TIỂU LUẬN
Mơn: Đường lối chính sách
Đề tài
Vận dụng lý luận về đặc trưng chung của kinh tế thị trường và cơ chế thị
trường để đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế thị trường tại địa phương
hiện nay.
BÀI LÀM
Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng nhiều tiêu chí, trong
đó có tiêu chí về sự phát triển kinh tế ở những thời kỳ, những giai đoạn khác nhau.
Từ chỗ ban đầu thực hành một “nền kinh tế cướp đoạt” (theo cách nói của Ph. Ăngghen), con người đã phải trải qua hàng vạn năm để biết dùng lửa nấu chín thức ăn
và sưởi ấm, biết thuần hóa súc vật, biết chăn ni, biết làm nghề nông, biết chế tạo
ra những vật phẩm đơn giản đáp ứng nhu cầu đơn giản và rất hạn chế trong một
phạm vi cộng đồng nhỏ hẹp. Dần dần, khi một cộng đồng có thừa một loại sản
phẩm nào đó đã được làm ra nhưng lại cần đến những loại sản phẩm khác mà cộng
đồng khác dư thừa thì sự trao đổi bắt đầu diễn ra. Sản xuất phát triển thì sự trao đổi
ấy diễn ra ngày càng thường xuyên hơn trên phạm vi ngày càng mở rộng hơn. Như
vậy, từ hình thái kinh tế tự nhiên, nhân loại chuyển dần lên một hình thái kinh tế cao
hơn là sản xuất hàng hóa - đó là kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa ra đời là
một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế,
cho tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại.
Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ
kinh tế, sự trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm
kiếm lợi nhuận,... đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Không
thu được lợi nhuận thì người sản xuất, kinh doanh khơng còn động lực để tiếp tục,
nhất là để thúc đẩy công việc sản xuất và kinh doanh của họ, do đó sự trì trệ của xã
hội là khó tránh khỏi. Cho nên có thể nói kinh tế thị trường là thành quả quan
trọng của sự phát triển lâu dài trong nền văn minh của toàn thể nhân loại từ khi nó
xuất hiện chứ khơng phải là của riêng hoặc là độc quyền của một hình thái kinh tế 1
xã hội nào. Đặc biệt, như C. Mác viết, trong nền kinh tế thị trường của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì việc tìm kiếm “lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất này”. Trong nền kinh tế thị trường, rõ nhất là trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực tuyệt đối
thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Kinh tế thị trường là thành quả, là sản phẩm của sự phát triển
của kinh tế toàn thế giới trải qua nhiều thế kỷ và được chủ nghĩa tư bản hiện đại
nâng lên một tầm cao mới chứ không phải chỉ là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư
bản. Do đó việc nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hết
sức cần thiết. Vì vậy tơi chọn đề tài “Vận dụng lý luận về đặc trưng chung của kinh
tế thị trường và cơ chế thị trường để đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế
thị trường tại địa phương hiện nay” làm đề tài tiểu luận hết mơng đường lối chính
sách.
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Khi bàn về kinh tế thị trường có nhiều quan niệm khác nhau ở những cấp độ,
cách tiếp cận khác nhau. Có những quan niệm đơn giản cho rằng kinh tế thị trường
là kinh tế người mua muốn “mua rẻ” và người bán muốn “bán đắt”. Quan niệm này
chưa cho thấy nội hàm của kinh tế thị trường, mà chỉ mới tiếp cận đến mục tiêu
kinh tế của người mua, người bán. Có quan niệm bao quát hơn khi cho rằng, kinh tế
thị trường là nền kinh tế mà việc trao đổi hàng hóa đã phát triển cả về quy mơ,
chủng loại và phạm vi trao đổi. Với quan niệm này cho thấy, kinh tế thị trường đã
có sự phát triển so với các mơ hình kinh tế trước đó. Tuy nhiên quan niệm này mới
chỉ đơn thuần hiểu về sự phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng hóa, cịn các nội
dung khác như mối quan hệ kinh tế, mục tiêu của nên kinh tế thị trường….chưa
được phản ánh đầy đủ.
Như vậy, có thể hiểu “kinh tế thị trường” là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình
độ cao, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông
2
qua thị trường. Nền kinh tế thị trường vận động và phát triển chịu sự chi phối của
các quy luật kinh tế khách quan và các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền
kinh tế đều hướng tới tìm kiếm lợi ích thơng qua sự điều tiết của cơ chế thị trường
và giá cả thị trường.
Kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại chứ
khơng phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản.
Kinh tế thị trường XHCN (hay kinh tế thị trường định hướng XHCN) thực
chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
1.2. Đặc trưng chung của kinh tế thị trường
Thứ nhất, thừa nhận tính độc lập tương đối của các chủ thể kinh tế, các chủ
thể tự chủ trong các quyết định về kinh tế, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của
mình phù hợp với cơ chế thị trường và quy định của pháp luật, tự mình được hưởng
thành quả, đồng thời gánh chịu rủi ro về kinh tế.
Thứ hai, nền kinh tế vận động theo các quy luật vốn có của kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền
tệ ….sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế điều tiết của nền kinh tế.
Thứ ba, giá cả do thị trường quyết định. Cơ chế thị trường, giá cả thị trường
là cơ sở trong huy động và phân bổ nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua
pháp luật kinh tế, cơ chế, chính sách kinh tế, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường và cơ chế thị trường
có tác động hai mặt đến sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy sự điều tiết của nhà
nước đối với nền kinh tế để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, nhà nước
cần thực hiện những chức năng sau:
Một là, định hướng, tạo mơi trường, kiểm sốt và điều tiết sự phát triển của
nền kinh tế.
3
Sự định hướng nền kinh tế của nhà nước được thực hiện qua việc nhà nước
xây dựng quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn. Trên cơ sở đó nhà nước đầu tư, huy động các nguồn lực trong
và ngoài nước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như: giao thông vận tải, điện,
nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ công khác tạo môi trường thuận lợi cho sản
xuất và kinh doanh phát triển. Mặt khác nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi
như hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ
thống các văn bản hướng dẫn, các định chế, các chinh sách phát triển kinh tế...để
các chủ thể kinh tế có “sân chơi” bình đẳng, an toàn, giảm thiểu rủi ro, tranh chấp.
Đồng thời các chiến lược, kế hoạch và hệ thống pháp luật, chính sách là căn
cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế để điều tiết
các hành vi ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
nhất định. Để nền kinh tế thị trường phát triển ổn định và bền vững, nhà nước chỉ
can thiệp vào nền kinh tế khi cần thiết; chẳng hạn đầu tư ở lĩnh vực công, những
ngành khu vực tư nhân không thể làm, không muốn làm hoặc không được làm (theo
quy định của pháp luật).
Hai là, phân bổ các nguồn lực và phân phối lại thu nhập.
Do đặc trưng của nền kinh tế thị trường các chủ thể kinh tế được tự chủ sản
xuất, kinh doanh và mục tiêu hướng tới là tối đa hóa lợi nhuận nên dễ dẫn đến sự
cạnh tranh giành giật lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực quốc gia, do vậy dễ
làm tổn hại và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực đó, đặc biệt nguồn tài nguyên
dễ bị khai thác cạn kệt. Mặt khác sự cạnh tranh vơ chính phủ cũng dân đến sự phát
triển mất cân đối, tính bất ổn trong nền kinh tế. Vì vậy sự điều tiết của nhà nước là
cần thiết để đảm bảo cho các nguồn lực sử dụng có hiệu quả và đảm bảo hơn sự cân
đối, ổn định, giảm thiểu khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật giá trị
sẽ có sự phân hóa giàu nghèo, những chủ thể kinh tế có điều kiện sản xuất thuận lợi
sẽ có lợi nhuận cao. Ngược lại những chủ thể kinh tế sản xuất kinh doanh gặp cản
trở và thất bại trong cạnh tranh sẽ bị thua lỗ. Sự phân hóa giàu nghèo này nếu khơng
có sự điều tiết của nhà nước sẽ dân đến sự phân hóa xã hội thành những nhóm đối
4
lập nhau, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc hơn và đó là nguyên nhân
của sự đối đầu, đối kháng và bất ổn xã hội. Vì vậy sự điều tiết của nhà nước qua
phân phối thu nhập làm giảm sự bất ổn trong xã hội là điều cần thiết đề đảm bảo
cho kinh tế xã hội phát triển ổn định.
Ba là, chủ trì giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường để đảm bảo sự
phát triển bền vững cho nền kinh tế.
Nhà nước sẽ tham gia cung cấp các hàng hóa cơng cộng, các dịch vụ xã hội.
Mặt khác do động cơ của các nhà sản xuất, kinh doanhh trong kinh tế thị trường là
lợi nhuận, nên họ khơng hoặc ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội như thiên tai,
dịch bệnh, ơ nhiễm mơi trường; thậm chí vì chạy theo lợi nhuận mà họ còn là thủ
phạm về sự phá hủy mơi trường sinh thái. Vì vậy, giải quyết các vấn đề này khơng
ai khác ngồi nhà nước. Nhà nước là lực lượng chủ lực để tổ chức thực hiện giải
quyết các vấn đề thiên tai, dịch bệnh, thất nghiệp, môi trường, cung ứng hàng hóa
cơng cộng, các dịch vụ xã hội...để đảm bảo sự ổn định xã hội. Đó là điều kiện quan
trọng cho kinh tế phát triển bền vững.
1.3. Quan niệm về cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác
động, chi phối của các quy luật kinh tế khách quan nhằm giải quyết các vấn đề cơ
bản của nền kinh tế như: Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào,
thông qua sự điều tiết của các yếu tố thị trường như cung cầu, giá cả, cạnh tranh...vì
mục tiêu lợi nhuận.
Trên thị trường, quy luật giá trị được biểu hiện thơng qua giá cả hàng hóa. Sự
lên xuống của giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Hay nói cách khác, giá
trị là cơ sở của giá cả. Ngồi cơ sở là giá trị, giá cả cịn chịu ảnh hưởng của các yếu
tố khác như: quan hệ cung – cầu; quan hệ cạnh tranh; sức mua của tiền tệ và các yếu
tố chính trị xã hội khác...
Quan hệ cung – cầu thể hiện quan hệ giữa lượng hàng hóa dịch vụ cung ứng
với nhu cầu có khả năng thanh toán. Cung – cầu thường ở trạng thái mất cân đối
hoặc cung lớn hơn cầu, hoặc cung nhỏ hơn cầu, bởi sự co dãn cung – cầu lớn; sự
cân đối giữa cung và cầu chỉ là sự cân đối tạm thời. Khi cung – cầu không ăn khớp
5
với nhau (về lượng, về chất) thì quy luật giá trị sẽ điều tiết sản xuất hoặc tiêu dùng
thông qua giá cả. Khi cung lớn hơn cầu giá cả hàng hóa giảm, vì vậy sản xuất có xu
hướng thu hẹp, tăng tiêu dùng. Ngược lại, khu cung nhỏ hơn cầu giá cả hàng hóa
tăng lên, do đó tăng đầu tư, tức tăng cung và tiêu dùng có xu hướng giảm.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh cũng có tác động trực tiếp đến sản
xuất và tiêu dùng. Cạnh tranh trong nên kinh tế thị trường là cạnh tranh giữa những
nhà sản xuất để giành giật những điều kiện sản xuất tốt hơn (địa điểm, các yếu tố
đầu vào, thị phần, đối tác..). Cạnh tranh giữa người mua với nhau khi hàng hóa dư
cầu; cạnh tranh giữa người bán và người mua. Mục tiêu cạnh tranh của các đối thủ
cạnh tranh là nhằm tối đa hóa lợi ích và cơng cụ cạnh tranh trên thị trường là giá cả,
hàng hóa (số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã...) và ngoài ra bằng các hình
thức khác như khuyến mại, tặng quà, dịch vụ chăm sóc khách hàng...
Quy luật lưu thơng tiền tệ là một trong những quy luật điều tiết nền kinh tế thị
trường. Quy luật lưu thông tiền tệ biểu hiện trên thị trường: Khi lượng tiền lưu
thông trên thị trường lớn hơn vật đảm bảo ngang giá (hàng hóa) thì làm cho sức
mua của đồng tiền giảm do đó làm giá cả tăng lên và ngược lại. Như vậy quy luật
lưu thông của tiền tệ tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa và giá cả hàng hóa lại
tác động đến cung cầu trên thị trường, tức là nó tác động đến sản xuất kinh doanh.
Mặt khác bản thân cung tiền nó cũng là điều kiện cần thiết để mở rộng hay thu hẹp
quy mô sản xuất kinh doanh.
Trên thực tế giữa các quy luật và các quan hệ kinh tế này có tác động lẫn
nhau và thơng qua sự hoạt động đó để xác định: Sản xuất cái gí? Sản xuất bao
nhiêu? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Nhằm mục tiêu lợi nhuận bao nhiêu?
Những tác động của cơ chế thị trường
- Tác động tích cực:
Để đạt mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể tham gia trên thị trường luôn cạnh
tranh với nhau và sự cạnh tranh đó là động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội, động lực vươn lên làm giàu, bởi nó địi hỏi các chủ thể kinh tế phải năng động,
sáng tạo trong sản xuất kinh doanh; hợp lý hóa q trình sản xuất; tìm kiếm, khai
thác và sử dụng có hiệu quả cá yếu tố đầu vào; kích thích việc ứng dụng các thành
6
tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao năng suất lao động, nâng cao
chất lượng hàng hóa và làm giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác, với cơ chế thị
trường, các chủ thể kinh tế được tự chủ sản xuất kinh doanh đã cung cấp cho thị
trường một khối lượng hàng hóa phù hợp, đa dạng về mẫu mã, chủng loại đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cả về lượng và chất; mở rộng thị trường. Cơ chế
thị trường cùng tạo ra sự tự điều chỉnh về cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phù
hợp với xu hướng phát triển nhu cầu thị trường và khai thác được lợi thế so sánh.
Đó cũng là một trong những cơ sở để phân công lao động xã hội.
- Tác động tiêu cực:
Với động cơ chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà các chủ thể kinh tế có thể
dùng các thủ đoạn cạnh tranh khơng lành mạnh trên thị trường như: Gian lận thương
mại, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng nhái...làm phương hại các đối thủ
cạnh tranh, đến người tiêu dùng. Đồng thời động cơ chạy theo lợi nhuận cũng dễ
dẫn đến việc khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây tổn hại môi trường sinh thái.
Khi kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy
luật giá trị sẽ có sự phân hóa các chủ thể kinh tế trong xã hội thành người giàu và
người nghèo và sự phân hóa giàu nghèo cũng có thể làm suy thoái đạo đức, lối
sống; trật tự xã hội bị đe dọa.
Từ đó cho thấy phải có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa những thất bại
của cơ chế thị trường, bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định.
1.4. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự lựa
chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của
thời đại. Hiện nay nền kinh tế nước ta nhiều thành phần, nhiều ngành khác nhau và
có trình độ chun mơn hóa cao hơn trước nên sự phân công lao động trong nền
kinh tế nước ta đã tạo thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sự lựa chọn cách đi tới mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả và thuận lợi hơn. Kinh tế thị trường luôn
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất
7
lượng sản phẩm, hạ giá thành đáp ứng nhu cầu xã hội. Do đó trong thời ký quá độ
lên CNXH ta cần phải vận dụng kinh tế thị trường như một cơ chế để phục vụ nền
kinh tế nhiều thành phần nhằm thiết lập những quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn qua thời kỳ đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu lớn khi vận hành theo nền kinh tế thị trường. Sự lựa chọn kinh tế thị trường định
hướng XHCN là phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu các
giá trị truyền thống của đất nước.
II. VẬN DỤNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG
2.1. Đặc trưng chung của kinh tế thị trường tại xã Liên Hợp, huyện Quỳ
Hợp, tỉnh Nghệ An
Liên Hợp là xã miền núi nằm xa trung tâm huyện lỵ. Xã có tổng diện tích tự
nhiên là 4.139,68 ha, trong đó đất nơng nghiệp là 3.709,7 ha; Dân số của xã là 2.219
người. Xã có 2 dân tộc chính định cư sinh sống là dân tộc Kinh và dân tộc Thái. Về
vị trí địa lý: Phía Bắc xã Yên Hợp và huyện Quỳ Châu, Phía Nam giáp xã Châu
Quang, Phía Đơng giáp xã Châu Lộc, Phía Tây giáp xã Châu Tiến và xã Châu
Hồng.
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, sau nhiều lần tách và nhập vào các
đơn vị hành chính khác, đến năm 1965 xã Liên Hợp được tách ra từ xã Châu Lộc và
đã trở thành 1 trong 21 đơn vị hành chính của huyện Quỳ Hợp. Tồn xã có 5 xóm
bản gồm: Bản Khột Xài, Xóm Na, Xóm Quèn, Xóm Duộc, Xóm Quắn.
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy,
UBND huyện Quỳ Hợp, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã đã đoàn kết, nỗ
lực phấn đấu vượt qua khó khăn giành nhiều kết quả trên các lĩnh vực. Tốc độ phát
triển kinh tế trên địa bàn xã đạt 9,5%. Giá trị bình quân đầu người năm 2020 đạt 23
triệu đồng/người/năm. Giá trị sản xuất nơng nghiệp trong cơ cấu kinh tế có sự
chuyển biến đúng hướng. Diện tích các loại cây có giá trị kinh tế cao dần thay thế
cho những cây có giá trị kinh tế thấp. Sự nghiệp giáo dục đào tạo có nhiều tiến bộ;
quy mơ, chất lượng và cơ sở vật chất, trường lớp được củng cố và dần ổn định, chất
lượng giáo dục tồn diện có nhiều tiến bộ. Thực hiện tốt cơng tác y tế dự phịng,
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Các khu dân cư đều có hương ước, quy
ước được UBND huyện phê duyệt. Số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa
8
trung bình hàng năm là 78,2%. Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang, lễ hội mừng thọ, các hủ tục lạc hậu dần được bài trừ. Phong trào văn
nghệ, thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh trong nhân dân…
Với sự chuyển biến đồng bộ, tồn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa xã hội ở Liên Hợp sau gần 30 năm đổi mới và đặc biệt là 20 năm đầu thế kỷ
XXI là cơ sở vững chắc để trong tương lai Liên Hợp có thể phát triển một nền nơng
nghiệp tồn diện bao gồm cả nông nghiệp và lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm
và phát triển ngành du lịch sinh thái đem lại hiệu quả kinh tế cao cho địa phương.
Đảng ủy, chính quyền xã Liên Hợp đã vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng
vào thực tiễn địa phương, lãnh đạo chỉ đao nhân dân thực hiện việc phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội theo các Nghị quyết của Đảng, đảm bảo tình hình chính trị ln
ổn định, quốc phịng an ninh được giữ vững.
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
phát triển kinh tế, trong đó chú trọng việc phát triển sản xuất các lĩnh vực kinh tế
theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa để thực hiện thắng lợi các
mục tiêu về ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, giữ vững an ninh
quốc phòng.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ xã Liên Hợp nhiệm
kỳ 2015 - 2020, bộ mặt xã Liên Hợp có những thay đổi đáng kể. 9 tháng đầu năm
2021, tổng giá trị sản xuất nội xã: Ước đạt 41.306.000.000 đồng đạt: 75,28 % KH
năm; Bằng 110%, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2020: Trong đó
- Giá trị sản xuất Nông, lâm nghiệp ước 27.150 triệu đồng, đạt 68,39% KH
năm 2021; Bằng 112%, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020
- Giá trị CN, TTCN, DVTM ước 14.156 triệu đồng đạt 93,94% so với KH
năm; Bằng 121%, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2020
- Trồng trọt: Tổng sản lượng lương thực có hạt ước 715 tấn, đạt 64,12 % KH
năm 2021, tăng 04%, so với cùng kỳ 2020.
- Chăn ni:
Tổng đàn gia súc 363.548 con trong đó:
9
+ Tổng đàn Trâu: 510 con, đạt 78,46 % so với kế hoạch năm, đạt 106%, tăng
6%, so với cùng kỳ năm 2020.
+ Tổng đàn Bò: 775 con, đạt 84,23 % so với kế hoạch cả năm, đạt 103%,tăng 3
so với cùng kỳ năm 2020.
+ Tổng đàn Dê: 380 con, đạt 88,16% so với kế hoạch, đạt 101%, tăng 01% so
với cùng kỳ năm 2020.
+ Tổng đàn Lợn: 486 con, đạt 63,52% so với kế hoạch, đạt 82,31, giảm
17,68% so với cùng kỳ năm 2020.
- Tổng đàn gia cầm: 21.700. con, đạt 155%% so với kế hoạch, đạt 217%, tăng
170 so với cùng kỳ năm 2020.
- Ao cá 7,75 ha, đạt 100% KH, đạt 105%, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2020.
Năng xuất 15,4 tấn.
2.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại
xã Liên Hợp, huyện Quỳ Hợp
2.2.1. Những biểu hiện về đặc trưng chung của kinh tế thị trường tại xã
Liên Hợp
+ Mục tiêu của việc phát triển kinh tế thị trường:
Phát triển kinh tế thị trường nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh theo chủ trương chung
của Đảng và nhà nước ta.
+ Sở hữu và thành phần kinh tế tại xã Liên Hợp:
Tại xã Liên Hợp, huyện Quỳ Hợp, các chủ thể kinh tế được tự do lựa chọn
các hình thức sở hữu để phù hợp với yêu cầu và phát huy tối ưu tiềm năng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh theo luật pháp.
Hiện nay, ở trên địa bàn xã các chủ thể kinh tế tồn tại chủ yếu ở các hình thức
như: hộ cá thể, mơ hình liên kết chăn nuôi. Các chủ thể tự chủ trong các quyết định
về kinh tế, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình phù hợp với cơ chế thị
trường và quy định của pháp luật, tự mình được hưởng thành quả, đồng thời gánh
10
chịu rủi ro về kinh tế. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế tự chủ sản xuất kinh
doanh và chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, luật pháp nhà nước.
Ví dụ như mơ hình chăn ni dê, ni trâu bị sinh sản tại xã Liên Hợp là tập
hợp của nhiều hộ chăn nuôi tự chủ trong chăn nuôi, tập hợp lại thành tổ liên kết để
giao lưu và hưởng một số lợi ích mang lại như: được hỗ trợ kĩ thuật chăm sóc
hướng dẫn kỹ thuật trồng cỏ, làm thức ăn ủ chua... nhưng các chủ thể trong tổ liên
kết lại không chung nhau về vốn, về lợi ích khi xuất bán sản phẩm ra thị trường,
chính vì vậy, nếu sản phẩm làm ra được giá chủ thể kinh tế sẽ thu về lợi nhuận của
mình nhưng trường hợp sản phẩm làm ra khơng xuất bán được thì chủ thể đó cũng
tự nhận rủi ro.
+ Quản lý nền kinh tế trong kinh tế thị trường tại xã Liên Hợp:
Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Việc vận hành theo cơ chế thị trường được biểu hiện như sau:
Những mặt hàng làm ra chịu ảnh hưởng bởi những quy luật kinh tế thị
trường. Ví dụ như quy luật cung cầu. Thời gian đầu năm 2020, bệnh dịch tả lợn
Châu Phi xuất hiện tại tất cả các xã trên địa bàn huyện Quỳ Hợp nên tổng số đàn lợn
bị giảm mạnh, từ đó giá cả lợn hơi tăng lên rất cao vì thịt lợn khan hiếm. Ngay sau
khi dập được dịch, người dân ai cũng có tâm lý tái đàn với số lượng lớn và thực tế
có rất nhiều hộ gia đình đầu tư với quy mơ lớn. Đến cuối năm 2020 khi xuất chuồng
thì giá lợn lại thấp vì khi tái đàn rất nhiều hộ gia đình cùng thực hiện ở cùng một
thời điểm nên thời gian xuất chuồng là giống nhau, vì số lượng lợn cần tiêu thụ
nhiều (cung cao) trong khi nhu cầu trên địa bàn thì khơng tăng nên lúc đó giá lợn
hơi lại xuống thấp, người bán lại phải tìm cách làm thế nào để tiêu thụ được lợn.
Lúc đó các hộ gia đình lại có hướng không bán lợn hơi mà lại nghĩ ra nhiều cách để
tiêu thụ và thu lại vốn bỏ ra như tự làm thịt lợn rồi chế biến ra các mặt hàng như thịt
lợn gác bếp, làm giò lợn....để mong tiêu thụ được hàng hóa. Điều này cho thấy do
tác động của cơ chế thị trường mà người bán hàng cần phải tìm ra nhiều mẫu mã
sản phẩm để thu hút được nhu cầu tiêu dùng của người mua.
11
Từ quy luật giá trị với những quan hệ cung cầu, cạnh tranh,…các chủ thể
kinh tế ln tìm phương án cải tiến cho phương thức làm việc, sản xuất, ứng ựng
khoa học cơng nghệ tiến bộ thúc đẩy q trình phát triển kinh tế của xã. Cũng từ
đây các chủ thể tìm cách liên hệ với các mối làm ăn ở các xã, huyện, tỉnh khác, mở
rộng thị trường kinh doanh.
+ Sự quản lý, điều tiết của nhà nước:
Giá cả do thị trường quyết định cơ chế thị trường, giá cả thị trường là cơ sở
trong huy động và phân bổ nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
của xã. Là xã miền núi lại cách xa trung tâm huyện, chưa có chợ nơng thơn nên việc
tiêu thụ sản phẩm cịn gặp nhiều khó khăn, trước thực trạng đó, Đảng ủy – HĐND,
UBND đã quy hoạch xây dựng khu chợ nông thôn mới để bà con thực hiện trao đổi
hàng hóa. Từ khi họp chợ, các mặt hàng do nhân dân làm ra tiêu thụ được dễ hơn,
ngày càng thu hút được nhiều người bán hàng, nhiều nguồn hàng từ các địa phương
khác đến tạo ra sự phong phú về hàng hóa, cơ chế thị trường làm cho hàng hóa được
đa dạng về mẫu mã, chủng loại người dân có thể mua bất cứ thứ gì theo túi tiền phù
hợp với nhu cầu của mình. Điều này cho thấy sự quản lý, điều hành của nhà nước là
vô cùng quan trọng, nhà nước xây dựng thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động phát triển kinh tế của xã. Nhà nước quản lý kinh tế bằng cơ chế chính sách,
chiến lược, kế hoạch phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. Trong những năm qua,
Đảng ủy, UBND đã cùng các ban ngành đoàn thể và Ngân hàng Chính sách xã hội
huyện hỗ trợ các chương trình vay vốn, tạo điều kiện cho các chủ thể được tiếp cận
nguồn vốn, khoa học kĩ thuật, chính sách…để phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó các mặt hàng của địa phương cũng chịu sự chi phối, ảnh hưởng
bởi quy luật cạnh tranh. Từ khi có chợ, giao thương hàng hóa được thực hiện thuận
tiện hơn, nhưng từ đó sự cạnh tranh giữa các mặt hàng cũng tăng lên, hàng hóa của
bà con trong xã làm ra phải đưa lên đặt trên bàn cân so với những hàng hóa ở địa
phương xã khác du nhập tới như chất lượng sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng....cho đến
việc quảng bá sản phẩm và việc chăm sóc, hướng dẫn người tiêu dùng. Tất cả các
nội dung đó cần phải thực hiên tốt để làm sao sản phẩm có chất lượng tốt nhất mà
12
giá cả phải rẻ khi đưa ra thị trường, làm được như vậy thì hàng hóa địa phương làm
ra mới có chỗ đứng trên thị trường.
+ Phân phối trong nền kinh tế thị trường
Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã đã chỉ rõ, giai đoạn 2020 –
2025 phân phối nguồn lực để cho ngành nông nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ thương
mại là bao nhiêu, từ đó UBND đưa ra các kế hoạch cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh
vực để tổ chức thực hiện. Nhận thấy việc trồng rừng kết hợp với chăn nuôi là lợi thế
của xã nên nguồn lực để phân bổ cho ngành nơng lâm nghiệp xã nhà được Đảng ủy
và chính quyền ưu tiên hàng đầu. Nhà nước đã đề nghị với Ngân hàng chính sách xã
hội tăng hạn mức vốn vay cho nhân dân ở các chương trình cho vay như trồng rừng
Keo và chăn ni trâu bị sinh sản. Thời gian vay trước đây là 03 năm nay được
thay đổi cho vay đến 05 năm, số tiền vay từ 50 triệu nay tăng lên 100 triệu để bàn
con thực hiện phương án phát triển kinh tế một cách thuận lợi nhất.
Nguyên nhân đạt được kết quả trên
- Sự thích ứng nhanh nhạy của các chủ thể kinh doanh để bắt kịp với nhịp độ
phát triển của nền kinh tế thị trường.
- Sự định hướng đúng đắn của đảng, chính quyền trong điều tiết nền kinh tế
thị trường. Chính quyền đã đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch
vụ công, tăng cường hỗ trợ cho bà con nhân dân trong việc phát triển kinh tế hộ gia
đình, đã niêm yết công khai đầy đủ các thủ tục hành chính tại trụ sở UBND xã. Các
thủ tục hành chính, dịch vụ công đã đáp ứng được nhu cầu của chủ thể kinh tế.
- Xã Liên Hợp đã có nhiều chính sách điều chỉnh nền kinh tế nhằm đảm bảo
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hưởng xã hội chủ nghĩa như: Tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát xử lý vi phạm nhằm bảo vệ các quy luật kinh tế, đồng
thời sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị như Mặt trận Tổ quốc, các ngành đoàn
thể tổ chức tuyên truyền nhân dân thực hiện đúng phong trào “khu dân cư nói khơng
với sản xuất thực phẩm bẩn”. Hội Nông dân xã luôn tuyên truyền hội viên cam kết
thực hiện “3 khơng”, “3 có” trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- UBND xã thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cơ sở, nhằm chỉ ra
các tồn tại, hạn chế, yếu kém ở cơ sở, đồng thời nhằm phát hiện sớm những biểu
13
hiện quan liêu, tiêu cực, gây nhũng nhiễu, phiền hà cho nhân dân, doanh nghiệp và
kiên quyết xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm.
- Điều kiện tự nhiên, thiên nhiên thuận lợi, đất đai rộng lớn, khí hậu trong
lành, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
- Nhân dân đoàn kết, giúp nhau trong việc phát triển kinh tế xóa đói giảm
nghèo.
- Chính sách của nhà nước ngày càng phù hợp, tạo hành lang pháp lý thuận
lợi cho các hộ gia đình phát triển sản xuất.
2.2.2. Những hạn chế, bất cập
Là xã miền núi, vùng sâu nên trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém, lạc
hậu, các cơ chế, chính sách cho vùng đặc thù dân tộc thiểu số còn chưa được đẩy
mạnh, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đồng đều, nên hoạt động kinh tế chỉ có
kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, vì thế các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện tại trên địa bàn chưa có.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường phát triển chưa đầy đủ và đồng
bộ tại địa bàn xã. Tư tưởng trông chờ, ỷ lại của một bộ phận nhân dân còn chưa cải
thiện, nhiều hộ gia đình chưa nhận thức được việc phát triển kinh tế hộ gia đình mà
cịn trồng chờ vào cơ chế “ban phát” của nhà nước, trồng chờ vào các chế độ hỗ trợ
như hộ nghèo dẫn tới tình trạng rất nhiều hộ “nghèo bền vững”.
- Vẫn còn tồn tại nền kinh tế thị trường đi ngược lại lợi ích chung của xã hội,
khi khơng có sự điều tiết của nhà nước sẽ tạo cơ hội cho những chủ thể kinh doanh
vì lịng tham mà gây tổn hại cho xã hội: Ví dụ một vài chủ thể vì lợi nhuận mà cho
vật ni ăn tăng trọng, phun kích thích vào cây trồng để tạo năng suất…
- Một số chủ thể kinh tế tập hợp lại thành các tổ hợp tác sản xuất nhưng mục
đích hoạt động chưa rõ nét, chưa có sự định hướng đúng đắn, chưa tìm được đầu ra
cho sản phẩm dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
- Các chủ thể chạy theo lợi nhuận bất chấp quyền lợi của người tiêu dùng.
- Sự quản lý của nhà nước có lúc chưa kịp thời, đúng đắn, nhiều lỗ hỏng
trong quản lý.
14
- Do đặc thù là xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một bộ phận
nhân dân còn tiếp thu chậm các chủ trương chính sách của Đảng về phát triển kinh
tế cũng như việc tuân thủ pháp luật.
- Xã không tập trung nhiều thành phần kinh tế, chỉ có kinh tế hộ gia đình, hộ
kinh doanh cá thể.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI
XÃ LIÊN HỢP, HUYỆN QUỲ HỢP
3.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường, đồng bộ các
thể chế kinh tế thị trường tại địa bàn xã.
Đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức về việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải nhận thức đúng, đầy đủ về bản chất mục tiêu và
đặc trưng của nền kinh tế. Nâng cao nhận thức cho nhân dân về việc phát triển kinh
tế hộ gia đình, làm giàu chính đáng. Tiếp tục hồn thiện đồng bộ các thể chế kinh tế
thị trường, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình sở hữu tại xã, các doanh
nghiệp chế biến nông sản tại xã cũng như thành lập được hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp để phục vụ nhu cầu bà con nhân dân. Hoàn thiện thể chế nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của nhà nước và sự tăng cường vào cuộc của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội và của nhân dân về phát triển kinh
tế.
3.2. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng cơng nghệ vào
trong sản xuất kinh doanh, đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế
Điều chỉnh kế hoạc, bổ sung chiến lược phát triển kinh tế vùng miền núi phù
hợp với điều kiện cụ thể của xã, cơ cấu lại hạ tầng nông nghiệp, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế nông thôn theo
hướng nông nghiệp sinh thái, xây dựng nông thôn mới hiện đại, đậm bản sắc dân
tộc.
Thực hiện tốt việc phát triển kinh tế từ rừng. Chăm sóc và bảo vệ rừng tốt để
nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, bảo vệ các loại động vật hoang dã,
bảo vệ các môi trường, cảnh quan thiên nhiên, các khu rừng cịn ngun sinh trên
địa bàn xã. Hồn thiện thể chế quản lý rừng để phát huy lợi thế, tiềm năng từ rừng.
15
Nhà nước nên có cơ chế chính sách để thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng
nhà máy chế biến lâm sản tại địa bàn để nâng cao giá trị các sản phẩm từ rừng.
3.3. Phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường.
Tạo môi trường pháp lý để các yếu tố của thị trường xuất hiện và phát triển
tại địa bàn xã. Phát triển đây đủ và đồng bộ các yếu tố sản xuất, duy trì tốt phiên
chợ dân sinh miền núi để tạo mơi trường trao đổi hàng hóa, tạo quan hệ cung cầu
trong nhân dân.
Khuyến khích người dân tự chủ trong các quyết định về kinh tế, tự chịu trách
nhiệm về các hoạt động của mình phù hợp với cơ chế thị trường và quy định của
pháp luật, tự mình được hưởng thành quả, đồng thời gánh chịu rủi ro về kinh tế. Địa
phương không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chỉ quản lý theo quy
định của pháp luật. Tăng cường nâng cao nhận thức cho người dân cũng như cán bộ
về việc hội nhập kinh tế với các đơn vị xã bạn.
3.4. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của nhà
nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện đường
lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về kinh tế xã hội; tăng
cường công tác kiểm tra giám sát, sơ kết tổng kết thực hiện chủ trương, Nghị quyết
của Đảng đề ra.
Nâng cao bản lĩnh, năng lực đánh giá, dự báo trong hoạch định đường lối,
chính sách để phù hợp với thực tiễn tại địa phương trong tình hình mới.
Nhà nước tập trung tạo dựng thể chế, chủ trì giải quyết các vấn đề xã hội để
nhân dân có điều kiện tốt trong phát triển kinh tế. Quản lý tốt các chủ thể kinh tế
trong việc đi theo định hướng chung của xã nhà. Xây dựng chính quyền trong sạch,
vì nhân dân, phục vụ nhân dân, xây dựng kỷ cương, kỷ luật hành chính, công khai,
minh bạch trong thực hiện nhiệm vụ.
Tiếp tục phát huy tốt vai trò của người dân, của mặt trận tổ quốc và các đồn
thể chính trị xã hội trong tổ chức thực hiện phát triển kinh tế. Thực hiện tốt Quyết
định 217 ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát và
16
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội.
Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển kinh
tế.
KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế kết hợp của các quy luật thị trường - “bàn tay vơ hình” và sự điều tiết của nhà
nước - “bàn tay hữu hình” đây là một nền kinh tế mở, nhạy cảm bao gồm hệ thống
các quan hệ đan xen phức tạp. Nó sẽ là hiệu quả nếu chúng ta biết cách phát huy
nhữn mặt tích cực, sử dụng kinh tế thị trường như là một công nghệ thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nâng cao
vai trị quản lý vĩ mơ của nhà nước nhằm khắc phục những mặt hạn chế, tránh lý
tưởng hoá kinh tế thị trường - kinh tế thị trường là một phạm trù lịch sử, coi cơ chế
thị trường như là một công cụ hiệu quả cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước, từng bước đi lên hiện thực hoá XHCN trên đất nước ta.
17