Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.48 KB, 11 trang )

Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam
Kiều Hữu Thiện

Trường Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực Vietcombank

Phạm Mạnh Hùng

Ngơ Văn Đức

Học viện Ngân hàng

Vụ Thanh tốn, Ngân hàng Nhà nước

Ngày nhận: 05/08/2021
Ngày nhận bản sửa: 22/09/2021
Ngày duyệt đăng: 16/11/2021

Tóm tắt: Thuật ngữ Fintech xuất hiện lần đầu từ cuối những năm 90 của thế kỷ

trước, nhưng phải đến cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008, khi hàng
loạt ngân hàng truyền thống bị phá sản hoặc bị ảnh hưởng bất lợi, các công ty công
nghệ tài chính mới nhận được nhiều hơn sự tin tưởng từ cơng chúng. Từ cột mốc
này, làn sóng phát triển của các công ty Fintech đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên
phạm vi toàn cầu. Trong giai đoạn 2015-2020, thị trường Fintech của Việt Nam
đã có những bước phát triển vượt bậc, thuộc nhóm có tốc độ tăng trưởng cao nhất
Characteristics of Fintech market development in Vietnam

Abstract: The term “Fintech” first appeared in the late 90s of the last century, but it was not until
the Global Financial Crisis of 2008 when a lot of banks went bankrupt or were adversely affected,
that technology companies were given the trust of the people to manage their money. From this
milestone, the development wave of Fintech companies has taken place significantly on a global scale.


In the period from 2015 to 2020, Vietnam’s Fintech market has also made great progress and become
the group with the highest growth rate in Southeast Asia.
Through synthesizing secondary data and reviewing research reports that have been implemented by
regulators as well as consulting organizations, besides challenges and risks, the research points out key
characteristics regarding the development of Vietnam’s Fintech market such as: Fast development, led
by two main areas of payment and peer-to-peer lending, Fintech companies often have cooperation
with banks, however, operation scale is still relatively modest.
Keywords: Fintech market, characteristics, development, Vietnam
Kieu, Huu Thien
Email:
Vietcombank Human Resources Development and Training School
Pham, Manh Hung
Email:
Banking Academy of Vietnam

Ngo, Van Duc
Email:
Payment Department, State Bank of Vietnam

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X

1

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 234- Tháng 11. 2021


Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam


trong khu vực Đông Nam Á.
Thông qua tổng hợp số liệu thứ cấp và khảo lược các báo cáo nghiên cứu đã được
thực hiện của các cơ quản lý cũng như tổ chức tư vấn, bài viết nghiên cứu về sự
phát triển của thị trường Fintech Việt Nam, chỉ ra một số đặc điểm chính như: Tốc
độ phát triển nhanh, được dẫn dắt bởi hai lĩnh vực chủ đạo là thanh tốn và cho
vay ngang hàng, các cơng ty Fintech thường có sự hợp tác với ngân hàng tuy nhiên
quy mơ hoạt động còn tương đối khiêm tốn; đồng thời đánh giá một số vấn đề đặt
ra cùng sự phát triển này của thị trường này.
Từ khóa: Thị trường Fintech, đặc điểm, phát triển, Việt Nam

1. Giới thiệu
Trong giai đoạn đầu phát triển, Fintech,
một thuật ngữ được ghép từ hai thuật ngữ
riêng biệt là “Financial” và “Technology”,
thường được dùng để mô tả q trình ứng
dụng các cơng nghệ mới nhằm tự động hoá
việc cung ứng và sử dụng dịch vụ tài chính
(Dương Tấn Khoa, 2019). Khi đó các định
chế tài chính tiến hành ứng dụng công nghệ
thông tin, tạo ra các phần mềm chuyên
dụng để nâng cao hiệu quả của các giao
dịch tài chính. Hiện nay, có khoảng hơn
200 khái niệm khác nhau về cơng nghệ tài
chính Fintech, nhưng khái niệm được tổng
hợp và thống nhất phổ biến là: Fintech là
việc áp dụng các công nghệ đổi mới, sáng
tạo và hiện đại cho lĩnh vực tài chính, nhằm
mang tới cho khách hàng các giải pháp/
dịch vụ tài chính minh bạch, hiệu quả và
thuận tiện với chi phí thấp hơn so với các

dịch vụ tài chính truyền thống (Mackenzie,
2015, Partrick, 2017).
Trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2020, thế
giới chứng kiến sự bùng nổ hoạt động của
các công ty Fintech trên phạm vi toàn cầu.
Theo The Global Fintech Index 2020, tổng
giá trị hoạt động đầu tư vào lĩnh vực Fintech
toàn cầu đã tăng từ 60,2 tỷ USD năm 2017
lên đến 150,3 tỷ USD vào năm 2019, tương
ứng tăng 250% sau hai năm (Findexable,
2019). Trong nửa đầu năm 2021, cứ 5

2

đồng vốn đầu tư mạo hiểm thì có 1 đồng
vốn được rót vào thị trường Fintech (The
Economist, 2021). Trên thế giới hiện nay
có 10 trung tâm Fintech toàn cầu hàng đầu,
bao gồm: Mỹ, Anh, Singapore, Lithuania,
Thụy Sỹ, Hà Lan, Thụy Điển, Úc, Canada,
Estonia (Findexable, 2019). Các quốc gia
này có mơi trường cơng nghệ cao, nền kinh
tế mở và tự do, tỷ lệ người tiêu dùng sử
dụng dịch vụ cơng nghệ tài chính chiếm
tỷ trọng lớn trong dân số. Trong đó, Mỹ
là quốc gia mà các công ty Fintech và
các sản phẩm Fintech hoạt động sôi động
nhất trên thế giới. Mặc dù vào năm 2020,
Trung Quốc chỉ xếp hạng 21 các trung tâm
Fintech hàng đầu của thế giới, nhưng đây

lại là thị trường dẫn đầu trong sử dụng các
dịch vụ của Fintech với hơn 60% người dân
tiếp cận dịch vụ Fintech, gấp đôi tỷ lệ tại
Mỹ. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là thị
trường cho vay ngang hàng (P2P lending)
lớn nhất thế giới (Vũ Cẩm Nhung và Lại
Cao Mai Phương, 2021).
Việt Nam là quốc gia sở hữu nhiều điều kiện
thuận lợi và tiềm năng cho sự phát triển của
Fintech như dân số trẻ, khả năng tiếp cận và
sử dụng công nghệ mới nhanh: 89% người
dùng trong độ tuổi từ 20- 44 tuổi sử dụng
Internet, 58% dân số sử dụng Internet ít nhất
5 giờ/ngày (Nielsen, 2017). Nhận thức được
tầm quan trọng và tương lai phát triển của
lĩnh vực cơng nghệ tài chính ở Việt Nam,

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 234- Tháng 11. 2021


KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - NGÔ VĂN ĐỨC

từ năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN) đã cấp phép thành lập những
công ty Fintech đầu tiên. Số lượng các công
ty Fintech tham gia cung ứng dịch vụ trên
thị trường Việt Nam cũng đã tăng lên nhanh
chóng trong thời gian qua, với mức tăng gần
gấp 5 lần trong giai đoạn 2016- 2020, trải
rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau (Nghiêm

Thanh Sơn, 2020).
Sự phát triển của Fintech đã và đang mang
lại nhiều thay đổi tích cực đối với hệ thống
tài chính Việt Nam, ảnh hưởng mạnh mẽ
tới chiến lược phát triển và cách thức kinh
doanh của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài
chính truyền thống. Fintech làm thay đổi
kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ
tài chính truyền thống, thông qua Internet
banking, Mobile banking, QR code, ngân
hàng số, ví điện tử… Tiếp theo đó, sự phát
triển và ứng dụng các công nghệ mới như
Big data, blockchain, hệ thống định dạng cá
nhân sinh trắc học, định danh khách hàng
điện tử… giúp các công ty Fintech cải tiến
chất lượng dịch vụ, giảm chi phí hạ tầng
kỹ thuật, giảm mạng lưới chi nhánh, tăng
cường tính minh bạch, nhưng vẫn đảm bảo
an tồn và hiệu quả, gia tăng sự hài lịng
hơn cho khách hàng. Đặc biệt, Fintech tạo
ra các giải pháp tài chính cho khách hàng
ở vùng sâu, vùng xa hoặc những khách
hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các
dịch vụ tài chính do những rào cản về thủ
tục hoặc địa lý, hỗ trợ tốt hơn cho nhóm
khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và
nhỏ, siêu nhỏ. Tuy nhiên, bên cạnh những
lợi ích mang lại, sự phát triển của Fintech
cũng đặt ra các yêu cầu về xây dựng khuôn
khổ pháp lý, đảm bảo an tồn và bảo mật

thơng tin, chống gian lận và lừa đảo, bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng. Thông qua
việc tổng hợp số liệu thứ cấp và khảo lược
các báo cáo nghiên cứu đã được thực hiện
về thị trường Fintech Việt Nam của các cơ
quản lý cũng như tổ chức tư vấn, bài viết

này sẽ khái quát những đặc điểm chính của
sự phát triển của thị trường Fintech tại Việt
Nam và đánh giá một số vấn đề đặt ra cùng
sự phát triển này.
2. Đặc điểm phát triển thị trường
Fintech tại Việt Nam
Trong giai đoạn kể từ năm 2015 trở lại đây,
hệ thống tài chính Việt Nam đã chứng kiến
sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ của các
cơng ty Fintech với những đặc điểm chính
có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, thị trường Fintech phát triển
với tốc độ nhanh chóng
Tại Việt Nam, lĩnh vực Fintech đang có
sự phát triển mạnh mẽ và thu hút nhiều
nhà đầu tư. Số lượng các công ty Fintech
tại Việt Nam đã tăng gấp 5 lần từ khoảng
40 công ty cuối năm 2016 lên tới con số
khoảng 200 công ty ở thời điểm cuối năm
2020. Thị trường Fintech Việt Nam đạt 4,4
tỷ USD giá trị giao dịch vào năm 2017 và
tăng lên đạt gần 9 tỷ USD vào năm 2020
(Trần Trọng Triết, 2020).

Theo bảng xếp hạng các trung tâm Fintech
toàn cầu, Việt Nam xếp hạng 51 của thế
giới, đây cũng là vị trí đáng khích lệ khi so
sánh với các quốc gia có thị trường Fintech
còn non trẻ khác. Điểm xếp hạng Fintech
các thành phố trong khu vực châu Á- Thái
Bình Dương cho thấy TP. Hồ Chí Minh và
Hà Nội có vị trí khá tốt trong khu vực này
khi xếp hạng lần lượt là 27 và 30. Trong năm
2019, thị trường Fintech Việt Nam có sự
phát triển mạnh mẽ thơng qua khoản tài trợ
300 triệu USD dành cho công ty VNPay và
500 triệu USD cho vòng gọi vốn của MoMo.
Đây là 2 giao dịch lớn thứ ba và thứ nhất
trong khu vực ASEAN (Vũ Cẩm Nhung và
Lại Cao Mai Phương, 2021). Theo báo cáo
Fintech Singapore (2020), Việt Nam đứng
thứ hai trong khu vực ASEAN về thu hút

Số 234- Tháng 11. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

3


Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam

Bảng 1. Điểm xếp hạng một số
quốc gia về phát triển Fintech
năm 2019


Bảng 2. Điểm Fintech theo thành phố tại một số quốc gia
Châu Á Thái Bình Dương năm 2019
Thành phố (Quốc gia)

Điểm
xếp hạng
Fintech

Vị trí xếp hạng

Quốc gia

Điểm

Vị trí
xếp hạng

Mỹ

31.789

1

Singapore (Singapore)

19.176

1

3


Anh

23.262

2

Bangalore (Ấn Độ)

16.093

2

7

Singapore

19.176

3

Mumbai (Ấn Độ)

15.063

3

10

Hàn Quốc


11.543

18

Hong Kong (Trung Quốc)

14.778

4

11

Trung
Quốc

11.143

21

Sydney (Australia)

14.470

5

13

Nhật Bản


11.114

22

New Delhi (Ấn Độ)

13.958

6

16

Malaysia

9.692

36

Tokyo (Nhật Bản)

13.783

7

17

Thailand

9.415


39

Bắc Kinh (Trung Quốc)

12.762

8

23

Philippines 8.831

46

Seoul (Hàn Quốc)

11.914

9

28

Indonesia

8.658

47

Thượng Hải (Trung Quốc) 11.855


10

31

Đài Loan

8.321

50

Hồ Chí Minh (Việt Nam)

5.593

27

142

Việt Nam

8.118

51

Hà Nội (Việt Nam)

5.216

30


149

Châu ÁThái Bình Thế giới
Dương

Nguồn: Findexable (2019)

đầu tư trong lĩnh vực Fintech năm 2019.
Số vốn mà Việt Nam huy động được trong
lĩnh vực Fintech chiếm 36% tổng số vốn
ASEAN trong lĩnh vực này năm 2019 và
chỉ đứng sau Singapore (51%). Đây là sự
tăng trưởng ngoạn mục của Việt Nam trong
khu vực bởi vì con số này vào năm 2018
chỉ là 0,4%.
Thứ hai, thị trường Fintech được dẫn dắt
bởi hai lĩnh vực chính là thanh tốn và
cho vay ngang hàng
Hiện nay, thị trường Fintech ở Việt Nam
tập trung ở 2 dịch vụ bao gồm thanh toán,
cho vay ngang hàng (P2P lending). Các
dịch vụ khác như quản lý tài sản, quản lý
thanh khoản, quản lý đầu tư, bảo hiểm, dịch
vụ tư vấn tài chính tự động… vẫn đang
trong giai đoạn sơ khai.
Số liệu thống kê của Fintechnews trong

4

năm 2020 cho thấy trong tỷ trọng các dịch

vụ Fintech tại Việt Nam, hoạt động thanh
toán đang chiếm tới 33%, nhiều nhất trong
các loại hình dịch vụ. Sự quan tâm đầu
tư vào các cơng ty Fintech trong lĩnh vực
thanh tốn được thúc đẩy bởi các lợi thế
như quy mô dân số lớn, sự hỗ trợ từ Chính
phủ nhằm thúc đẩy một nền kinh tế không
dùng tiền mặt, cũng như tỷ lệ sử dụng
Internet và di động cao tại Việt Nam. Đây
cũng là quy luật chung của các thị trường
Fintech phát triển ở giai đoạn đầu (Vũ Cẩm
Nhung và Lại Cao Mai Phương, 2021). Xu
hướng này sẽ còn được tiếp tục khi theo dự
báo của NHNN, giá trị thanh toán qua thiết
bị di động tại Việt Nam dự kiến tăng gần
4 lần, từ 16 tỷ USD vào năm 2016 lên đến
70,9 tỷ USD vào năm 2025 (ISEV, 2020).
Bên cạnh lĩnh vực thanh toán, lĩnh vực P2P
lending cũng đã phát triển nhanh chóng tại

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 234- Tháng 11. 2021


KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - NGÔ VĂN ĐỨC

Nguồn: fintechnews.sg

Hình 1. Tỷ trọng các dịch vụ Fintech tại Việt Nam năm 2020

Bảng 3. Số lượng và giá trị giao dịch thanh toán qua Internet và Mobile Banking

Số lượng giao dịch năm So với
2020 (Triệu giao dịch ) năm 2019

Giá trị giao dịch năm 2020 So với
(Nghìn tỷ VND)
năm 2019

Kênh Internet 475,52

+13,33%

27.737

+24,78%

Kênh Mobile 1.183,34

+114,21%

12.613

+118,45%
Nguồn: Nghiêm Thanh Sơn, 2020

Việt Nam về số lượng các công ty cung ứng
dịch vụ. Theo khảo sát năm 2019 của NHNN,
Việt Nam có khoảng 40 cơng ty cung ứng
dịch vụ P2P lending, trong đó có nhiều cơng
ty khơng rõ cơ sở pháp lý có nguồn gốc từ
Trung Quốc, Indonesia, Malaysia... Như

vậy, từ 3 nền tảng P2P lending trong năm
2017, số lượng các công ty cho vay ngang
hàng tăng lên 40 và thậm chí là 100 nếu tính
cả số lượng các cơng ty chưa đăng ký. Sự
tăng trưởng về số lượng công ty P2P lending
thể hiện dấu hiệu của một lĩnh vực Fintech
tăng trưởng nóng tại Việt Nam. Tuy nhiên,
hiện có rất ít dữ liệu đáng tin cậy có sẵn để
đo lường quy mơ khoản vay, tổng dư nợ cho
vay hoặc tốc độ tăng trưởng của loại hình
cơng ty Fintech này.
Thứ ba, quy mơ của các cơng ty Fintech
cịn tương đối khiêm tốn
Qua báo cáo khảo sát của NHNN năm 2019
cho thấy phần lớn các công ty Fintech tại
Việt Nam là các công ty mới được thành

lập với quy mô nhỏ. Cụ thể, về giai đoạn
phát triển của các cơng ty Fintech tại Việt
Nam thì 44,2% các công ty Fintech đang
trong giai đoạn khởi động các hoạt động
kinh doanh, nhưng chưa đến thời điểm
điểm hòa vốn; 26,4% đang trong giai đoạn
ra mắt sản phẩm khả thi tối thiểu (MVP) và
có doanh thu bán hàng trong sáu tháng gần
nhất tính đến thời điểm khảo sát; 11,76%
đã đạt đến giai đoạn hòa vốn; 2,94% đang
trong giai đoạn chứng minh ý tưởng nhưng
chưa có doanh thu; 8,82% đã đạt được lợi
nhuận; 5,88% đang trong giai đoạn phát

triển mơ hình kinh doanh.
Thứ tư, hoạt động Fintech tập trung nhiều
trong lĩnh vực ngân hàng và có sự tương
tác chặt chẽ với ngân hàng truyền thống
Báo cáo khảo sát về hệ sinh thái Fintech
tại Việt Nam năm 2019 của NHNN cho
thấy, phần lớn các dịch vụ Fintech được
cung cấp tại Việt Nam là thuộc lĩnh vực
ngân hàng hoặc có bản chất của hoạt động

Số 234- Tháng 11. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

5


Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam

Nguồn: Khảo sát của NHNN, 2019

Hình 2. Đánh giá giai đoạn phát triển của các công ty Fintech
Việt Nam năm 2019

ngân hàng như thanh toán, cho vay, huy
động vốn, dịch vụ tài chính cá nhân, chấm
điểm tín dụng hay các giải pháp ứng dụng
vào hoạt động của các tổ chức tín dụng…
Trong khi đó, các dịch vụ Fintech được ứng
dụng trong lĩnh vực chứng khốn hay bảo
hiểm chiếm tỷ lệ ít hơn và chưa phổ biến.
Công nghệ sáng tạo không chỉ làm gia

tăng cạnh tranh mà còn đem lại các cơ hội
hợp tác giữa các ngân hàng và các đơn vị
khởi nghiệp Fintech. Xu thế nổi bật nhất
trên toàn cầu trong suốt thời gian qua chính
là mối quan hệ hợp tác giữa các tổ chức
tài chính truyền thống và doanh nghiệp
Fintech. Trong số các công ty Fintech trên
thị trường Việt Nam, một số ít phát triển
theo hướng độc lập, có thể trở thành đối
thủ cạnh tranh với các tổ chức tài chính
truyền thống (ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khốn...), nhưng đa phần là phát triển theo
hướng hợp tác, trở thành đối tác với các tổ
chức tài chính truyền thống, phát triển cộng
sinh, đơi bên cùng có lợi... Báo cáo khảo sát
của NHNN năm 2019 cho thấy, có khoảng
80- 90% các Fintech tại Việt Nam hợp tác
với ngân hàng trong quá trình hoạt động.
Hợp tác giữa các ngân hàng thương mại
(NHTM) và công ty Fintech tại Việt Nam
diễn ra khá đa dạng dưới các hình thức như:

6

hợp tác cung ứng dịch vụ; Fintech cung cấp
các giải pháp cho ngân hàng; ngân hàng tài
trợ nguồn vốn cho Fintech. Một số quan hệ
hợp tác điển hình có thể kể đến là NHTM
cổ phần Cơng thương Việt Nam và Công
ty Opportunity Network; NHTM cổ phần

Quân đội với Viettel; NHTM cổ phần Ngoại
thương Việt Nam với Công ty M_Service,
VPBank với công ty Fintech Timo… Các
công ty khởi nghiệp về Fintech có những
ưu thế về đổi mới, sáng tạo và khả năng
ứng dụng công nghệ một cách linh hoạt và
hiệu quả, đặc biệt là việc ứng dụng những
nền tảng công nghệ số tân tiến như công
nghệ chuỗi khối, điện tốn đám mây, trí
tuệ nhân tạo… Tuy nhiên để tồn tại và phát
triển, các công ty Fintech lại cần tiếp cận
nguồn vốn, quy mô mạng lưới, thông tin
khách hàng, cũng như sự hỗ trợ, tư vấn về
mặt pháp lý của các ngân hàng. Sự hợp tác
giữa ngân hàng và cơng ty Fintech sẽ mang
lại lợi ích cho cả hai bên và gia tăng trải
nghiệm mới cho khách hàng.
3. Những vấn đề đặt ra cùng với sự phát
triển của Fintech tại Việt Nam
Sự phát triển của Fintech đặt ra một số yêu
cầu đối với thị trường về khuôn khổ pháp

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 234- Tháng 11. 2021


KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - NGÔ VĂN ĐỨC

lý, rủi ro gian lận và lừa đảo, an ninh mạng
và bảo mật thông tin, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.

Thứ nhất, vấn đề khuôn khổ pháp lý
Fintech là lĩnh vực mới và phát triển nhanh
khiến nhiều quy định pháp lý được ban
hành từ lâu có thể khơng cịn phù hợp,
tương thích. Theo đó, Việt Nam hiện mới
chỉ có một số đề án mang tính vĩ mơ cho
khởi nghiệp nói chung như Đề án Hỗ trợ
hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
quốc gia đến 2025; hoặc các đề án rộng như
Đề án Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ
ngân hàng cho nền kinh tế, Đề án Phát triển
thanh tốn khơng dùng tiền mặt giai đoạn
2016- 2020, Đề án Hoàn thiện khung pháp
lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản
ảo, tiền điện tử, tiền ảo… Trong khi đó,
các quy định pháp luật cụ thể cho loại hình
kinh doanh của Fintech như định nghĩa mơ
hình hoạt động, địa vị pháp lý, các điều
kiện thành lập và hoạt động, bản chất sản
phẩm, dịch vụ; tiêu chuẩn của sản phẩm/
dịch vụ, hay các quy định về bảo vệ người
tiêu dùng sản phẩm tài chính, bảo vệ thơng
tin cá nhân… vẫn chưa được thiết lập chính
thức. Hoạt động Fintech thiếu vắng khung
khổ pháp lý điều chỉnh hoặc hướng dẫn
pháp lý rõ ràng hoặc hoạt động trong “vùng
xám” có thể gây ra các rủi ro tiềm ẩn đối với
nhiều người tham gia trên thị trường như các
tổ chức tài chính truyền thống, khách hàng
sử dụng dịch vụ và chính bản thân doanh

nghiệp cung cấp dịch vụ, giải pháp Fintech.
Hiện khuôn khổ pháp lý và quản lý của
Việt Nam về cơ bản mới chỉ đáp ứng được
một phần cho lĩnh vực Fintech trong thanh
toán và xác thực khách hàng điện tử, chưa
có khn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho
các lĩnh vực khác. Các lĩnh vực Fintech
đang phát triển phổ biến như P2P Lending,
Crowd-funding, chia sẻ dữ liệu cá nhân, công
nghệ Blockchain, Quản lý tài sản, ICOs…

hiện đều chưa có quy định quản lý tại các
văn bản pháp lý chính thức. Do các khn
khổ pháp lý cịn thiếu và chưa minh bạch,
một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng mơ hình
cho vay ngang hàng và huy động vốn cộng
đồng để thực hiện các hoạt động phi pháp
như “tín dụng đen”, lừa đảo... Hai hình thức
cho vay này chưa có quy định cụ thể trong
luật pháp Việt Nam nên vẫn tồn tại nhiều rủi
ro đối với những chủ thể tham gia. Những
quy định về tín dụng đã được thiết lập đều
khơng phù hợp với mơ hình hoạt động cho
vay ngang hàng, huy động vốn cộng đồng
và cả với các công ty, tổ chức cung cấp nền
tảng cho các dịch vụ này.
Thứ hai, rủi ro giả mạo và lừa đảo
Do được phát triển và ứng dụng trong môi
trường công nghệ, dịch vụ Fintech dễ dàng
bị các đối tượng tội phạm sử dụng công

nghệ cao để lừa đảo với thủ đoạn tinh vi.
Các rủi ro này sẽ gây tác động xấu đến hình
ảnh của cơ quan quản lý, định hướng thúc
đẩy đổi mới sáng tạo của Nhà nước, uy tín,
thương hiệu của tổ chức cung ứng dịch vụ
và cuộc sống của người tiêu dùng/khách
hàng.
Trong thời gian qua, các đối tượng tội
phạm đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của
khách hàng để thực hiện các hành vi đánh
cắp thông tin, tiền trong tài khoản, ví điện
tử của khách hàng. Một số tổ chức, cá nhân
lợi dụng các dịch vụ Fintech như dịch vụ
thanh toán để thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật như thực hiện thanh toán
cho các giao dịch đánh bạc, mua bán Forex
hay rửa tiền; hình thành các sàn giao dịch
cho vay ngang hàng cung cấp dịch vụ cho
vay cầm đồ, kinh doanh đa cấp biến tướng,
cho vay tín dụng đen, cho vay nặng lãi…
Trong hoạt động P2P Lending tại Việt Nam
trong gian đoạn từ năm 2017 trở lại đây,
một số cơng ty lấy danh nghĩa mơ hình P2P
Lending lợi dụng sự thiếu kiến thức, hiểu

Số 234- Tháng 11. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

7



Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam

biết của người dân để lừa bịp, gian dối,
quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận
cao, lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền
vốn của người dân bỏ tiền đầu tư mơ hình
cho vay này hoặc lừa dối người vay về lãi
suất thấp, điều kiện vay ưu đãi trong khi
tính và áp dụng mức lãi suất thực tế cao
hơn nhiều, tác động tiêu cực đến cuộc sống
của người dân. Bên cạnh đó, cịn có sự xuất
hiện của nhiều loại hình dịch vụ do các tổ
chức khơng phải là ngân hàng cung ứng, có
đặc điểm tương tự như các dịch vụ trung
gian thanh toán được NHNN cấp phép hiện
nay nhưng chưa có các quy định pháp lý
điều chỉnh, như thẻ cào điện thoại do các
công ty viễn thông phát hành đang được
sử dụng để thanh tốn cho các hàng hóa,
dịch vụ của bên thứ ba. Ngồi ra, thị trường
tài chính cịn có sự xuất hiện một số loại
ví nhưng khơng đúng bản chất dịch vụ và
không được NHNN cấp phép, nhưng vẫn
cung ứng trên thị trường; các loại ví này
khơng được liên kết với tài khoản thanh
toán của khách hàng tại ngân hàng, không
chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan
quản lý Nhà nước (Nghiêm Thanh Sơn,
2020). Các sản phẩm này có thể lợi dụng kẽ
hở của pháp luật để được sử dụng cho các

mục đích lừa đảo, gian lận thương mại, rửa
tiền hoặc tài trợ khủng bố. Ví dụ như đối
với hoạt động đánh bạc, cá cược bất hợp
pháp thơng qua các dạng ví điện tử kể trên,
người chơi có thể ẩn danh với các giao dịch
của mình, giúp né tránh các vấn đề pháp lý
hoặc điều tra của cơ quan quản lý so với
hình thức chuyển khoản ngân hàng.
Thứ ba, rủi ro bảo mật và rò rỉ dữ liệu
khách hàng
Rủi ro bảo mật và rò rỉ dữ liệu đến từ những
công ty Fintech chưa đáp ứng đủ tiêu chí về
an tồn bảo mật chung của ngành ngân hàng
do thiếu hụt các quy định tham gia vào thị
trường dẫn tới dữ liệu của khách hàng bị mất

8

hoặc lộ thông tin. Các thông tin liên quan
đến khách hàng mà các công ty Fintech
đang nắm giữ trong quá trình cung cấp dịch
vụ cho khách hàng là vô cùng đa dạng, có
vai trò và ảnh hưởng lớn tới khách hàng, tổ
chức. Các thông tin khách hàng là thông tin
mang tính riêng tư, cần được bảo vệ và là
trách nhiệm pháp lý của của các Fintech.
Tuy nhiên, việc sử dụng rộng rãi các giải
pháp công nghệ và kỹ thuật số của cơng ty
Fintech (đặc biệt là bên thứ 3) trong q
trình truyền tải dữ liệu khách hàng, nếu

khơng có giải pháp cơng nghệ hiện đại cũng
như quy trình kiểm sốt nội bộ chặt chẽ để
phịng ngừa các rủi ro cơng nghệ như tấn
công mạng, xâm nhập trái phép cơ sở dữ
liệu…, sẽ làm gia tăng khả năng ảnh hưởng
đến thị trường tài chính. Chẳng hạn, cơng
nghệ Robot tư vấn và các cơng ty Fintech
trong lĩnh vực cho vay phải dựa hồn toàn
vào một bên cung ứng dịch vụ dữ liệu thứ
ba, hay như đối với việc triển khai Open
API khi tổ chức tín dụng cho phép bên thứ
ba truy cập, khai thác, sử dụng thông tin
khách hàng trên hệ thống thông tin của tở
chức tín dụng. Việc này có thể dẫn đến rủi
ro về an tồn thơng tin khi dữ liệu được một
bên thứ ba nắm giữ và có thể khai thác.
Để bảo vệ quyền lợi của khách hàng, pháp
luật cần ghi nhận quyền của khách hàng
trong việc cho phép bên thứ ba khai thác,
sử dụng thông tin khách hàng, được bên thứ
ba bảo mật thông tin về khách hàng cũng
như quyền được khiếu nại, khởi kiện bên
thứ ba và yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại
khi bên thứ ba vi phạm nghĩa vụ bảo mật
thông tin và các nghĩa vụ khác liên quan tới
việc truy cập, khai thác và sử dụng thông
tin khách hàng.
Thứ tư, bảo vệ người tiêu dùng
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường
các cơng ty Fintech đã tạo ra nhiều thách

thức đối việc bảo vệ quyền lợi người tiêu

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 234- Tháng 11. 2021


KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - NGÔ VĂN ĐỨC

dùng trong lĩnh vực tài chính. Theo khảo
sát của Ngân hàng Thế giới (WB) tại 6
quốc gia châu Á bao gồm Indonesia, Hàn
Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia và
Việt Nam năm 2018, hoạt động bảo vệ
khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch
vụ tài chính ở Việt Nam được đánh giá là
tương đối sơ sài, kém an toàn hơn so với
các quốc gia cịn lại. Cụ thể, trong 6 tiêu
chí để đánh giá hoạt động bảo vệ người tiêu
dùng trong lĩnh vực tài chính, Việt Nam chỉ
đáp ứng được 2 yếu tố là có cơ quan quản
lý khiếu nại và có hỗ trợ khách hàng bằng
đường dây nóng. Các tiêu chí khác như phổ
cập các chương trình về rủi ro tiêu dùng, xử
lý trực tiếp khiếu nại, nhận báo cáo khiếu
nại từ các tổ chức tài chính và kiểm sốt
chất lượng phục vụ… đều đã được thiết lập
tại các quốc gia khác, nhưng chưa được áp
dụng tại Việt Nam (World Bank, 2018).
Người tiêu dùng có thể gặp phải với những
vấn đề kể trên khi sử dụng các dịch vụ tài
chính truyền thống, tuy nhiên vấn đề này

có thể trở nên nghiêm trọng hơn đối với
việc sử dụng các sản phẩm Fintech (World
Bank, 2018). Bên cạnh đó, người tiêu
dùng cũng phải đối mặt với những thông
tin không đầy đủ hoặc không rõ ràng về
giá cả khi mua các sản phẩm Fintech. Các
thông tin cần thiết để người tiêu dùng đưa
ra những lựa chọn tốt nhất bao gồm tính
năng sản phẩm, giao dịch có sẵn, điểm dịch
vụ hay giới hạn giao dịch cũng khơng được
cung cấp đầy đủ, từ đó khiến người dùng
lựa chọn những sản phẩm không phù hợp.

4. Kết luận
Sự phát triển của thị trường Fintech Việt
Nam trong giai đoạn 2015 - 2020 được gắn
liền với các đặc điểm nổi bật là: tốc độ phát
triển nhanh, được dẫn dắt bởi hai lĩnh vực
chủ đạo là thanh toán và cho vay ngang
hàng, các cơng ty Fintech thường có sự hợp
tác với ngân hàng tuy nhiên quy mơ hoạt
động cịn tương đối khiêm tốn. Bên cạnh
đó, thị trường Fintech ở Việt Nam hiện
mới phát triển ở giai đoạn đầu do hệ sinh
thái còn đang trong q trình hồn thiện,
đồng thời lĩnh vực này cũng phải đới mặt
với nhiều thách thức và rủi ro. Trong đó,
một số rủi ro nổi bật liên quan đến Fintech
hiện nay gồm: lỗ hổng pháp lý, rủi ro bảo
mật thông tin và gian lận cũng như vấn

đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Với
những thuận lợi về đặc điểm nhân khẩu học
của Việt Nam, Fintech được dự báo là lĩnh
vực sẽ tiếp tục thu hút các nhà đầu tư và có
bước phát triển đột phá trong tương lai gần.
Về cơ bản, phát triển thị trường Fintech
Việt Nam hiện nay đòi hỏi việc xây dựng
không gian pháp lý giúp các doanh nghiệp
Fintech yên tâm phát triển, cũng như có các
chính sách khuyến khích phù hợp. Các cơ
quan quản lý cần phối hợp chặt chẽ nhằm
theo dõi và hiểu được các thay đổi của thị
trường cũng như có các biện pháp giúp tạo
khơng gian sáng tạo nhưng vẫn cân bằng
được rủi ro và các yếu tố nguy cơ từ sự phát
triển của Fintech mang lại ■

Tài liệu tham khảo
Douglas W.A., Barberis, J, N., and Buckley, R, P., (2015). The Evolution of Fintech: A New Post-Crisis Paradigm?
University of Hong Kong Faculty of Law Research Paper No. 2015/047, UNSW Law Research Paper No. 201662, Dương Tấn Khoa (2019). Fintech trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tương lai
của Fintech và ngân hàng: Phát triển và đổi mới
Findexable (2019). The Global Fintech Index 2020 - The Global Fintech Index City Rankings Report. Version 1.0
-December.
Fintech Singapore (2020). A Review of Vietnam’s Fintech Industry in 2019. Available at />vietnam/a-review-of-vietnams-fintech-industry-in-2019/.

Số 234- Tháng 11. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

9



Đặc điểm phát triển thị trường Fintech tại Việt Nam

ISEV (2020). Fintech trong ASEAN: Từ khởi nghiệp đến lớn mạnh. Truy cập tại website />fintech-trong-asean-tu-khoi-nghiep-den-lon-manh.htm.
Mackenzie, A. (2015), “The Fintech Revolution”, London Business School Review, 28 September 2015, https://doi.
org/10.1111/2057-1615.12059.
Nghiêm Thanh Sơn và cộng sự, (2020), Hoàn thiện hệ sinh thái Công nghệ tài chính (Fintech) ở Việt Nam giai đoạn
2018-2025, Đề tài Nghiên cứu cấp Ngành Ngân hàng Nhà nước.
NHNN (2019). Hồn thiện chính sách quản lý Fintech: Đảm bảo lợi ích hợp pháp cho người dùng. Truy cập tại website
/>The Economist, (2021), Investment in fintech booms as upstarts go mainstream; Available at: nomist.
com/finance-and-economics/2021/07/15/investment-in-fintech-booms-as-upstarts-go-mainstream
Nielsen (2017), Vietnam Smartphone Insight Report; Available at: />sites/3/2019/04/Web_Nielsen_Smartphones20Insights_EN.pdf.
Patrick, S. (2017), “Taming the Beast: A Scientific Definition of Fintech”, Journal of Innovation Management, 4 (4):
32–54. ISSN 2183-0606.
PricewaterhouseCoopers (PWC) (2017). The Global fintech report. Available at />financial-services/assets/pwc-global-fintech-report-2017.pdf
Trần Trọng Triết ,(2020). Fintech và những tác động tới thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài
chính Tiền tệ.
Vũ Cẩm Nhung và Lại Cao Mai Phương, (2021), Fintech và xu hướng hợp tác với hệ thống ngân hàng thương mại
tại Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ. Truy cập tại: />World Bank Group. (2018). Financial Consumer Protection and New Forms of Data Processing Beyond Credit
Reporting. World Bank, Washington, DC. © World Bank.

10

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 234- Tháng 11. 2021


Tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
Trần Thị Xuân Anh - Dương Ngân Hà
Học viện Ngân hàng


Nguyễn Thị Thuý Quỳnh - Vũ Thúy Nga
Học viện Tài chính

Ngày nhận: 30/07/2021

Ngày nhận bản sửa: 19/08/2021

Ngày duyệt đăng: 21/09/2021

Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp 4.0 được xem là yếu tố xúc tác hỗ trợ doanh

nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực tài chính và quan trọng hơn là mở ra nhiều
kênh tiếp cận vốn khác nhau trên nền tảng công nghệ số như tài trợ chuỗi cung
ứng, cho vay ngang hàng hay huy động vốn cộng đồng. Bài nghiên cứu này làm rõ
nội dung về tiếp cận vốn doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh cách mạnh công
nghiệp 4.0 dưới hai góc độ là cung và cầu về vốn trên cơ sở khung lý luận và phân
Assess to finance for SMEs in Vietnam in the context of Industrial revolution 4.0

Abstract: Industrial revolution 4.0 is considered a catalyst to support small and medium enterprises
to improve their financial capacities and more importantly, to open up many different channels
of access to capital on a digital technology platform such as supply chain financing, peer-to-peer
lending or crowdfunding. This study clarifies the content of SME capital access in the context of
Industrial revolution 4.0 from two perspectives: capital supply and demand on the basis of theoretical
framework and practical analysis in Vietnam. The research results show that although technologybased non-traditional capital mobilization channels bring a lot of conveniences to SMEs as well as
financial institutions, in Vietnam, these mobilization channels have not yet developed and SMEs
themselves are not really ready to approach and strongly apply technology in their business activities.
Keywords: Industrial revolution 4.0, SMEs, Capital access
Anh Thi Xuan Tran
Email:
Banking Academy of Vietnam


Quynh Thi Thuy Nguyen
Email:
Academy of Finance
Ha Ngan Duong
Email:
Banking Academy of Vietnam

Nga Thuy Vu
Email:
Academy of Finance

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X

11

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 234- Tháng 11. 2021



×