Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

DE HSG VA BAI LAM CUC CHUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.05 KB, 4 trang )

Chứng minh giá trị hiện thực “Sống chết mặc bay”.
Biểu hiện trên hai nội dung:
Ý 1: Giá trị hiện thực
Là một trong những nội dung cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Giá trị hiện
thực đựoc thể hiện ở bức tranh đời sống và con người mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm.
Ý 2: Chứng minh
Luận điểm 1: Tước hết, tác phẩm đã phản ánh nỗi vất vả, lầm than cơ cực và tình cảnh thê
thảm của nhân dân lao động.
Hai luận cứ:
Luận cứ 1: Để làm nổi bật nỗi vất vả, lầm than, cơ cực ấy, nhà văn đã đặt người dân vào
một hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt: “Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá. Khúc đê tại
làng X, phủ X vài ba chỗ đã thẩm lậu rồi…khơng khéo thì vỡ mất”. Những câu văn ngắn
như những bản tin thời tiết đã thơng báo cho người đọc tình thế hiểm nghèo của con đê
trong thời gian đêm hôm khuya khoắt, không gian mưa kéo dài không ngớt. Khúc đê như
sắp vỡ, có khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống và tính mạng của người dân.
Luận cứ 2: Trong tình thế ấy, bao nỗi khổ cực lầm than của dân phu hộ đê được thể hiện rõ
qua cảnh hộ đê.
- ,Truyện ngắn được mở đầu với thời gian “Gần một giờ đêm”. Đó là thời gian khuya khắt,
khi mà bình thường mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian ấy, nhà văn muốn nói cuộc
hộ đê đã kéo dài suốt cả ngày, từ chiếu đến tối, tới tận đêm khuya mà chưa được nghỉ ngơi.
Người dân đã vô cùng mệt mỏi, đuối sức vì đói rét quần quật kéo dài
+ Nỗi khổ cực, lầm than của dân phu càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh:“Dân phu kể
hàng trăm nghìn người từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn, kẻ thì cuốc, người thì thuổng, kẻ
đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào
người náy ướt lướt thướt như chuột lột”. Nhịp câu văn ngắn, giọng văn gấp gáp, dồn dập đã
thể hiện tất cả sự khẩn cấp, nguy cấp của con đê và bao lo âu, hốt hoảng của dân phu hộ đê.
Nghệ thuật liệt kê kết hợp với từ chỉ số nhiều “hàng trăm nghìn” và các danh từ chỉ người,
chỉ dụng cụ cho thấy dân chúng đã huy động hết sức người, sức của để hộ đê, hàng trăm,
nghìn người đem thân hèn yếu chống chọi với đê, không ai lùi bước. Những động từ dồn
dập nối nhau “đội, vác, đắp, cừ” kết hợp với thủ pháp so sánh: “người nào người nấy ướt
lướt thướt như chuột lột” đã dựng lên trước mắt cảnh tượng hối hả, chèo chống, người


người kiệt sức trong đói rét, mưa gió. Đó chính là tình cảnh khốn khổ, khốn cùng, vô cùng
thảm hại của người dân quê.


+ Âm thanh “trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ”
cất lên một cách dồn dập gấp gáp càng cho thấy rõ hơn tình thế khẩn cấp và tình trạng
hoảng loạn của dân chúng.
=> Bao đời nay, cảnh lũ lụt, đê vỡ đã trở thành nỗi đe doạ khủng khiếp đối với người dân
quê. Bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo, bằng niềm cảm thương sâu sắc, tác giả đã ghi lại một
cách chân thực, xúc động nhất hình ảnh dân phu hộ đê trong một tình thế hết sức hiểm
nghèo.
Luận cứ 3: Đặc biệt, chất hiện thực của tác phẩm còn thể hiện rõ qua việc phản ánh tình
cảnh thê thảm của nhân dân.
- Tình cảnh thê thảm của nhân dân được tác giả miêu tả gián tiếp qua “tiếng kêu vang trời
dậy đất”, qua giọng văn miêu tả âm thanh kinh hãi: tiếng người kêu cứu rầm rì, thảm thiết
vang lên trong đêm, “Tiếng ào ào như thác chảy xiết, tiếng gà chó trâu bị kêu vang tứ phía”.
- Nỗi đau thương càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Khắp nơi nước tràn lênh láng,
xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không
nời chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết”. Một
cảnh tượng hãi hùng, nước cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn cùng hàng ngàn sinh mạng người
dân. Đó chính là tột cùng của thảm cảnh đau thương và cũng là tột cùng của niềm đau khi
tác giả phải chứng kiến thảm cảnh này.
=> Khái quát luận điểm: Bằng ngòi bút tài hoa, tác giả đã miêu tả một cách chân thực, xúc
động cảnh người dân hộ đê và thảm cảnh đê vỡ. Cách nêu địa danh làng X, phủ X đã cho
thấy, cảnh tượng ấy không chỉ diễn ra ở một nơi mà ở nhiều nơi trên đất nước ta. Đó chính
là chất hiện thực của tác phẩm này.
Luận điểm 2: Bức tranh hiện thực không chỉ phản ánh nỗi thống khổ của nhân dân mà còn
vạch trần thái độ vô trách nhiệm của bè lũ quan lại mà đứng đầu là tên quan phủ lòng lang
dạ sói.
Hai luận cứ:


- Trong khi nhân dân phải chịu cảnh lầm than, cơ cực thì tên quan phủ lại hưởng một
cuộc sống xa hoa, vương giả, đầy quyền uy. Nghệ thuật liệt kê được sử dụng tài tình
qua hàng loạt chi tiết “Trên sập, một người quan phụ mẫu uy nghi, chiễm chệ ngồi”.
Quanh ngài bao bọc đủ thứ xa hoa đắt tiền: Bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi
hình chữ nhật, trầu vàng, cau đậu, rễ tía…Xung quanh có kẻ hầu người hạ, nào lính lệ
hầu quạt, hầu điếu đóm, nào người nhà quỳ gãi, bốn góc có bốn kẻ hầu bài. Đoạn văn
tả thực sắc sảo đã thể hiện được thái độ tố cáo gay gắt của tác giả đối với tên quan


phụ mẫu đầy quyền uy, hưởng thụ vật chất xa hoa, khơng mảy may nghĩ đến trách
nhiệm của mình
- Qua ngòi bút của tác giả, tên quan phụ mẫu còn hiện lên với thái độ ích kỉ, tàn nhẫn,
vơ trách nhiệm đến táng tận lương tâm:
+ Đam mê cờ bạc, bỏ mặc dân trong cơn nguy khốn : “Ngài mà cịn giở ván bài thì
dẫu trời long đất lở, đê vỡ, dân trơi ngài cũng thây kệ”, hay: “Ơi trăm hai mươi lá
bài…Mà quan mê đến thế”. Bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo kết hợp với những từ
ngữ biểu cảm trực tiếp, tác giả đã bày tỏ niềm căm giận tột độ đối với những kẻ nhân
danh cha mẹ dân, vô trách nhiện qua đáng, coi mạng sống của người dân như cỏ rác.
Dường như càng bất bình, phẫn nộ trước thái độ sống chết mặc bây của tên quan phủ
bao nhiêu thì nỗi thương cảm, xót xa cho đồng bào huyết mạch càng dâng lên nghẹn
ngào bấy nhiêu. Cùng với những lời lẽ mỉa mai cay độc là nỗi đau đớn, xót thương,
nhói buốt trong tim tác giả, ngập tràn lên từng trang viết.
+ Đỉnh điểm của sự đam mê đỉnh điểm của sự vô trách nhiệm, thái độ sống chết mặc
bay.
Những chi tiết miêu tả sung sướng cực độ của quan trước cán bài “ù! Thông tôm …
chi chi nảy”. Trong khi bên ngoài đang xảy ra thảm cảnh đê vỡ, tộ cùng của nỗi đau
thương, thì bên trong tên quan phủ vỗ tay cười nói, kêu to “ù! Thơng tơm…chi chi
nảy”. Đó là niềm sung sướng phi nhân tính bộc lộ bản chất thú tính của tên quan mất
hết nhân tính, nhân tình. ở đây, tác giả khơng có một lời bình nào dành cho hắn từ sự

việc và lời nói là lời tố cáo danh thép nhất hơn bất kì một lời văn biểu cảm này.
* Khái quát: Tác phẩm là bức tranh đối lập giữa giữ cuộc sống và sinh mạng của
nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại mà kẻ đứng đầu là tên quan phủ lòng lang
dạ thú.
* Đánh giá:
- Tài năng:
+ Ngòi bút hiện thực sắc sảo.
+ Ngòi bút trào phúng đặc sắc.
+ Sử dụng thành công nghệ thuật đối lập,tăng cấp.
-> Làm nên thành công cho tác phẩm.


Tài liệu gồm 230 trang cực chuẩn, khơng có trên mọi trang
web.
Alo 0833703100
- Tấm lòng: niềm cảm thương sâu sắc, đó là cả tấm lịng của tác giả đối với người dân
lao động -> làm cho tác phẩm không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn thấm đẫm tinh
thần nhân đạo.
+ Hiện thực: - Phản ánh: Bất hạnh, khổ đau của con người.
Bất công ngang trái của xã hội.
- Phơi bày, tố cáo, vạch trần.
+ Nhân đạo: biểu hiện: Yêu thương, đồng cảm.
Trân trọng, ngợi ca.
Căm phẫn.
Mơ ước về lẽ công bằng, về công lý.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×