mình”. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin quan niệm rằng, “quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của
giai cấp để đàn áp một giai cấp khác”. Như vậy, quyền lực chính trị ln gắn
liền với quyền lực nhà nước, phản ánh mức độ giành, giữ và sử dụng quyền
lực nhà nước của những tập đoàn người trong xã hội để bảo vệ lợi ích của
mình, chi phối các tập đồn khác. Nói cách khác, quyền lực chính trị phản ánh
mức độ thực hiện lợi ích của một giai cấp, một nhóm người nhất định trong
mối quan hệ với các giai cấp hay nhóm người khác thông qua mức độ chi
phối quyền lực nhà nước.
3. Đặc điểm của quyền lực chính trị:
Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính
trị có những đặc điểm chủ yếu sau:
QLCT bao giờ cũng mang tính giai cấp, phản ánh lợi ích của giai
cấp thông qua tổ chức đại diện của mình là đảng chính trị của giai cấp
thống trị. QLCT của giai cấp mạnh nhất trong xã hội được tổ chức thành
nhà nước. Nhà nước trở thành công cụ, phương tiện để tiếp tục thực hiện sự
thống trị giai cấp.
QLCT tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong quan hệ với
giai cấp khác. Tuỳ thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà các giai cấp

ở vào vị thế khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực chính trị.
Chẳng hạn, trong mối quan hệ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản thì
quyền lực của giai cấp tư sản là thống nhất. Nhưng trong mối quan hệ nội tại,
lợi ích của các nhóm tư sản khác nhau cũng khơng giống nhau và do đó giữa
các nhóm này khơng chỉ có mâu thuẫn mà đơi khi cịn đấu tranh gay gắt với
nhau về lợi ích, về sử dụng quyền lực chính trị của mình.
QLCT của giai cấp thống trị được thực hiện trong xã hội thông qua
phương tiện chủ yếu là nhà nước. Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc biệt
nằm trong tay giai cấp thống trị để hiện thực hóa các lợi ích của giai cấp này
4


trong xã hội trong mối tương quan với các giai cấp khác. Quyền lực nhà nước
là một dạng của quyền lực chính trị mang tính cưỡng chế đơn phương đối
với xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc xã hội hiện đại, chỉ duy nhất nhà nước
có khả năng hình thành và sử dụng pháp luật cùng với các công cụ cưỡng
chế khác để buộc các cá nhân công dân và tổ chức phải tuân thủ các quy
định mà mình đặt ra.
Quyền lực ln cần có tính chính đáng. Tính chính đáng ở đây là sự
chấp nhận quyền lực một cách tự nguyện, sự đồng tình của người dân đối với
người cai trị, chế độ cai trị. Đồng thời phải có tính cơng ích, tính hợp lệ, hợp
pháp, tính hợp lý (khoa học và hiệu quả trong sử dụng quyền lực).
QLCT là một tất yếu khách quan trong một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Con người phải sống thành cộng đồng, xã hội dẫn
đến mâu thuẫn của việc sống chung. Có nhiều cách thức giải quyết mâu
thuẫn, trong đó sử dụng quyền lực là một cách thức cơ bản và quan trọng
nhất, từ đó hình thành quyền lực công để giải quyết mâu thuẫn và được tổ
chức thành nhà nước
Quyền lực chính trị mang tính xã hội . Thực thi QLCT của giai cấp
thống trị trong xã hội bao giờ cũng phải giải quyết được sự tương quan, cơng

bằng nhất định giữa lợi ích của các giai cấp để tránh tạo ra xung đột lợi ích
nghiêm trọng giữa các nhóm, giai cấp trong xã hội dẫn đến sự bất ổn, khủng
hoảng .Vì vậy quyền lực nhà nước được coi là quyền lực công, phục vụ mọi
công dân sống trên lãnh thổ quốc gia
Quyền lực chính trị -Quyền lực nhà nước (QLNN) cần được tập
trung đủ mức. Về nguyên tắc, quyền lực cần được tập trung đủ mức; nếu
không, quyết định, mệnh lệnh của người cầm quyền đưa ra khó có thể được
thi hành, hoặc thi hành khơng triệt để. Thiếu quyền lực có thể dẫn đến những
hệ quả tiêu cực: tính hiệu lực của các quyết định, sự vơ trách nhiệm của
những người nắm quyền.
Quyền lực chính trị (QLNN) cần phải được kiểm soát. Tại sao?
Trước tiên, QLNN là quyền lực được người dân ủy nhiệm. QLNN do một số
5


người nắm giữ, dễ bị các lợi ích cá nhân chi phối. QLNN là ý chí chung của
xã hội, nhưng lại giao cho một số người có khả năng hữu hạn thực hiện, chứa
đựng nguy cơ mắc sai lầm. Quyền lực cần phải được kiểm sốt để tránh tình
trạng lạm dụng quyền lực, sử dụng quyền lực sai mục đích, thiếu hiệu quả
Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước có mối quan hệ qua lại
chặt chẽ. Trong đó, quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền
lực chính trị. Việc chuyển quyền lực nhà nước từ tay giai cấp này sang tay
giai cấp khác sẽ làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị. Mọi dạng quyền
lực nhà nước đều mang tính chính trị nhưng khơng phải mọi quyền lực chính
trị đều có tính chất của quyền lực nhà nước. So với quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị rộng hơn, đa dạng hơn về phương pháp thực hiện cũng
như hình thức biểu hiện.
Quyền lực nhà nước trong xã hội hiện đại bao gồm 3 nhánh chủ
yếu là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp:
Quyền lập pháp là quyền làm ra Hiến pháp và luật, do cơ quan lập pháp

thực hiện. Cơ quan lập pháp ở các nước khác nhau có tên gọi khác nhau và
cách thức tổ chức cũng khác nhau. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001), ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp.
Quyền hành pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước,
có nhiệm vụ thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ chức xã hội và quản lý xã
hội. Quyền hành pháp do một bộ máy hành chính nhà nước phức tạp trải rộng
từ trung ương tới địa phương thực hiện.
Quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật do cơ quan tư pháp thực
hiện. Ở Việt Nam, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm Viện kiểm sát nhân dân
và Tòa án nhân dân các cấp.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa ba bộ phận quyền lực này ở các nước khác
nhau không giống nhau: trong khi ở các nước tư bản, quyền lực nhà nước
được tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” với những biến thể khác
6


nhau thì ở các nước xã hội chủ nghĩa như ở nước ta, ba nhánh quyền lực này
lại không được tổ chức đối trọng với nhau mà chỉ có sự phân cơng, phối hợp
và kiểm sốt lẫn nhau. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng đã khẳng định: “Nhà nước ta là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
II. VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
NAM:
1. Các chủ thể và nhân tố đảm bảo cho việc kiểm soát QLCT:

Chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước khá đa dạng, đó có thể
là nhân dân, các đảng phái, của các tổ chức chính trị - xã hội, cũng có thể do
chính nhà nước (các cơ quan nhà nước), thậm chí là các tổ chức quốc tế…
Xuất phát từ sự phân bổ các giá trị, lợi ích giữa các chủ thể quyền lực. Bộ
phận hợp thành chủ thể quyền lực quốc gia: nhà nước, đảng cầm quyền, quan
chức chính phủ, giai cấp thống trị….Chủ thể quyền lực có sự kiềm chế với hệ
thống quyền lực quốc gia: đảng đối lập, nhóm lợi ích, đồn thể xã hội, giai
cấp bị trị…
Một giai cấp để giành, giữ và thực thi QLCT cần có các nhân tố bảo
đảm: Phải có chính sách đúng: Xác định rõ mục tiêu, cách thức đạt mục tiêu,
lực lượng thực hiện. Chính sách phải phù hợp với xã hội, truyền thống và sự
phát triển của dân tộc. Phải có hệ thống tổ chức tức là hệ thống chính trị. Phải
xây dựng được một đảng chính trị vững mạnh và xây dựng bộ máy nhà nước
đủ năng lực thực hiện các mục tiêu phát triển.
Vì vậy, kiểm sốt quyền lực nhà nước là rất quan trọng và cần thiết.
Không quốc gia nào có thể phát triển nhanh, ổn định và bền vững nếu như
quyền lực nhà nước không được kiểm soát và thực hiện đúng đắn.
7


2. Kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam:
Kiểm soát quyền lực nhà nước được hiểu là phương thức, quy trình,
quy định và các thiết chế có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước,
gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể, thông qua đó việc kiểm
sốt quyền lực nhà nước được thực hiện, nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những
nguy cơ, những việc làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà nước
trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực
nhà nước được tổ chức và thực hiện theo đúng các quy định của Hiến pháp,
pháp luật, đúng mục đích mong muốn và có hiệu quả.
Ở nước ta, ngay từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân xây

dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước
dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Để bảo đảm “bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”, suốt nhiều chục năm qua, Đảng, Nhà nước
không ngừng chăm lo xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách, xây dựng tổ
chức các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm giúp cá nhân, tổ chức
thực thi tốt nhất sự ủy quyền của nhân dân giao phó.
QLCT ở Việt Nam thuộc về nhân dân vì nước ta là một nước dân chủ,
dân là chủ và dân làm chủ (nhân dân là chủ thế quyền lực trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, văn hóa…
Xét về mặt chủ trương, đường lối chính sách đều thuộc về nhân dân vì
QLCT ở nước ta thuộc về bản chất giai cấp công nhân mà bản chất giai cấp
công nhân là bảo vệ quyền lợi cho tất cả nhân dân lao động. Điều này mang
tính nhân dân sâu sắc.
QLCT ở Việt Nam được đảm bảo theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”
QLCT ở Việt Nam được thực hiện trên tất cả các nội dung kinh tế: cơ
chế kinh tế thị trường mở rộng giao lưu hội nhập, mọi cá nhân đều bình đẳng
cạnh tranh. Về văn hóa, con người được khẳng định là chủ thể sáng tạo và là
đối tượng của văn hóa. Về xã hội, Nhà nước có quan tâm đầu tư xóa bỏ
khoảng cách giàu nghèo.
8


Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực chính trị chưa thực sự thuộc về nhân
dân, vẫn còn chưa đảm bảo về việc kiểm sốt quyền lực chính trị của nhân
dân. Điển hình là hiện tượng xâm phạm quyền lực như quan liêu, tham
nhũng… đặc biệt là một số cơ quan quyền lực trong q trình thực hiện các
chủ trương chính sách chưa thực sự mang lại lợi ích cho nhân dân. Biểu hiện
như một bộ phận cán bộ không giữ được phẩm chất, bản lĩnh và ý chí cần

thiết dẫn đến lợi dụng chức, quyền để trục lợi, lạm quyền, lộng quyền, tha hóa
quyền lực và suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống cùng những
tiêu cực khác. Tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và
thường xuyên xảy ra. Một số nhân viên nhà nước, thậm chí cả các cơ quan
nhà nước thay mặt nhân dân nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước nhưng
lại lợi dụng quyền lực được giao vào mục đích vụ lợi hoặc vì mục đích cục
bộ; một số nhân viên nhà nước do năng lực, trình độ hạn chế nên đã mắc sai
lầm trong việc đưa ra những quyết định làm ảnh hưởng tới lợi ích của các tổ
chức, cá nhân.
Chính Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10-2016) cũng đã nhận định:
“Cơng tác xây dựng Đảng cịn khơng ít hạn chế, khuyết điểm…”; “Thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề
ra…”; Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; “Công tác
quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc tập trung dân chủ ở
nhiều nơi bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện khơng
nghiêm…”; Sự bng lỏng đó đã kéo dài nhiều năm, thậm chí nhiều nhiệm kỳ
với quan niệm đổi mới thì mọi việc “cởi mở”, “thoáng”, đến mức một bộ
phận cán bộ, đảng viên coi thường kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, coi
thường tổ chức và tập thể dẫn đến quyền lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý
không được giám sát đầy đủ và kiểm soát chặt chẽ. Tình trạng bng lỏng
quản lý và giám sát, kiểm sốt quyền lực đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
các cấp và các lĩnh vực vẫn rất đáng lo ngại. Vụ án Trịnh Xuân Thanh, những
sai phạm của ông Vũ Huy Hồng khi cịn đương chức, những khuyết điểm về

9


bổ nhiệm cán bộ ở một số tỉnh, huyện vừa bị phát hiện, năm doanh nghiệp
nhà nước ngày càng thua lỗ, bế tắc mà Chính phủ, Quốc hội phải xem xét, cho
thấy tính bức thiết của quản lý cán bộ và kiểm soát quyền lực tại nước ta. .

Vấn đề quyền lực và kiểm sốt quyền lực (quyền lực chính trị) ln
mang tính thời sự trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, đối với nước ta hiện nay,
với thể chế một Đảng duy nhất cầm quyền và trong xu thế hội nhập quốc tế,
vấn đề thực thi quyền lực và kiểm sốt quyền lực càng có tính cấp thiết, liên
quan trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc, chế độ chính trị và thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, chúng ta phải đổi mới căn bản, đổi mới toàn diện,
đồng bộ, bắt đầu từ tư duy, tiếp theo là chiến lược phát triển, cơ chế, thể chế,
chính sách và công tác cán bộ. Phát huy dân chủ phải gắn liền với kỷ luật,
phải thực hành dân chủ rộng rãi, đồng thời siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng, dân chủ thực chất và tập trung đúng đắn.

10


KẾT LUẬN
Quyền lực là một hiện tượng phổ biến và tất yếu trong đời sống xã hội.
Quyền lực nhà nước khơng phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền
lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân
không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho Nhà
nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh địi hỏi chính đáng và tự nhiên
phải kiểm sốt quyền lực nhà nước. Trong q trình thực hiện, quyền lực
chính trị cũng chính là quyền lực nhà nước cần được tập trung đủ mức và phải
được kiểm soát. Một giai cấp, lực lượng xã hội muốn giành, giữ và thực thi
quyền lực cần phải: xác định được mục tiêu đúng; cách thức đạt mục tiêu; có
hệ thống tổ chức đủ mạnh để hiện thực hóa mục tiêu của mình.

11


MỤC LỤC


12



×