Tóm tắt
Tại tiểu luận này, tác giả đã phân tích khái quát các nội
dung liên quan lĩnh vực tư pháp quốc tế. Theo đó, tác giả đã
phân tích các đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế bao
gồm các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi và quan hệ tố
tụng dân sự có yếu tố nước ngồi. Đồng thời, tác giả đã phân
tích phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của tư
pháp quốc tế. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích nguồn của tư
pháp quốc tế bao gồm các nguồn như pháp luật quốc gia, điều
ước quốc tế và tập quán quốc tế. Việc phân tích khái quát tư
pháp quốc tế là cơ sở để tác giả phân tích cụ thể về hiện tượng
xung đột pháp luật và lý giải nguyên nhân xuất hiện của hiện
tượng này trong tư pháp quốc tế. Tác giả đã phân tích nguyên
nhân phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật, phương pháp
giải quyết xung đột pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa
ra một số ý kiến đối với thực tế xung đột pháp luật tại Việt
Nam và đưa ra một số kiến nghị.
#xungdotphapluat #tuphapquocte #nguyennhan
1. DẪN NHẬP
Trong giai đoạn Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế
giới, thương mại đa biên là xu thế phát triển chung. Thơng qua
việc đi tắt đón đầu xu thế, Việt Nam đã có các chính sách tự do
hóa kinh doanh nhằm thu hút đầu tư nước ngoai để phát triển
kinh tế. Việc mở của tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
thực hiện các giao dịch với đối tác nước ngồi đã làm cho các
quan hệ dân sự có tinh chất đặc thù về chủ thể, đối tượng có
yếu tố nước ngoai dần trở nên phổ biến tại Việt Nam.
Trong bối cảnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoai
ngày càng trở nên phổ biến và cơ cấu giao dịch phức tạp như
hiện nay, việc xác định luật áp dụng trong các quan hệ cũng
trở nên khó khăn hơn. Đặc biệt đối với đặc thù của lĩnh vực tư
pháp quốc tế, luật áp dụng có thể là luật của quốc gia khác,
mà khơng phải là luật của quốc gia sở tại của một bên tham
gia giao dịch, Từ đó, dẫn đến những khó khăn trong quá trình
tìm hiểu và áp dụng luật cho giao dịch để có các ứng xử phù
hợp,
Hiện tượng một quan hệ dân sự được áp dụng bởi hai hệ
thống pháp luật khác nhau là hiện tượng xảy ra thường xuyên
trong tư pháp quốc tế. Việc xác định luật áp dụng có yếu tố
quan trọng vì luật áp dụng khác nhau sẽ dẫn đến các hậu quả
pháp lý khác nhau đối với giao dịch đó.
Từ các cơ sở trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu hiện
tượng này là cần thiết phù hợp với nhu cầu thực tế. Do đó, tại
tiểu luận này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về hiện tượng
xung đột pháp luật, lý do xuất hiện của hiện tượng xung đột
pháp luật và các khía cạnh thực tiễn của hiện tượng này.
2. KHÁI QUÁT VỀ TƯ PHÁP QUỐC TẾ
2.1. Đối tượng điều chỉnh
2.1.1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
Theo Điều 1 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định như sau:” Bộ
luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách
ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân
và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được
hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản
và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).”
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự, quan hệ dân
sự sẽ được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả các mối quan hệ
trong lĩnh vực khác như hơn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động hoặc các quan hệ khác được hình đựa
trên cơ sở trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản
và tự chịu trách nhiệm giữa cá nhân và pháp nhân.
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự
thuộc trong một các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 663
Bộ luật Dân sự, cụ thể:
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp
nhân nước ngồi;
Ví dụ 1: ơng A quốc tịch Mỹ kết hôn với bà B quốc tịch
Việt Nam thì đây được xem là quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi vì có một bên là cá nhân nước ngồi.
Các bên tham gia đều là cơng dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc
chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi;
Ví dụ 2: Bà D và Bà E quốc tịch Việt Nam, du lịch tại Thái
Lan, bà E đã lái xe vượt đèn đỏ gây ra hậu quả bà D bị tai
nạn và chịu những thiệt hại về tài sản.
Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước
ngồi.
Ví dụ 3: Cơng ty C và Công ty D đều là pháp nhân Việt
Nam, nhưng hai công ty này xác lập hợp đồng vận
chuyển hàng hóa tại cảng Singapore, thực hiện vận
chuyển thơng qua tàu biển quốc tế, và giao hàng tại
Brunei.
2.1.2 Quan hệ tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoai
Điều 1 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định: “ Bộ luật tố
tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau đây
gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây
gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục u cầu để Tịa
án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc
dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự
(sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án;……”. Như
vậy, quan hệ tố tụng dân sự cũng được hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm các quan hệ hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại và lao động.
Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 464 Bộ luật Tố tụng Dân
sự, cụ thể:
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ
quan, tổ chức nước ngồi;
Ví dụ 1: Bà T u cầu Tịa án cơng nhận thỏa thuận thuận
tình ly hơn giữa bà T với Ơng C là người có quốc tịch Mỹ.
Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm
dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngồi;
Ví dụ 2: Bà D và Bà E quốc tịch Việt Nam, du lịch tại Thái
Lan, bà E đã lái xe vượt đèn đỏ gây ra hậu quả bà D bị tai
nạn và chịu những thiệt hại về tài sản. Bà D yêu cầu tòa
án giải quyết đơn khởi kiện buộc bà E phải bồi thường cho
bà D.
Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước
ngồi.
Ví dụ 3: Cơng ty C và Công ty D đều là pháp nhân Việt
Nam, nhưng hai công ty này xác lập hợp đồng vận
chuyển hàng hóa tại cảng Singapore, thực hiện vận
chuyển thơng qua tàu biển quốc tế, và giao hàng tại cảng
Brunei. Công ty C khởi kiện Cơng ty D vì giao hang khơng
đúng hạn tại cảng Brunei.
2.2 Phạm vi điều chỉnh và Phương pháp điều chỉnh
Tư pháp quốc tế tập trung vào ba vấn đề cơ bản là (i) xác
định thảm quyền của tòa án các nước này đối với các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoai, (ii) lựa chọn pháp luật áp dụng
cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi và/hoặc các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngồi, (iii) vấn đề cơng nhận và cho
thi hành bản án, quyết định của tịa án nước ngồi 1.
Tư pháp quốc tế có có hai phương pháp điều chỉnh cơ bản
là phương pháp thực chất (sử dụng quy phạm thực chất) và
phương pháp xung đột (sử dụng quy phạm xung đột). Quy
phạm thực chất là quy phạm trực tiếp quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên, hình thức, biện pháp chế tài cụ thể. Quy
phạm xung đột là quy phạm gián tiếp, đưa ra nguyên tắc
chung trong việc xác định pháp luật áp dụng giải quyết một
quan hệ/một tình huống cụ thể2.
2.3. Nguồn của Tư pháp quốc tế
Pháp luật quốc gia: Đây là nguồn chính điều chỉnh các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, vì thực tế các quy định
này thường cụ thể và chặt chẽ hơn do với Điều ước quốc tế và
Tập quán quốc tế. Dựa trên nguyên tắc cơ bản tự do thỏa
thuận chọn pháp luật áp dụng trong tư pháp quốc tế. Từ đó,
các bên có thể chọn áp dụng pháp luật của một quốc gia bất
kỳ, có thể là quốc gia sở tại của một trong hai bên hoặc pháp
luật của một quốc gia khác để áp dụng cho giao dịch. Tại Việt
Nam, các quy định điều chỉnh các mối quan hệ này được phân
bổ tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau đối với từng lĩnh vực.
Điều ước quốc tế: Đây là nguồn quan trọng của Tư pháp
quốc tế. Tuy nhiên, số lượng các điều ước quốc tế đã có tăng về
số lượng, nhưng vẫn cịn nhiều hạn chế vì chưa giải quyết được
1 Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM, Hồ Chí Minh, 2016.
2 Phạm Thị Hồng Mỵ, Quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế thông qua vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngồi, xem tại (truy cập ngày
03/12/2021)
triệt để các vấn đề phát sinh đối với các mối quan hệ trong tư
pháp quốc tế. Vì các Điều ước quốc tế được hình thành dựa
trên sự thỏa thuận giữa các Quốc gia nên cũng sẽ khó để có
thể thống nhất các quan điểm giữa các hệ thống pháp luật
khác nhau để cùng giải quyết một vấn đề. Một số Điều ước
quốc tế có thể kể đến như Cơng ước Viên về hợp đồng mua bán
hang quốc tế, Công ước La-hay, và các Điều ước quốc tế khác.
Tập quán quốc tế: Đây là nguồn đặc trưng của Tư pháp
quốc. Một số tập quán quốc tế phổ biến được áp dụng hiện nay
có thể kể đến như Incoterm, UCP 600, URP. Các tập quán này
phổ biển rộng rãi trong thương mại quốc tế nói riêng và tư
pháp quốc tế nói chung. Ngồi các tập qn kể trên, sẽ có các
tập quán quốc tế khác tùy thuộc vào từng giao dịch, địa điểm
cụ thể.
3. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
3.1. Khái niệm xung đột pháp luật
Xuất phát từ đặc thù của các quan hệ trong tư pháp quốc
tế, mà trong đó cùng một vấn đề, giao dịch có thể được giải
thích và điều chỉnh bởi hai hoặc nhiều hệ thống khác nhau.
Việc các hệ thống pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh một
quan hệ trong tư pháp quốc tế được gọi là hiện tượng xung đột
pháp luật.
Như vậy, xung đột pháp luật là một thuật ngữ mang tính
ước lệ, được sử dụng nhằm chỉ hiện tượng pháp lý, khi một
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh, có thể làm
phát sinh tình trạng hai hay nhiều hệ thống pháp luật có liên
quan cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi đó. Trong tình huống này, cơ quan có
thẩm quyền của quốc gia cần phải xác định sẽ áp dụng hệ
thống pháp luật nào trong số các hệ thống pháp luật có liên
quan3.
Ví dụ 1: Tịa án Việt Nam được yêu cầu giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa pháp nhân A (Việt
Nam) và pháp nhân B (Pháp), các bên đang tranh chấp về hiệu
lực của điều khoản thỏa thuận giá trị bồi thường thiệt hại. Theo
Luật Thương mại Việt Nam thì giá trị bồi thường được tính trên
thiệt hại thực tế trực tiếp, theo pháp luật Pháp thì các bên có
thể thỏa thuận trước giá trị bồi thường thiệt hại tại Hợp đồng.
Trường hợp này, với cùng một vấn đề là giá trị bồi thường thiệt
hại của quan hệ mua bán đã được điều chỉnh bởi hai hệ thống
pháp luật khác nhau là Pháp và Việt Nam. Do đó, đối với ví dụ
trên đã xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật.
3.2. Nguyên nhân phát sinh hiện tượng xung đột pháp
luật
Thứ nhất, đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Trong tư pháp quốc tế, khi một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi phát sinh đã làm phát sinh tình trạng pháp luật của
các nước liên quan đến quan hệ đó đều có thể áp dụng, đã tạo
ra vấn đề chọn pháp luật của một nước cụ thể để áp dụng. Từ
đó, hiện tượng xung đột pháp luật đã phát sinh.
Việc một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được áp
dụng bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau có thể được giải
thích bởi ba lý do sau đây4:
i. Xuất phát từ nguyên tắc tơn trọng chủ quyền quốc gia và
ngun tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và
từ đó là sự bình đẳng giữa các hẹ thống pháp luật trong
3 Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM, Hồ Chí Minh, 2016.
4 Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia TP.HCM, Hồ Chí Minh, 2016.
việc điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến các quốc
gia đó;
ii. Xuất phát từ chủ quyền quốc gia và từ nghĩa vụ pháp lý
của quốc gia trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho cơng dân, tổ chức của nước minh, các quốc gia đều cố
gắng để áp dụng pháp luật nước mình trong các mối quan
hệ có cơng dân, tổ chức nước mình tham gia;
iii. Các quốc gia thường chỉ thừa nhận khả năng áp dụng
pháp luật nước ngoài trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngồi do đó thừa nhận hiện tượng xung đột
pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ này.
Ví dụ 1: Cơng ty X là pháp nhân Việt Nam ký hợp đồng gia
công với Công ty Y là pháp nhân Hàn Quốc. Các bên thỏa
thuận trong hợp đồng gia công pháp luật áp dụng sẽ là pháp
luật Việt Nam. Như vậy, xuất phát từ đặc thù của giao dịch dân
sự giữa các pháp nhân tại hai quốc gia khác nhau. Hệ thống
pháp luật quốc gia tôn trọng và công nhận quyền tự do thỏa
thuận chọn luật áp dụng của các bên. Do đó, thỏa thuận chọn
luật Việt Nam áp dụng sẽ được công nhận với điều kiện việc
chọn luật này không nhằm lẫn tránh tránh pháp luật, hoặc trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, hệ thống pháp luật các quốc gia có sự quy định
khác nhau về nội dung khi điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi.
Bối cảnh kinh tế-xã hội của các quốc gia là khác nhau. Vì
vậy quan điểm giải quyết các vấn đề phát sinh từ các quan hệ
xã hội nói chung và quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói
riêng tại mỗi quốc gia cũng sẽ khác nhau. Trong một số trường
hợp, quy định của một quốc gia có thể sẽ có những nét tương
đồng với pháp luật của một quốc gia khác, tuy nhiên hai hệ
thống pháp luật này không thể giống nhau hoàn toàn.
Hai nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật có sự
liên kết với nhau. Vì thiếu đi một trong hai ngun nhân đó thì
hiện tượng xung đột pháp luật sẽ khơng xuất hiện. Vì nếu
khơng có sự xuất hiện của các mối quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi sẽ khơng đặt ra vấn đề pháp luật nước nào sẽ được
áp dụng. Đồng thời, nếu pháp luật của các quốc gia có quy
định giống nhau thì khi áp dụng vào quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi sẽ có hậu quả pháp lý tương tự nhau từ đó khơng
làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật.
Ví dụ 2: Đối với mối quan hệ vợ chồng trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đinh. Pháp luật Hoa Kỳ công nhận quan hệ hôn
nhân giữa những người đồng giới. Mặt khác, pháp luật Việt
Nam sẽ không công nhận mối quan hệ hôn nhân giữa người
đồng giới.
3.3 Giải quyết xung đột pháp luật
Giải quyết xung đột pháp luật là lựa chọn pháp luật áp
dụng để giải quyết vấn đề có xung đột pháp luật. Theo đó, cơ
quan có thẩm quyền dựa vào các quy định của Tư pháp quốc
tế để chọn luật áp dụng, giải quyết xung đột pháp luật. Xung
đột pháp luật thường được giải quyết dựa trên hai phương
pháp cơ bản gồm phương pháp xung đột và phương pháp thực
chất.
Phuương pháp thực chất là phương pháp cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các quy phạm thực chất (luật nội dung) trực
tiếp điều chỉnh các hệ có xung đột pháp luật. Quy phạm thực
chất là các quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết quyền và nghĩa,
các biện pháp xử lý, chế tài, đối với mối quan hệ phát sinh
xung đột pháp luật.
Ví dụ: Trường hợp cơng dân Việt Nam kết hơn với cơng
dân nước ngồi thì khi đăng ký kết hôn tại Việt Nam phải đáp
ứng điều kiện tại Điều 8 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014.
Điều 8. Điều kiện kết hôn
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau
đây: a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết
hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của
Luật này.
Phương pháp xung đột là phương pháp cơ quan có thẩm
quyền áp dụng các quy phạm xung đột nhằm lựa chọn hệ
thống pháp luật phù hợp để điều chỉnh các quan hệ có xung
đột pháp luật. Quy phạm xung đột là quy phạm dung để xác
định hệ thống luật nào sẽ được áp dụng
Ví dụ: Khi cơng dân Việt Nam có nhu cầu ly hơn với cơng
dân nước ngồi thì áp dụng Điều 127 Luật Hơn nhân và Gia
đình để xác định luật áp dụng như sau.
Điều 127. Ly hơn có yếu tố nước ngồi:
“1. Việc ly hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi,
giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam được
giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo quy
định của Luật này.
2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường
trú ở Việt Nam vào thời điểm u cầu ly hơn thì việc ly hơn
được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung
của vợ chồng; nếu họ khơng có nơi thường trú chung thì giải
quyết theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly
hơn tn theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.
4. XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRÊN THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM
4.1. Về phía các chủ thể trong quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi
Thực tế, tại Việt Nam hiện nay, khi giải quyết các mối
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoai, đều chọn luật Việt Nam
là luật áp dụng. Việc lựa chọn luật Việt Nam áp dụng là có lợi
hơn cho phía cá nhân, pháp nhân của Việt Nam vì các lý do sau
đây:
Thứ nhất, các cá nhân, pháp nhân Việt Nam sẽ am hiểu
pháp luật Việt Nam hơn so với các đối tác là người nước ngoài.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam được xây dựng trên bối cảnh
tình hình kinh tế xã hội tại Việt Nam, Do đó, việc áp dụng các
quy định pháp luật Việt Nam trong trường hợp này sẽ có lợi hơn
cho cá nhân và pháp nhân Việt Nam.
Thứ ba, các chủ thể nêu trên sẽ tiết kiệm được chi phí để
thuê các tổ chức luật sư chuyên nghiệp tại nước ngoài để thay
họ giải quyết các vấn đề phát sinh nếu áp dụng pháp luật nước
ngoài.
Một trường hợp thực tế như sau: hợp đồng mua bán hang
hóa giữa bên mua là pháp nhân Việt Nam và bên bán là pháp
nhân Hàn Quốc. Các bên thỏa thuận luật Việt Nam sẽ được áp
dụng. Hợp đồng không quy định địa điểm giao hang. Do đó,
việc chọn luật áp dụng là luật Việt Nam đã có lợi hơn so cho
bên mua. Vì theo Luật Thương mại Việt Nam, nếu khơng có
thỏa thuận thì địa điểm giao hang sẽ là địa điểm của bên mua.
4.2. Về phía Tịa án
Hiện nay, các bản án, quyết định của Tịa án được cơng
khai cũng khơng có bản án, quyết định nào giải quyết quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh xung đột pháp luật mà
được áp dụng pháp luật nước ngồi tại Việt Nam 5. Thực tế này
có được lý giải dựa trên ba yếu tố.
Thứ nhất, các quy phạm thực chất tại trong hệ thống
pháp luật Việt Nam được quy định và phân bổ ở nhiều văn bản
5Xem (truy cập ngày 3/12/2021)
pháp luật khác nhau. Các quy phạm thực chất này đã đáp ứng
được nhu cầu giải quyết trực tiếp các vấn đề phát sinh trong
những mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh hiện
tượng xung đột pháp luật.
Thứ hai, các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật
Việt Nam dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, khi giải quyết tranh chấp tại tòa án Việt Nam,
quan điểm của Tòa thường là Việt Nam là nơi có mối quan hệ
gắn bó mật thiệt với mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
được giải quyết do đó luật Việt Nam sẽ được áp dụng.
4.3 Về phía Trọng tài thương mại
Thực tế các giao dịch thương mại có cấu trúc phức tạp.
Do đó, việc xác định luật áp dụng trong các trường hợp này
cũng rất khó khan trên thực tế. Đặc biệt, hiện nay, các quy
định của Luật Thương mại Việt Nam được ban hành từ năm
2005 dù đã tạo ra hành pháp lý cho các thương nhân Việt Nam,
nhưng vẫn tồn tại các mối quan hệ mới phát sinh mà Luật
Thương mại Việt Nam chưa có quy định điều chỉnh kịp thời.
Vì vậy, thực tế các bên trong giao dịch cũng có thể thỏa
thuận lựa chọn áp dụng pháp luật cho giao dịch là pháp luật
của một quốc gia thứ ba nhằm tạo sự công bằng cho các bên.
Việc thỏa thuận chọn luật áp dụng được pháp luật Việt Nam
công nhận.
Hiện nay, tại các trung tâm trọng tài, việc áp dụng pháp
luật nước ngồi để giải quyết tranh chấp có diễn ra trên thực tế
dựa trên thỏa thuận của các bên hoặc dựa trên quyết định của
hội đồng trọng tài.
5. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
5.1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống quy phạm thực chất
Việc có một hệ thống quy phạm thực chất phổ quát và
giải quyết triệt để được các vấn đề phát sinh khi xảy ra xung
đột pháp luật sẽ giúp cho các chủ thể của quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoai có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề mà
không phát sinh xung đột tranh chấp về việc áp dụng pháp
luật nước nào.
Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống quy phạm thực chất
cũng tạo điều kiện cho Tòa án, Trung tâm trọng tài trong việc
giải quyết các vấn đề phát sinh khi phát sinh xung đột phát
luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi được giải quyết
tại các cơ quan này. Việc áp dụng quy phạm thực chất sẽ giải
quyết trực tiếp được vấn đề.
Tóm lại, việc hoàn thiện hệ thống quy phạm thực chất tại
Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia
vào quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cũng như các các cơ
quan giải quyết tranh chấp khi có hiện tượng xung đột pháp
luật phát sinh.
5.2. Tham gia các Điều ước quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc tham gia các Điều
ước quốc tế để áp dụng trực tiếp cho các mối quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoai là cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Do đó, Việt Nam cần đánh giá mặt tích cực và hạn chế
của việc tham gia các Điều ước quốc tế liên quan để quyết
định tham gia nhằm hội nhập với hệ thống pháp luật quốc tế
cũng như giúp cho các thương nhân Việt Nam có được sự thuận
lợi cho các bên, đồng thời cũng sẽ cân bằng được lợi ích giữa
thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài khi áp dụng
những Điều ước tế mà Quốc gia của các bên đều là thành viên.
Thực tế, Việt Nam đã tham gia nhiều Đước uốc quốc tế
trong lĩnh vực tư pháp quốc tế. Có thể kể đến như Công ước
Viên về Hợp đồng mua bán hang hóa quốc tế (CISG). Việc tham
gia CISG vào năm 2017, đã tạo tiền đề cho các thương nhân
Việt Nam có thể thỏa thuận lựa chọn áp dụng cơng ước này
cho các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
5.3. Tăng cường phổ biến pháp luật
Hệ thống pháp luật của Việt Nam rất phức tạp. Do đó,
việc phổ biến áp dụng pháp luật cho các cá nhân, pháp nhân
thông qua tài liệu, hội thảo hoặc các phương tiện truyền thông
là cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Việc phổ biến pháp luật đến các đối tượng này sẽ giúp
những người này có được các kiến thức cơ bản đối với các quan
hệ dân sự mà theo đó họ là một bên. Nếu họ có thể biết được
quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ quan hệ thì họ sẽ có
thể tự bảo vệ được quyền và lợi ích của mình hoặc u cầu cơ
quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tóm lại, việc phổ biến pháp luật cho các đối tượng trong
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là cần thiết vì họ sẽ hiểu
được các quyền và nghĩa vụ của mình khi chọn luật áp dụng
nếu xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Thương mại 2005
2. Luật Hơn nhân và Gia đình 2014
3. Bộ luật Dân sự 2015
4. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
5. Bành Quốc Tuấn, Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận
chọn luật áp dụng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi,
xem tại />
(truy
cập
ngày
3/12/2021)
6. Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, NXB. Đại học Quốc gia
TP.HCM, Hồ Chí Minh, 2016
7. Phạm Thị Hồng Mỵ, Quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế
thông qua vụ việc dân sự có yếu tố nước ngồi, xem tại
(truy cập ngày 03/12/2021)
8. />