Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

DHTHAK6NGUYEN THI TRANG EMKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.93 KB, 5 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC – MẦM NON

Họ và tên: Nguyễn Thị Trang Em
STT: 21
Lớp: Sư phạm Tiểu học A
Khóa: 6

Niên khóa: 2018 – 2019

BÀI LÀM


Yêu cầu 1:
Sau khi hoàn thành đợt thực tập sư phạm tại trường Tiểu học Hiệp Phước, em
đã dự được một số tiết dạy Tiếng Việt và có đưa ra một số đánh giá về việc thực
hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt trong các tiết dạy ấy như sau:
Về nguyên tắc phát triển tư duy: Tất cả các tiết dạy Tiếng Việt giáo viên
tuân thủ nguyên tắc phát triển tư duy.
+ GV luôn đặt HS vào trạng thái tư duy liên tục bằng cách đặt ra cho HS
nhiều câu hỏi có vấn đề, cho HS hoạt động tích cực để HS luôn suy nghĩ,
chủ động đi vào bài mới, tự rút ra được nội dung bài học, HS tự giải quyết
được các bài tập thay vì cần có sự hướng dẫn trước của GV, ít phụ thuộc vào
sách giáo khoa hơn nhưng vẫn đảm bảo quy trình (GV đáp ứng được tiêu
chí “HS tự sản sinh ra tri thức” của một tiết dạy tích cực).
 Khi dạy tiết Luyện từ và câu (tiết dạy mẫu) bài “Đại từ xưng hô”, GV
đặt câu hỏi liên tục, cho HS tư duy suốt tiết học:
 Đầu tiên, GV cho HS đọc câu 1, xác định đây là cuộc trò
chuyện của ai với ai? Trong số các từ in đậm, từ nào chỉ người
nói, từ nào chỉ người nghe, từ nào chỉ người hay vật được nhắc
đến? (HS suy nghĩ cá nhân trả lời). Sau đó GV dẫn vào nội


dung ghi nhớ bằng câu hỏi Vậy các từ đó dùng để làm gì? GV
giải thích các từ như vậy được gọi là đại từ xưng hơ. Từ đó HS
rút ra được khái niệm Đại từ xưng hô (phần 1 khung ghi nhớ).
 GV tiếp tục hỏi HS: Những đại từ xưng hô đó thể hiện thái độ
gì của nhân vật khi giao tiếp? (HS suy nghĩ cá nhân rồi trao đổi
với bạn kế bên theo nhóm đơi để trả lời). GV hỏi HS câu 3:
Những từ em thường dùng để xưng hô? (GV cho HS suy nghĩ
cá nhân, chia sẻ với bạn kế bên, thảo luận nhóm 4 để làm). Từ
đó HS nêu ra được thêm các danh từ chỉ người được dùng làm
đại từ xưng hô thể hiện thứ bậc, tuổi tác, giới tính,…(phần 2
khung ghi nhớ).
 GV hỏi HS khi xưng hơ cần chú ý điều gì? HS suy nghĩ cá nhân
trả lời (nêu được phần 3 khung ghi nhớ).
 Bài tập 1: GV cho HS suy nghĩ cá nhân rồi chia sẻ ý kiến với
bạn cùng bàn để làm
 Bài tập 2: GV cho HS suy nghĩ cá nhân rồi trao đổi với nhóm 4
để làm vào vở, 1 nhóm làm vào bảng phụ cho cả lớp nhận xét.
Cách đặt câu hỏi liên tục và tổ chức hoạt động như vậy giúp HS tư duy
liên tục.
 Khi dạy tiết Tập làm văn (tiết dạy mẫu) bài “Cấu tạo của bài văn tả
người”, GV cũng cho HS trả lời câu hỏi liên tục để HS luôn tư duy:
 Sau khi cho HS đọc yêu cầu, nội dung phần nhận xét, GV treo
bảng câu hỏi lên bảng, chia lớp thành các nhóm 4 sau đó phát
phiếu học tập cho các nhóm. HS suy nghĩ cá nhân rồi trao đổi
với bạn kế bên, tham gia thảo luận nhóm 4 để hồn thành phiếu
học tập. Từ đó HS tự rút ra được cấu tạo của bài văn tả người.
 GV cho HS suy nghĩ cá nhân rồi trao đổi nhóm đơi so sánh cấu
tạo của bài văn tả người và cấu tạo của bài văn tả cảnh.



GV cho HS tự xác định yêu cầu phần luyện tập, suy nghĩ làm
vào vở.
 Qua 2 tiết dạy trên, em nhận thấy hệ thống câu hỏi của GV rất
logic, hợp lí, phong phú, địi hỏi nhiều mức độ tư duy. Cịn các tiết
dạy khác như Tập đọc, Chính tả, do lớp học trễ khá nhiều bài nên
GV khơng có đủ thời gian để dạy bài bản theo quy trình, GV cịn
làm thay HS nhiều hoạt động, khiến HS ít được tư duy, hoạt động
khơng tích cực. Bên cạnh đó, em nhận thấy chỉ có các em khá, giỏi
mới trả lời được nhanh các câu hỏi mà GV đặt ra, nhiều em tư duy
chậm hơn các bạn nên không giải đáp kịp các câu hỏi của GV, dẫn
đến việc các em chưa theo kịp bài, chưa tự rút ra được nội dung bài
học mà vẫn phải phát biểu rập khuôn theo khung ghi nhớ trong
sách giáo khoa.
+ GV có chú ý rèn các thao tác tư duy cho HS như phân tích, so sánh, khái
quát, tổng hợp,…
 Trong tiết Luyện từ và câu bài “Đại từ xưng hô”:
 GV cho HS rèn thao tác phân tích: HS phân tích yêu cầu, nội
dung của văn bản phần nhận xét và phần luyện tập,…
 GV cho HS rèn thao tác so sánh: HS so sánh ý kiến của mình
với ý kiến cá nhân của các bạn khác khi nghe các bạn phát biểu,
khi thảo luận nhóm, khi nghe nhóm khác trình bày.
 GV cho HS rèn thao tác tổng hợp: HS tổng hợp ý kiến của các
bạn trong nhóm để đưa ra câu trả lời đúng nhất cho câu hỏi của
GV, tổng hợp những ví dụ đã phân tích để đưa ra nội dung của
bài học.
 Trong tiết dạy Tập làm văn bài “Cấu tạo của bài văn tả người”:
 GV rèn cho HS thao tác phân tích: HS phân tích bài “Hạng A
Cháng”, phân tích các câu hỏi, phân tích yêu cầu phần luyện
tập.
 GV cho HS rèn thao tác so sánh: HS so sánh cấu tạo của bài

văn tả người với cấu tạo của bài văn tả cảnh.
 GV cho HS rèn thao tác tổng hợp: HS tổng hợp câu trả lời của
các câu hỏi để rút ra cấu tạo của bài văn tả người.
 HS thực hiện các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp,… tương
đối tốt. Tuy nhiên, các phẩm chất tư duy nhanh, chính xác, tích cực
cịn hạn chế, các em có tư duy nhanh, chính xác, tích cực là các em
khá giỏi, các em khác thì cịn hơi chậm.
+ Vì các em là HS lớp 5 nên GV làm cho các em thông hiểu các đơn vị ngôn
ngữ một cách dễ dàng.
Về nguyên tắc giao tiếp:
+ Hoạt động giao tiếp (để hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho
HS) được giáo viên khá chú trọng, giao tiếp là phương pháp dạy học chủ đạo
mà GV sử dụng khi dạy các tiết Tiếng Việt.
 Trong tiết học Luyện từ và câu bài Mở rộng vốn từ: Bảo vệ môi
trường, GV cho HS giao tiếp rất nhiều:
 Khi giải thích nghĩa của các từ, GV cho HS đối thoại với nhau,
một bạn hỏi, bạn kia trả lời.



 GV cho HS nói về các hoạt động đã làm để bảo vệ môi trường
xung quanh nhà ở và lớp học.
 GV cho HS nói về các tranh ảnh thể hiện việc làm bảo vệ mơi
trường mà mình sưu tầm được
 GV cho HS nói về những việc nên làm để bảo vệ môi trường
sống
 Em tâm đắc nhất là sau khi hoạt động nhóm xong, GV cho HS
mang phiếu học tập đi giao lưu với các nhóm khác, nhóm được
làm bảng phụ sẽ tự lên trình bày, mời các bạn nhận xét góp ý,
giải đáp thắc mắc của các bạn. Theo em, cách cho HS giao lưu

và tự điều khiển hoạt động giúp cho HS phát huy tính tích cực
và phát triển kỹ năng giao tiếp rất hiệu quả.
 HS giao tiếp tốt, có hiệu quả. Tuy nhiên còn một vài em chưa được
giao tiếp trong suốt tiết học.
Về ngun tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
tiểu học:
+ GV duy trì được sự chú ý của HS trong suốt tiết học vì các bài giảng của
GV khá mới lạ, hấp dẫn nhờ cách truyền đạt mạch lạc, giọng điệu cuốn hút,
phong thái vui tươi, hình ảnh phong phú, hình thức hoạt động thay đổi liên
tục, có đan xen các trò chơi học tập, đồ dùng dạy học đẹp mắt, sáng tạo (GV
đáp ứng được tiêu chí “khơng khí lớp học sơi nổi, vui tươi” của một tiết
dạy tích cực). Tiêu biểu là khi dạy bài Luyện từ và câu Mở rộng vốn từ:
Bảo vệ môi trường, GV sử dụng nhiều tranh ảnh đặc sắc thu thập từ thực tế
địa phương, từ chính các hoạt động bảo vệ mơi trường của các em ở trường,
các video, hình ảnh về các hoạt động bảo vệ môi trường của học sinh các
vùng khác, của thanh niên,… làm cho các em thích thú. Bên cạnh đó, GV
khuyến khích các em phát biểu bằng cách luôn khen ngợi và ghi nhận ý kiến
của các em, khơng chê vì như vậy HS sẽ tự tin hơn và khơng sợ sai. Ngồi
ra, các hoạt động cũng được GV thay đổi hình thức liên tục (suy nghĩ cá
nhân, làm việc nhóm đổi, nhóm 4 điền vào phiếu học tập/bảng con, trị chơi
tiếp sức có thưởng,…) để làm cho tiết học trở nên đa dạng, không bị nhàm
chán. Khi cho HS chơi trò chơi, GV huy động được tất vả HS cùng chơi nên
tất cả các em đều rất hào hứng. Nhờ tạo được khơng khí lớp học sôi động
cộng thêm việc tổ chức các hoạt động một cách khoa học, thay đổi hình thức
liên tục mà GV huy động được toàn bộ HS tham gia (GV đáp ứng tiêu chí
“mọi HS đều tham gia hoạt động” của một tiết dạy tích cực).
+ GV có chú ý đến trình độ tiếng mẹ đẻ của HS, GV sử dụng từ ngữ quen
thuộc với các em, giải thích rõ những từ lạ, từ khó, thay thế những từ đó
bằng các từ đồng nghĩa mà các em đã biết.


Ở tất cả các tiết dạy Tiếng Việt, GV đáp ứng được 3 nguyên tắc dạy
học Tiếng Việt và 3 tiêu chí của tiết dạy tích cực.

Yêu cầu 2:


Khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học, ngoài
việc học hỏi được những kinh nghiệm, em cịn có những băn khoăn, thắc mắc cần
được giải đáp:
1. Theo như em được học thì khi soạn giáo án, phần kiểm tra bài cũ phải
được xếp vào một hoạt động và xác định mục tiêu rõ ràng, nhưng GV
hướng dẫn của em thì khơng xếp kiểm tra bài cũ thành một hoạt động,
không ghi mục tiêu trên giáo án mà chỉ ghi cách tiến hành, bước vào bài
mới mới được phép chia các hoạt động. GV hướng dẫn của em trình bày
như vậy thì liệu có ảnh hưởng gì đến tính chặt chẽ của giáo án hay
khơng?
2. Em có thể ghi lời nói của mình để trong dấu ngoặc kép vào trong giáo án
được không? Em thấy GV hướng dẫn hay làm như vậy.
3. Khi dạy một tiết dạy theo hướng phát huy tính tích cực của HS, em thấy
GV đặt ra nhiều câu hỏi để dẫn vào nội dung chính của bài, nhưng đối
tượng trả lời được những câu hỏi đó là những em khá giỏi được GV gọi
thường xuyên, còn một số em khác không biết trả lời và thụ động. Vậy
làm thế nào để đảm bảo tất cả HS trong lớp theo kịp bài?
Ngồi ra, em cịn nhận thấy một số điểm bất cập và em xin đề xuất giải
pháp khắc phục như sau, em mong rằng sẽ hữu dụng:
Một số bất cập
1. Khi kiểm tra bài cũ, GV
thường chỉ gọi vài HS nhắc
lại nội dung bài cũ rồi kết
luận “cả lớp học bài rất tốt”.

Em cảm thấy làm như vậy
không đủ để đảm bảo tất cả
HS đều nhớ được bài cũ.

Giải pháp khắc phục
GV cho HS trình bày vào 1 tờ giấy
sau đó cho trao đổi bài làm với bạn
để kiểm tra chéo.

2. Khi GV đặt câu hỏi, chỉ có
một nhóm HS khá giỏi trả lời
được và phát biểu tích cực,
cịn các em khác thì chưa
nghĩ ra kịp câu trả lời, không
phát biểu được, thụ động
trong suốt buổi học.

GV phải thường xun gọi những
em ít phát biểu thay vì cứ gọi
những em khá giỏi hay phát biểu.

Trên đây là những gì em đã học tập được thông qua những tiết dạy
Tiếng Việt ở trường Tiểu học. Em kính mong thầy xem xét, chỉ dạy, sửa
chữa và thông cảm cho những sai sót của em. Em xin chân thành cảm
ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Trang Em




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×