ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÀNG HÓA VÀO SẢN XUẤT CÀ PHÊ CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện
Mã số sinh viên
Nguyễn Thùy Chi
60545982
Trương Anh Kiệt
60512201
Nguyễn Thị Kim
60542688
Hà Lê Ngọc Quân
60545810
Nguyễn Đức Tiến
60523842
Phan Lê Thành Vũ
60545871
1
Điểm số
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Và hiện nay, với
nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, với những tiến bộ về Khoa học và Công
nghệ, Việt Nam vẫn là một nước dựa vào nơng nghiệp. Một trong những sản phẩm
nơng nghiệp có giá trị xuất khẩu cao của nước ta hiện nay là cà phê.
Cà phê được đưa vào Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và được trồng rộng rãi trong
các đồn điền vào đầu thế kỷ thứ 20. Và kể từ đó, cà phê đóng một vai trị khơng thể
thiếu trong cuộc sống của con người Việt Nam. Ngoài ra, việc trồng và canh tác cà
phê không những đem lại nguồn lợi rất lớn cho nền kinh tế mà còn giúp xóa đói
giảm nghèo tại những vùng nơng thơn kém phát triển. Hiện nay cà phê là mặt hàng
nông sản xuất khẩu đứng thứ hai ở nước ta, chỉ sau lúa gạo. Vì vậy việc nghiên cứu
và tìm hiểu những đặc điểm của ngành cà phê, tình hình sản xuất cũng như các yếu
tố ảnh hưởng đến ngành cà phê Việt Nam là rất quan trọng.
Dựa trên những kiến thức tiếp thu trên giảng đường và tham khảo từ tài liệu,
sách vở mơn kinh tế chính trị, chúng ta nhận biết và hiểu rõ hơn về hàng hóa, thị
trường. Vận dụng kiến thức đó, kết hợp với những thơng tin tìm hiểu được qua các
nguồn tài liệu khác nhau về đặc điểm cũng như thực trạng ngành cà phê, chúng ta
có thể đưa ra những giải pháp và định hướng phát triển cho tương lai của mặt hàng
nông sản này.
Kết cấu của phần nội dung bài tiểu luận gồm hai phần là phần kiến thức và phần
vận dụng. Với phần kiến thức, ta nêu ra những khái niệm hàng hóa, thuộc tính hàng
hóa, tín hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, lượng giá trị hàng hóa và các nhân
tố ảnh hưởng. Phần vận dụng gồm bốn phần nhỏ, đưa ra những khái quát chung,
tổng quan tình hình sản xuất cà phê, nguyên nhân dẫn tới những mặt tích cực và
2
tiêu cực của ngành cà phê cũng như các giải pháp và định hướng cho mặt hàng
nông sản này.
NỘI DUNG
Chương 1: Phần kiến thức (cơ sở lý thuyết)
1.1. Khái niệm hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
Khái niệm hàng hóa1
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định
của con người, thơng qua trao đổi, mua bán.
Ví dụ: Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán
trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Thuộc tính của hàng hóa2
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hóa: Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của sản
phẩm nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người. Nhu cầu đó có thể là nhu
cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần, có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể
là nhu cầu cho sản xuất.3
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất... Và ngay mỗi một vật cũng có thể có nhiều
thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá trị sử dụng hay công dụng
khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu
trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế.
1 C.Mác và Ph. Angwhen: toàn tập, nxb chính trị quốc gia, H.1993,t.23, tr.72.
2 C.Mác và Ph. Angwhen: tồn tập, nxb chính trị quốc gia, H.1993,t.23, tr.72.
3 C.Mác và Ph. Angwhen: tồn tập, nxb chính trị quốc gia, H.1993,t.23
3
Giá trị của hàng hóa4: Muốn tìm hiểu phạm trù giá trị phải xuất phát từ phạm trù
giá trị trao đổi. Vì giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngồi của giá trị; cịn
giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.
Khái niệm:
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng
loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1 mét vải = 5 kg thóc
Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh
trong hàng hóa.
1.2. Tính hai mặt của lao động và sản xuất hàng hóa
Tính hai mặt của lao động và sản xuất hàng hóa thể hiện ở lao động cụ thể và lao
động trừu tượng.
Lao động cụ thể
Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng,
đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng.
Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế,
đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào,
khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết
quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
Đặc trưng của lao động cụ thể:
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động cụ thể
càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
4 C.Mác và Ph. Angwhen: tồn tập, nxb chính trị quốc gia, H.1993,t.23
4
Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng với sự
phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày càng đa
dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân cơng lao động xã hội.
Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là phạm trù
vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại gắn liền vối vật
phẩm, nó là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội
nào.
Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc vào trình độ
phát triển và sự áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đồng thời cũng là tấm
gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa học - công nghệ ở mỗi thời
đại.
Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng do nó sản
giờ cũng do hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con
người chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu
cầu của con người.
Lao động trừu tượng
Khái niệm: Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi đó là sự hao phí óc,
sức thần kinh của sức cơ bắp nói chung của con người, chứ khơng kể đến hình thức
cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.
Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về
mặt lao động cụ thể thì hồn tồn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự
khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ cịn có một cái chung, đều phải hao phí
sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người.
Đặc trưng của lao động trừu tượng:
5
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang bằng trao
đổi.
Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu tượng tạo ra
giá trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng
hóa.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ với tính chất tư
nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn
cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của người sản
xuất hàng hóa riêng biệt có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của
xã hội hoặc hao phí lao động cá biệt của ngưịi sản xuất hàng hố có thể cao hơn
hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu
thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng
khủng hoảng.
1.3. Lượng giá trị hàng hóa
Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh
trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hố đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao
động, một ngày lao động... Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian lao
động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều
người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay
nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá
của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng
hoá của từng người sản xuất. Nhưng lượng giá trị xã hội của hàng hố khơng phải
6
được tính bằng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết.5
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hố trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình,
trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hồn cảnh xã
hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời
gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hố nào đó
trên thị trường.6
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao động và
cường độ lao động
Do thời gian lao động xã hội cần thiết ln thay đổi, nên lượng giá trị của hàng
hố cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất
lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động.
Lượng giá trị hàng hoá thay đổi do tác động của năng suất lao động:
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, nó được tính bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng tăng,
thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị
sản phẩm càng ít. Ngược 36/281 lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời
gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản
phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng
lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Như vậy, muốn giảm giá
5 Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học - khơng chun lý
luận chính trị). Hà Nội: NXB GIáo dục, tr.26.
6 PGS.TS. Phạm Văn Dũng. (2017). Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (dùng cho khối ngành Kinh tế - Quản
trị kinh doanh), tr.36
7
trị của mỗi đơn vị hàng hố xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động. Đến lượt
năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố: trình độ khéo léo của người lao
động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự
kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động tác động khác nhau đối với
lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, căng thẳng của
lao động. Khi cường độ lao động tăng, thì lượng lao động hao phí trong cùng một
đơn vị thời gian tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá
trị của một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như
kéo dài thời gian lao động.
Lượng giá trị hàng hóa, phụ thuộc vào tính chất của lao động, đó là: lao động
giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một
người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra
được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho các hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra
có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá
trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung
bình.
Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết, giản đơn trung bình.
8
Chương 2: Vận dụng:
2.1. Khái quát chung về hàng hóa cà phê của nước ta hiện nay
2.1.1.
•
Giới thiệu về ngành sản xuất cà phê Việt Nam
Giới thiệu
Cà phê (có nguồn gốc từ café trong tiếng Pháp) là một loại thức uống màu đen
có chứa chất caffein. Sản xuất từ những hạt cà phê rang lên và được sử dụng rộng
rãi. Hạt cà phê được lấy từ hạt của các loài cây thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Cà
phê được khám phá ra từ vùng cao nguyên Ethiopia và được sử dụng lần đầu tiên
vào thế kỉ thứ IX. Từ đó, nó lan rộng ra các nước khác như: Ai Cập và Yemen và
tới thế kỉ thứ 15 thì đến Armenia, Persia, Thổ Nhĩ Kỳ và phía bắc Châu Phi. Ở Việt
Nam cây cà phê xuất hiện đầu tiên vào cuối thế kỷ XIX ở vùng Di Linh, Bảo Lộc.
Ngày nay, cà phê được xem là một trong những thức uống được ưa chuộng trên
toàn thế giới và được trồng tại hơn 80 quốc gia trên thế giới nhưng trong đó chỉ có
một số nước xuất khẩu cà phê. Hạt cà phê từ các quốc gia và khu vực khác nhau có
thể phân biệt được bằng sự khác biệt trong hương vị, mùi thơm, tính axit. Sự khác
biệt về hương vị phụ thuộc vào khu vực trồng cà phê, các giống cà phê và cách chế
biến. Có một loại cà phê đắt nhất và hiếm nhất thế giới mà giá mỗi cân cà phê loại
này khoảng 20 triệu VND (1300 USD) và hàng năm chỉ có trên 200 kg được bán
trên thị trường thế giới đó là Kopi Luwak ("cà phê chồn") của Việt Nam và
Indonesia. Đây không phải là một giống cà phê mà là một cách chế biến cà phê
bằng cách dùng bộ tiêu hóa của lồi cầy.7
• Vai trị
Vai trò của ngành cà phê trong nền kinh tế quốc dân
Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là mặt
hàng nông sản xuất khẩu đứng thứ 2 về kim ngạch sau gạo. Chính vì thế ngành cà
phê đã có một vai trị rất lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Vai trò của cà phê đối với ngành nông nghiệp nước ta.
7 Lê Thị Lụa. (2012). Phân tích tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê Việt Nam.
9
Ngành cà phê góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong ngành nông nghiệp
nước ta. Nếu như trước kia Việt Nam là một đất nước được biết đến với sản phẩm
là lúa gạo thì ngày nay Việt Nam cịn được biết đến với một mặt hàng nữa đó chính
là cà phê. Điều này không chỉ giúp cho người dân đa dạng được cơ cấu cây trồng
trong ngành nông nghiệp mà cịn đa dạng hố được các mặt hàng trong việc xuất
khẩu nơng sản của Việt Nam.
Đa dạng hố các dịch vụ kinh doanh trong ngành nông nghiệp: hoạt động sản
xuất cà phê gắn liền với hoạt động chế biến cà phê. Vì thế kéo theo một loạt các
dịch vụ của sản xuất nông nghiệp phát triển như: dịch vụ nghiên cứu giống cây
trồng, dịch vụ cung cấp thuốc trừ sâu, phân bón, dịch vụ cung cấp máy móc thiết bị
cho phơi sấy chế biến cà phê, dịch vụ bao gói, dịch vụ tư vấn xuất khẩu…
Phân bổ lại nguồn lao động trong nền nông nghiệp. Nền nông nghiệp nước ta
trước kia chủ yếu là lao động phục vụ cho ngành trồng lúa nước. Đây là lao động
mang tính chất thời vụ vì thế có một lượng lao động dư thừa khá lớn trong thời kỳ
nông nhàn. Ngành cà phê phát triển kéo theo một lượng lao động khá lớn phục vụ
cho nó. Với quy mơ diện tích cà phê ngày càng mở rộng thì càng cần một đội ngũ
lao động lớn. Điều này tạo cho người dân các vùng miền núi cũng như các vùng
đồng bằng chuyên canh lúa có việc làm thường xuyên, tạo thêm thu nhập cho họ,
hạn chế được các tệ nạn xã hội.
Hạn chế được các vùng đất bị bỏ hoang: Vì đặc điểm của cây cà phê là thích hợp
với những cao nguyên, đồi núi cao nơi đây chưa được khai thác triệt để… Vì vậy
đã hạn chế được các vùng đất bỏ hoang, phủ xanh đất trống đồi trọc.
Vai trò ngành cà phê trong nền kinh tế quốc dân
Ngành cà phê góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: ngành cà phê gắn với cả
một q trình khép kín từ sản xuất đến tiêu dùng. Điều này kéo theo theo một loạt
các ngành kinh tế phát triển như ngành xây dựng các cơ sở để nghiên cứu giống,
ngành thuỷ lợi, ngành giao thơng, ngành chế tạo máy móc,… Vì thế đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng nơi có cây cà phê phát triển. Điều này
10
góp phần đẩy nhanh tiến trình cơng nghiệp hố hiện đại hố trong nơng nghiệp
nơng thơn.
Ngành cà phê đã góp phần rất lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Hàng năm
ngành cà phê đem về cho đất nước từ 1 – 1,2 tỷ USD/ năm chiếm 10% kim ngạch
xuất khẩu cả nước.
Góp phần giải quyết cơng ăn việc làm cải thiện đời sống nhân dân.
Việt Nam có lợi thế rất lớn trong việc sản xuất cà phê. Hàng năm Việt Nam sản
xuất ra một khối lượng lớn cà phê. Tuy nhiên tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam
là rất thấp. Vì thế thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Ngày
nay cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới thay đổi mạnh mẽ đó là thành quả của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
q trình cơng nghiệp hố phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là
tất yếu đối với nước ta.
Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá
nhu cầu tiêu thụ nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát
triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động chờ
ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu thế giới để tổ chức sản xuất.
Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Đối với ngành cà phê thì sản xuất cà phê của Việt Nam với sản lượng lớn, nhu
cầu tiêu dùng nội địa rất hạn hẹp do Việt Nam có truyền thống trong việc thưởng
thức trà. Vì vậy trên thị trường Việt Nam sẽ xảy ra tình trạng cung cà phê vượt quá
cầu cà phê do đó phải đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên Việt Nam lại không coi cà
phê là sản phẩm ế thừa cần xuất khẩu mà xuất phát từ thị trường thế giới ngày càng
11
tiêu dùng nhiều cà phê hơn. Do đó thị trường thế giới luôn là mục tiêu cho các
doanh nghiệp sản xuất cà phê. Điều này góp phần chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế nước ta và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trước hết sản xuất cà phê sẽ kéo theo hàng loạt các ngành kinh tế phát triển theo
như các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo máy móc, thúc đẩy các
ngành xây dựng cơ bản như xây dựng đường xá, trường, trạm thu mua cà phê , …
Ngồi ra cịn kéo theo hàng loạt các ngành dịch vụ phát triển theo như : dịch vụ
cung cấp giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, ngân hàng, cho thuê máy móc
trang thiết bị,… Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo
hướng xuất khẩu.8
2.1.2.
Đặc điểm của ngành sản xuất cà phê ở Việt Nam
Nguyên liệu
Trong sản xuất, cà phê hòa tan được cấu thành từ cà phê kết hợp cùng các
nguyên liệu khác như: đường, kem sữa thực vật để tạo nên các dòng cà phê 2in1,
3in1, 4in1… Cà phê được tuyển chọn từ những hạt cà phê nhân (cà phê hạt sống)
chất lượng cao đem đi tách bụi, làm sạch. Từ đó, hạt cà phê được rang rồi xay
thành bột để pha phin hoặc chế biến thành cà phê hòa tan.
Máy móc
Có nhiều loại máy móc được sử dụng như: Thiết bị rang cà phê, thiết bị trích ly và
thu hồi hướng - flash evaporator, bộ lọc ly tâm, nồi cô đặc chân khơng, thiết bị sấy
phun,...9
Nhân cơng
Có 2 nhóm nhân công gồm nhân công thu hoạch và nhân công rang xay.
Quy trình: Quy trình chế biến sản phẩm cà phê gồm sáu bước
Rang cà phê:Thời gian rang theo tiêu chuẩn từ 18-25 phút/mẻ để giúp giữ tốt
hương vị tự nhiên của hạt cà phê.
Trích ly: Để trích ly hiệu quả, yêu cầu tất cả các hạt cà phê nghiền phải tiếp xúc
với nước. Q trình trích ly được thực hiện 2 lần: Lần đầu các cấu tử hương được
8 Vị trí của ngành cà phê và vai trị của xuất khẩu cà phê. (2020, 12 15)
9 Dây chuyền sản xuất cà phê hòa tan (instant coffe). (2020).
12
trích ly độc lập ở nhiệt độ thấp hơn 120 độ C trong thời gian 15-20 phút. Lần thứ
hai, trích ly các hợp chất thủy phân ở cà phê. Quá trình này diễn ra với tốc độ nước
chảy gấp 2 lần tốc độ nước khi trích ly thơng thường. Nồng độ dung dịch cà phê
trích ly có thể đạt tới 20 – 22%.
Tinh sạch: Để dịch trích cà phê đạt tiêu chuẩn quốc tế, tinh sạch cà phê là một
khâu quan trọng của quá trình. Một hệ thống bao gồm bộ lọc và thiết bị ly tâm dùng
để tách các phần tử khơng tan ra khỏi dịch trích.
Cơ đặc: Nồi cô đặc chân không được thiết kế theo công nghệ hiện đại nhất hiện
nay với nhiều công suất khác nhau. Nồi có thiết bị đo áp suất và điều khiển nhiệt
được cài đặt tự động.Nồi được thiết kế hoàn toàn bằng inox chất lượng cao đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Sấy phun: Dịch cà phê cô đặc được bơm vào đỉnh cyclo. Tại đây có một đĩa đục
nhiều lỗ nhỏ, có tốc độ quay rất lớn, làm cho dịch cà phê vào cyclo ở dạng sương
mù. Khơng khí nóng khô được thổi vào cyclo sấy khô cà phê dạng sương mù thành
dạng bột. Cà phê bột hoà tan được thu ở đáy cyclo có độ ẩm 1- 2%, có màu nâu
đen.10
Vụ mùa
Chất lượng của cà phê phụ thuộc chủ yếu vào thời điểm thu hoạch và kỹ thuật
chế biến sau thu hoạch. Thông thường tại Tây Nguyên các tỉnh Gia Lai và Kom
Tum thường thu hoạch cà phê vối vào tháng 10 – 12, tại Đắk Lắk, Đắk Nông và
Lâm Đồng thời gian tháng 11 đến tháng 1. Đối với cà phê chè thì thường thu hoạch
vào tháng 8 đến tháng 10, riêng Đức Trọng thường thu hoạch vào tháng 9 đến tháng
11 và Đà Lạt là tháng 12 đến 2. Tuy nhiên cần căn cứ vào độ chín của quả cà phê
để có thời điểm thu hoạch hợp lí nhất để cho ra nguyên liệu cà phê đạt chất lượng
cao.
Hương vị: Hương vị cà phê khá đa dạng ở mỗi loại khác nhau. Việt Nam có 5
loại cà phê nổi tiếng: Arabica, Robusta, Chery, Moka (thuộc chi Arabica), Culi.
10 Dây chuyền sản xuất cà phê hòa tan (instant coffe). (2020).
13
Cà Phê Robusta có vị đắng, hương thơm dịu, nước có màu nâu sánh, khơng có vị
chua và hàm lượng cafein vừa đủ.
Culi Coffee có vị đắng gắt, nhưng hương thơm say đắm, đậm đà, nuớc màu đen
sánh, không chua. Loại cafe này có hàm lượng cafein cao. Chúng là những hạt cà
phê no tròn, đặc biệt là trong một trái chỉ có một hạt.
Cà Phê Arabica khi pha sẽ cho nước có màu nâu nhạt sánh, mùi vị đắng nhưng
vô cùng đa dạng từ đắng dịu, thơm nhẹ nhàng quyến rũ đến đắng pha chút lẫn
hương thơm nồng nàng, đặc biệt vị hơi chua nhưng rất lơi cuốn.
Có 2 dịng chính:
Cà Phê Moka: Với mùi thơm quyến rũ, nồng nàn, ngào ngạt, nhưng lại thanh
nhẹ.
Cà Phê Catimor: Mùi thơm nồng nàn, có vị hơi chua.
Cà Phê Cherry với hạt cà phê có màu vàng, sáng bóng rất đẹp. Khi pha tạo ra
hương thơm thoang thoảng, đặc biệt là vị chua của cherry đã tạo ra một hương vị
cafe cảm giác thật sảng khối.
Thương hiệu
Hiện nay, Việt Nam có khá nhiều thương hiệu cà phê nổi tiếng trong nước: Trung
Nguyên Legend, Vinacafe, Highlands Coffee, Phúc Long Coffee & Tea house, The
Coffee House, King Coffee,...
2.2. Tổng quan (thực trạng) tình hình sản xuất cà phê của nước ta hiện nay
2.2.1.
Thành tựu
Cây cà phê được đưa vào trồng khoảng 153 năm nay, nhưng ngành cà phê Việt
Nam trên thực tế mới hình thành và phát triển khoảng trên 20 năm nay trở lại đây,
với những thành cơng đáng khích lệ:
Thứ nhất, ngành cà phê Việt Nam trở thành nhà cung cấp cà phê đứng thứ hai
trên thị trường thế giới chỉ sau 20 năm đổi mới.
Nếu như năm 1990 Việt Nam có diện tích cà phê là 119,3 nghìn ha với sản lượng
đạt 92 nghìn tấn – một sản lượng và diện tích chẳng có ý nghĩa gì nhiều với ngành
14
cà phê thế giới, thì chỉ sau 20 năm, năm 2010 Việt Nam có diện tích cà phê tới trên
nửa triệu ha (548,2 nghìn ha) với sản lượng 1105,7 nghìn tấn, chiếm 13% nguồn
cung cấp cà phê và chiếm 21,29% lượng cà phê giao dịch trên thị trường thế giới.
Sự tăng trưởng sản lượng cà phê Việt Nam mạnh đến mức vào những năm đầu của
thế kỷ XXI, khi giá cà phê xuống thấp (dưới 1000 USD/tấn), nhiều nước cùng
trồng cà phê đã đổ lỗi cho Việt Nam tang nguồn cung quá lớn làm giá cà phê thế
giới giảm! Việt đổ lỗi đó khơng hẳn đã đúng, nhưng rõ ràng ngành cà phê Việt Nam
đã tạo ra sức ép ghê gớm cho nhiều nước đã trồng cà phê, bởi Việt Nam đã tạo
được nguồn cung lớn trên thị trường giao dịch cà phê thế giới. Các nhà rang xay,
các tập đoàn chiến biến cà phê đa quốc gia, … Trong chiến lược sản xuất kinh
doanh không thể không chú ý đến cà phê Việt Nam.
Thứ hai, năng suất sản xuất cà phê của Việt Nam tăng nhanh.
Ngành cà phê Việt Nam khơng chỉ tạo ra nguồn cung lớn, mà cịn có năng suất
đứng đầu thế giới, gấp hơn 2 lần năng suất bình quân của thế giới và cả của Brazil
– nước sản xuất, xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Năng suất cà phê cao sẽ khiến
giá xuất khẩu thấp, vì chi phí sản xuất thấp hơn và ngành cà phê Việt nam có lợi thế
cạnh tranh hơn hẳn ngành cà phê của một số nước trên thế giới. Giá cà phê xuất
khẩu (FOB, TP. Hồ Chí Minh) của Việt Nam, nhờ vậy, luôn thấp hơn giá cà phê ở
London cũng như ở New York, giá thấp hơn vài trăm USD. Điều đó cũng nói nên
rằng ngành cà phê Việt Nam đã chuyển lợi thế tuyệt đối về đất đai và thời tiết khí
hậu, cũng như các lợi thế tương đối về các chính sách hỗ trợ (tạm trữ cà phê, hỗ trợ
lãi xuất tín dụng, hỗ trợ tài chính, giảm thuế nơng nghiệp,…), về cơ sở hạ tầng
(giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc, …), về nguồn lao động dồi dào và chi phí
thấp, thành lợi thế cạnh tranh của sản phẩm và lợi thế cạnh trang của ngành cà phê.
Thứ ba, cà phê Việt Nam đang chiếm lĩnh thị trường thế giới với tốc độ nhanh.
Ngành cà phê Việt Nam rất non trẻ, nhưng cà phê Việt Nam đã xuất khẩu tới 96
15
quốc gia, chiếm 21,29 tổng lượng cà phê mậu dịch bn bán trên thị trường thế giới
(năm 2010). Trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu tới 10 thị trường lớn năm 2010 đạt
920 triệu USD, chiến 55,22% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam. Trong 10
thị trường xuất khẩu cà phê lớn từ Việt Nam, thì có 8 thị trường đứng trong top 10
thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới (trừ thị trường đứng thứ 7 và 10).
Điều này có nghĩa là cà phê Việt Nam đang dần chiếm thị phần ở các quốc gia nhập
khẩu cà phê trên thế giới (thứ hạng 1-15) và chiếm tỷ trọng thị phần ngày càng lớn
trên các thị trường tiêu thụ cà phê lớn của thế giới.
Thứ tư, thị trường nội địa tiêu thụ cà phê từng bước tăng lên, tạo thuận lợi cho
các doanh nghiệp kinh doanh cà phê trong nước ngày càng phát triển.
Mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người ở thị trường nội địa hiện đang ở xuất
phát điểm khá thấp, tuy nhiên cùng với phát triển kinh tế, thu nhập tăng thì nhu cầu
tiêu thụ cà phê cũng sẽ tăng, thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam đang được các
công ty, tập đoàn đa quốc gia để ý và xâm nhập. Tuy nhiên thị hiếu tiêu thụ cà phê
của người Việt ln gắn với phong tục, tập qn và văn hóa cà phê Việt thì khơng
cơng ty, tập đồn nào của nước ngoài hiểu thấu đáo bằng các doanh nghiệp cà phê
Việt. Bởi vậy, thị trường tiêu thụ cà phê nội địa đang là thị trường tiềm năng lớn để
các doanh nghiệp và ngành cà phê Việt khai thác và chiếm lĩnh thị trường, đây là
thời cơ lợi thế cạnh tranh tiềm năng cho doanh nghiệp và ngành cà phê Việt Nam.
2.2.2.
Khó khăn
Ngành cà phê Việt Nam chiến 13% tổng số nguồn cung cà phê thế giới, chiếm
1/5 tổng lượng cà phê đưa ra giao dịch buồn bán trên thị trường thế giới, sản xuất
và xuất khẩu đứng vào thứ 2 (nếu chỉ tính riêng cà phê robusta thì cà phê Việt Nam
đứng thứ nhất), nhưng kim ngạch xuất khẩu thu về không tương xứng, lại chịu
nhiều thua thiệt rủi ro khi tham gia giao thương trên thị trường cà phê thế giới. Đó
là do ngành cà phê Việt Nam cịn nhiều hạn chế:
16
Thứ nhất, sức cạnh tranh của sản phẩm cà phê cịn thấp. Cà phê Việt Nam chất
lượng thấp, khơng đồng đều, chưa đa dạng sản phẩm, sản phẩm chủ yếu ở dạng sơ
chế, chưa có nhiều sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm chưa có thương hiệu và chưa
có nguồn gốc xuất sử, chỉ dẫn địa lý … Hiện sản phẩm cà phê Việt Nam giao dịch
trên thị trường chủ yếu là cà phê chưa rang, chưa khử cafein (090111). Giá trị xuất
khẩu cà phê chưa rang, chưa khử cafein chiếm tới 98,7% tổng giá trị xuất khẩu cà
phê (năm 2009). Năm 2010, trị giá xuất khẩu cà phê chưa rang, chưa khử cafein đạt
khoảng 1,65 tỷ USD, chiến tới 99% tổng giá trị xuất khẩu cà phê. Các loại cà phê
khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Lượng đạm, ka li, lân tồn đọng trong cà phê
vượt ngưỡng cho phép. Tỷ lệ hạt đen, vỡ, độ ẩm cao… Do vậy các nhà nhập khẩu
chỉ coi cà phê Việt Nam như là nguyên liệu phối trộn nhằm giảm chi phí.
Thứ hai, sức cạnh tranh của các chủ thể sản xuất, chế biến và kinh doanh xuất
khẩu cà phê cũng còn yếu. Các chủ thể trồng cà phê là các nông trại, trang trại nhỏ
và các nông hộ chiếm 85% diện tích cà phê cả nước. Các cơng ty nhà nước trồng cà
phê trong những nông trường lớn chỉ chiếm khoảng 15%. Cà phê sản xuất ở những
trang trại/nơng hộ có quy mơ nhỏ dưới 2 ha chiếm 85% diện tích cà phê với khoảng
561.000 nông hộ. Những trang trại, nông hộ quy mơ nhỏ tỷ lệ cơ giới hóa thấp,
thiếu sân phơi và máy sấy, thiếu vốn… Các doanh nghiệp chế biến sâu như rang
xay, chế biến cà phê hòa tan cịn rất ít, chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa.
Hiện chỉ có vài doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm, quảng bá hình ảnh
doanh nghiệp và sản phẩm… Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và các đại lý
thiếu vốn không thể mua được sản phẩm của các hộ dân và chịu thua ngay trên sân
nhà.
Thứ ba, ngành cà phê Việt Nam chưa có tổ chức đại diện có uy tín trên thị trường
thế giới và thiếu cơ chế, chính sách liên kết ngành. Các tổ chức đại diện ngành cà
phê Việt Nam có vị thế rất thấp, rất yếu trước độc quyền nhóm của các tập đoàn
17
rang xay và các công ty chế biên cà phê đa quốc gia trong ngành cà phê toàn cầu.
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay chỉ có duy nhất một tổ chức đại diện là Hiệp hội
Cà phê ca cao (VICOFA), Hiệp hội này mới đại diện cho một số doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh xuất khẩu cà phê, chứ chưa phải tồn bộ doanh nghiệp trong
ngành, chưa nói đến đại diện cho các nông hộ/trang trại sản xuất cà phê và các hộ
sơ chế, các đại lý… Ngoài hiệp hội này, khơng có các tổ chức hợp tác xã, liên minh
nào khác.
Thứ tư, về yếu tố khách quan: Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu với trình
trạng thời tiết cực đoan đã đặt các vùng trồng cà phê vào vị trí nguy hiểm. Theo
Trung tâm Nơng nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), nhiệt độ tăng và lượng mưa
thay đổi có thể khiến nước ta mất 50% diện tích sản xuất cà phê Robusta hiện tại
vào năm 2050. Hơn nữa, trong những năm tới, sản xuất cà phê Việt chủ yếu dựa
vào 3 nhóm. 50% tổng số thuộc nhóm cây từ 10 - 15 tuổi - nhóm cho năng suất cao
nhất; 30% cây là từ 15 - 20 tuồi và khoảng 20% trên 20 tuổi - nhóm khơng thể đảm
bảo năng suất. Vậy nên, nếu không được cải tạo trong vài năm tới, cây già sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng cà phê của nước ta.
Thứ năm, về yếu tố chủ quan: Diện tích cây cà phê mới trồng đã tăng đáng kể
trong thời gian gần đây, nhưng hầu hết lại nằm ở những khu vực không phù hợp đất nông, dốc cao, thiếu nước tưới, ... Do đó, mặc dù diện tích trồng được cải thiện
nhưng lại không đạt được hiệu quả kinh tế, do năng suất thấp và chi phí sản xuất
cao. Các biện pháp canh tác, thâm canh được áp dụng trong quá khứ đã sử dụng
quá nhiều đầu vào (phân bón, tưới tiêu,...) để đạt được năng suất tối đa. Dẫn đến
cây cà phê khơng chỉ nhanh chóng cạn kiệt và mất khả năng sản xuất, mà còn gây
phá hủy tài nguyên nước ngầm và ô nhiễm đất - nhiều bệnh và sâu bệnh hình thành,
đặc biệt là nấm và tuyến trùng rễ. Những hình thức sản xuất với quy mơ nhỏ, phân
tán và độc lập của các hộ nông dân đã dẫn đến tình trạng sản xuất chất lượng thấp
18
và không ổn định. Sự khác biệt của đầu tư, thu hoạch và chế biến đã phần nào ảnh
hưởng đến chất lượng của toàn bộ ngành Cà phê Việt Nam.
2.2.3.
Liên hệ so sánh với các quốc gia trồng cà phê khác
Về chi phí sản xuất cà phê xuất khẩu: chi phí sản xuất cà phê xuất khẩu của Việt
Nam thấp hơn so với các nước trồng cà phê xuất khẩu khác. Chi phí bình qn của
Việt Nam là 650- 700 USD/ tấn cà phê nhân. Nếu tính cả chi phí chế biến thì giá
thành cho một tấn cà phê xuất khẩu là 750- 800 USD. Trong khi đó chi phí sản xuất
của ấn Độ là 1,412 triệu USD/ tấn cà phê chè, 926,9 USD/ tấn đối với cà phê vối.
Chi phí sản xuất rẻ là điều kiện thuận lợi để hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh cho
mặt hàng cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Việt Nam đã ra nhập ICO, sẽ tham gia tổ chức hiệp hội các nước sản xuất cà phê
(ACPC) và các tổ chức quốc tế khác có liên quan. Việt Nam đã tăng cường hợp tác
kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Điều này có
thể giúp cho Việt Nam có điều kiện để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong sản
xuất, chế biến cà phê đồng thời mở rộng được giao lưu trao đổi mặt hàng cà phê
với các nước trong khu vực và thế giới.
Về thị trường xuất khẩu cà phê: thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam ngày càng
mở rộng, một số sản phẩm cà phê chất lượng cao như cà phê Trung Nguyên,
Vinacafe, Nam Nguyên, Thu Hà,… đã có thương hiệu và đứng vững trên thị trường
khu vực và thế giới.
Năm 2021, nền kinh tế thế giới vẫn cịn nhiều khó khăn do bệnh dịch. Nền kinh
tế Việt Nam cũng đối mặt với tình hình chung trên thế giới. Nhưng trong “khó ló
khơn”, ngành cà phê sẽ đi bằng hai chân. Một chân mở rộng thị trường, tham gia
vào chuỗi siêu thị các nước để phân phối cà phê chế biến, đẩy nhanh bán cà phê
qua hệ thống thương mại điện tử. Một chân đẩy mạnh tiêu thụ tại thị trường nội địa
là thị trường “tiền tươi thóc thật”. Giữ vững vị trí nước sản xuất và xuất khẩu cà
19
phê lớn thứ hai thế giới, nâng cao giá trị gia tăng của hạt cà phê, góp phần nâng cao
và ổn định đời sống của 640.000 hộ trồng cà phê…
2.3. Nguyên nhân dẫn đến những mặt tích cực và hạn chế tình hình sản xuất
cà phê của nước ta
2.3.1.
•
Điều kiện tự nhiên
Thuận lợi
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển sản xuất cà phê. Việt Nam nằm
trong vành đai nhiệt đới, trải dài theo phương kinh tuyến từ 8030’ đến 23030’ vĩ độ
Bắc. Điều này mang đến cho nước ta một điều kiện khí hậu và địa lý rất thuận lợi
trong nuôi trồng và sản xuất cà phê, đem lại một hương vị cà phê rất riêng đậm chất
của Việt Nam.
Khí hậu Việt Nam đa dạng, phân hóa từ nam ra bắc thích hợp trồng nhiều loại cà
phê như: arabica, Robusta, moca,…tạo ra sự đa dạng về các sản phẩm cà phê. Miền
khí hậu phía Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta.
Miền khí hậu phía Bắc có mùa đơng lạnh và có mưa phùn thích hợp với cà phê
Arabica. Khí hậu Việt Nam nóng ẩm mưa nhiều, độ ẩm cao thích hợp cho sự sinh
trưởng của cà phê, sản lượng cà phê hằng năm cao(31,3 triệu bao 60kg năm 2020).
Điều kiện đất đai của nước ta là một trong những thế mạnh trong việc sản xuất cà
phê. Đất đỏ badan được phân bố rộng khắp lãnh thổ, trong đó phân bố nhiều nhất ở
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích khoảng hàng triệu hecta, diện tích
trồng cà phê của nước ta rất lớn, khoảng 680000ha năm 2020. Đặc biệt ở Bn Mê
Thuột có các loại đất mà các nhà thám hiểm như Yersin, giám mục Cassaigne ...
đều nhận định là loại đất tốt nhất thế giới, rất thích hợp cho việc trồng cây cà phê.
• Khó khăn
Những biến đổi khí hậu ảnh hưởng nặng nề đến sự sinh trưởng và phát triển của
cà phê, năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm.
Tác động của biến đổi khí hậu gây ra nhiều hậu quả khác nhau. Mưa lũ xuất hiện
ngày càng nhiều với tần suất thường xuyên làm tăng nguy cơ xói mịn đất, quả cà
20
phê bị rụng, sâu bệnh gây hại, sinh trưởng bị hạn chế,.. ảnh hưởng nặng nề đến
năng suất cà phê.
Bên cạnh đó, những đợt hạn hán kéo dài cũng đe dọa ảnh hưởng đến năng suất.
Những đợt hạn hán kéo dài trong lịch sử đã ảnh hưởng ít nhiều đến năng suất cà
phê của nước ta, Như trong năm 2016 đợt hạn hán khóc liệt kéo dài từ tháng 1 đến
tháng 6 đã gây ảnh hưởng rất lớn ,một số diện tích cà phê bị chết đã khơng thể khơi
phục.
Biến động của yếu tố nhiệt độ và khí hậu cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh
trưởng và phát triển của cây cà phê, khiến sức đề kháng cảu cây giảm dẫn đến sâu
bệnh dễn tấn cơng.
Lượng mưa bình qn có xu hướng thay đổi theo chiều hướng bị giảm đi, gây ra
hiện tượng thiếu nước và cây không thể hấp thu dinh dưỡng. Trong thực tế, việt
phân bố lượng mưa khơng đều, tổng lượng mưa sụt giảm, điều kiện khí hậu khắc
nghiệt trong mùa khô đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp bền vững ở tây
nguyên, đặc biệt là đối với cây cà phê, ảnh hưởng rõ nét nhất là hiện tượng mùa
mưa kết thúc sớm làm cho cây cà phê phân hóa mầm hoa sớm, kết hợp các cơn
mưa muộn làm cho cây cà phê nở hoa sớm và không tập trung ảnh hưởng đến năng
suất.
Sự thay đổi thời tiết có xu hướng nóng lên cũng làm cho sâu bệnh hại phát triển
và khó dự báo. Điển hình như rệp sáp hại cà phê đã thành dịch vào những năm
2000-2003, bệnh vàng lá do tuyến trùng với nấm đối với cà phê (2000-2004), ve
sầu hại rễ cà phê (2007-2009),… đã gây ra những thiệt hại đáng kể, dẫn đến giảm
năng suất cà phê.
Sự nóng lên do bức xạ nhiệt độ tăng thì nhu cầu nước của cây cà phê cũng tăng
lên, vì vậy yêu cầu về lượng nước tưới cũng tăng lên trong bối cảnh nguồn tài
nguyên nước ngày càng cạn kiệt do ảnh hưởng khí hậu. Chi phi đầu tư cũng sẽ tăng
đồng nghĩa với thu nhập giảm dẫn đến cuộc sống người dân khó khăn hơn.
2.3.2.
Khoa học kỹ thuật, cơng nghệ, cơ sở hạ tầng
• Thuận lợi
21
Việc áp dụng khoa học kĩ thuật dẫn đến tăng năng suất và chất lượng cà phê như:
lai tạo giống mới có khả năng kháng bệnh, tạo ra năng suất cao, giảm bớt gánh
nặng về chi phí lao động cũng như sức lao động cho người nông dân, tăng lợi
nhuận cho người trồng.
Áp dụng khoa học kĩ thuật vào chế biến cà phê làm cho con người khơng cịn
phụ thuộc vào thời tiết, tăng năng suất và giá trị của sản phẩm. Đồng thời tạo ra
nguồn cung với số lượng và chất lượng ổn định để phục vụ cho xuất khẩu.
• Khó khăn
Việc áp dụng khoa học kĩ thuật chưa thực sự được áp dụng rộng rãi, áp dụng
khoa học kĩ thuật của người dân cịn chưa cao. Nhiều nơng dân ngại thay đổi vì
chưa thấy hiệu quả thực tế của các mơ hình áp dụng đồng bộ các giải pháp cơ giới
hóa cũng như giá thành máy móc cịn khá cao. Ngồi ra, do máy móc và trang thiết
bị cịn hạn chế về tính năng nên chưa thể áp dụng đồng bộ canh tác (chưa có máy
trồng cà phê, máy tạo hình cà phê, máy tạo hình, máy thu hoạch cà phê chưa đáp
ứng nhu cầu…).
Điều kiện của vùng sản xuất khơng cho phép áp dụng cơ giới hóa: đất dốc, diện
tích nhỏ lẻ, hệ thống cây trồng khơng phù hợp để áp dụng cơ giới hóa, tập quán
canh tác lâu đời khó thay đổi,…
Các khâu sản xuất và chế biến cà phê chưa thực sự cơ giới hóa đồng bộ. Chẳng
hạn như người dân chỉ áp dụng cơ giới hóa trong khâu làm đất, chăm sóc, thu
hoạch và sau thu hoach. Chưa áp dụng vào khâu nuôi trồng cà phê dẫn đến chưa đạt
được năng suất cao nhất.
2.3.3.
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp ở đây được hiểu là tổ chức kinh tế thu mua cà phê thô và chế biến
thành sản phẩm cung cấp ra thị trường. Tình hình kinh doanh của hầu hết các doanh
nghiệp trồng, chế biến, xuất khẩu cà phê vẫn gặp nhiều khó khăn do giá cà phê ở
vùng giá thấp từ năm 2019. Nhiều doanh nghiệp vẫn đặt kế hoạch kinh doanh thận
trọng cho năm 2020.
• Thuận lợi
22
Các doanh nghiệp cà phê thúc đẩy tính cạnh tranh giúp thị trường ngày càng phát
triển, nâng cao giá trị cà phê bằng cách chế biến theo công nghệ, quảng bá nhằm
tăng lượng cầu cho thị trường cà phê.
Một chuyên gia cấp cao của ngành Nông nghiệp đã nhận định, các hiệp định FTA
thế hệ mới như EVFTA, CPTPP sẽ mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất,
chế biến và xuất khẩu cà phê, khi mà thuế xuất khẩu của nước ta có thể về gần 0%.
Đây là lợi thế vô cùng lớn, giúp Việt Nam không chỉ là trung tâm trồng trọt mà cịn
có thể là trung tâm sản xuất cà phê của thế giới.
• Khó khăn
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cà phê Việt hiện đang phải đối mặt với khơng ít
những thách thức, bao gồm cả khách quan và chủ quan:
Sự khác biệt của đầu tư, thu hoạch và chế biến đã phần nào ảnh hưởng đến chất
lượng của toàn bộ ngành Cà phê Việt Nam.
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cà phê chủ yếu thu mua qua trung gian,
khiến cho giá trị thực tế chuyển giao về tay người nơng dân cịn hạn chế và chất
gắn kết giữa nông dân và doanh nghiệp cịn lỏng lẻo. Kèm theo đó là việc thiếu
kiểm sốt chất lượng cà phê và sự ảnh hưởng tới môi trường do canh tác tự phát.
Cơ chế thu mua phân loại cũng chưa tạo động lực cho nông dân để họ tự nâng cao
chất lượng cà phê.
Hiện nay, công tác xây dựng, phát triển thương hiệu chưa được doanh nghiệp
nhận thức đầy đủ và triển khai hiệu quả, là một ngun nhân dẫn đến nơng sản nói
chung và cà phê nói riêng của Việt Nam chưa được người tiêu dùng trên thế giới
biết đến, vị thế trong thương mại quốc tế của hàng hóa do vậy mà cũng thấp hơn so
với các đối thủ cạnh tranh.
23
Năm 2020 được đánh giá là năm khó khăn với doanh nghiệp cà phê khi giá cà
phê vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kéo dài 4 năm thì đại dịch COVID-19
khiến nhiều nền kinh tế bị đóng băng kéo theo nhu cầu cà phê giảm sút, giá cà phê
giảm mạnh, khiến các doanh nghiệp luôn chịu sức ép giá bán thấp hơn so với giá
thành sản xuất. Các nước tiêu thụ cà phê lớn trên thế giới như Mỹ, Đức, Anh, Ý,
Pháp, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc... đang thực hiện giãn cách xã
hội khiến các trung tâm thương mại lớn, các quán cà phê đóng cửa, dẫn tới việc tiêu
thụ cà phê chậm lại. Chưa kể tới việc thiếu container rỗng những tháng cuối năm
khiến doanh nghiệp không thể xuất được hàng dù đã vào vụ.
2.3.4.
•
Người trồng cà phê
Thuận lợi
Nguồn lao động dồi dào
Theo kết quả điều tra mới nhất năm 2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573
người, đứng thứ 3 Đông Nam Á, đứng thứ 13 thế giới.
Cơ cấu dân số Việt Nam vẫn là dân số trẻ, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động
chiếm trên 55% dân số. Mỗi năm, xã hội có thêm khoảng 1,1 triệu lao động mới.
Người dân nước ta cần cù chịu khó, lại ham học hỏi, tiếp thu nhanh những tiến bộ
khoa học kĩ thuật mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất do đặc điểm
q trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê địi hỏi rất nhiều cơng lao
động, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300- 400 cơng lao động, trong đó riêng cơng
thu hái chiếm đến hơn 50%. Dân số đông là một nguồn lực quan trọng để phát triển
kinh tế, cung cấp nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Người dân Việt Nam có đức tính chịu khó cần cù, có tinh thần học hỏi tiếp thu
khoa học công nghệ để áp dụng vào trồng và chế biến cà phê xuất khẩu. Điều này
cũng là lợi thế trong việc tạo ra một nguồn hàng cho cà phê xuất khẩu.
Lao động trình độ cao
24
Đây là vấn đề rất nan giải đối với việc phát triển cây cà phê của nước ta, do lao
động nước ta phần lớn là trình độ thấp và chưa qua đào tạo. Tuy vậy chất lượng lao
động đang ngày được nâng cao song song với việc đầu tư công nghệ mới. Yếu tố
kinh nghiệm lâu năm cũng là một thế mạnh của lao động nước ta.
•
Khó khăn
Phần lớn diện tích cà phê trồng khơng đúng quy cách
Ngun nhân dẫn đến thực trạng này là do trong những thời kỳ giá cà phê trên
thế giới tăng cao, người dân đã đổ xơ phát triển diện tích cà phê mới bất chấp
những khuyến cáo của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các nhà khoa học và
hầu hết các diện tích cà phê trồng mới này đều khơng nằm trong vùng quy hoạch,
chủ yếu được trồng ở những nơi khơng thích hợp cho cây cà phê phát triển như:
tầng đất nông, độ dốc lớn, thiếu nguồn nước tưới…
Do việc phát triển diện tích cà phê ở những vùng đất khơng thích hợp như thế
nên hiệu quả kinh tế khơng cao, năng suất thấp, chi phí sản xuất tăng cao và cây cà
phê khơng có tuổi thọ.
Chăm sóc khơng đúng kỹ thuật
Hiện nay việc trồng và chăm sóc cà phê của bà con nông dân hầu hết đều không
tuân thủ đúng kỹ thuật mà các nhà khoa học đã khuyến cáo.
Do việc mở rộng diện tích và tập trung đầu tư tăng năng suất một cách tối đa,
người trồng cà phê đã tiến hành phá bỏ các loại cây che bóng mát trong vườn cà
phê, tăng cường lượng nước tưới và bón phân hố học…
Chính những biện pháp kỹ thuật thâm canh cao độ này đã làm cho cây cà phê
nhanh chóng suy kiệt, mau già cỗi, mơi trường đất bị ô nhiễm nặng, nhiều loại sâu
bệnh như nấm, tuyến trùng hại rễ nhanh chóng phát sinh và tàn phá nhiều vùng cà
phê.
25