TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
VÀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
GVHD: ........................................
SVTH: ........................................
Mã SV: ........................................
MÃ LỚP HỌC PHẦN: ........................................
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 9 năm 2021
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
......................................................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
MỤC LỤC
4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU - ĐẶT VẤN ĐỀ. - MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế
giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà ln được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu
phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã
hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại
đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học… Từ rất
sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi
lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con
người. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn
trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh khơng biết khi nào dừng.
Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu
khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Trong thế giới quan triết học của Hồ Chí Minh, vấn đề con người chiếm vị trí
hết sức quan trọng. Phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn đề con người ở Hồ Chí
Minh khơng phải là chung chung, trừu tượng, phi lịch sử mà được đề cập đến một cách
cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam. Con người là sự thống nhất giữa hai mặt sinh vật và
xã hội, đây là vốn quý nhất, nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát
triển; quyết định đối với mọi hoạt động sáng tạo ra đời sống xã hội, đối với văn minh,
tiến bộ và phát triển lịch sử. Đây là cơ sở khoa học để Đảng ta vạch ra đường lối, chủ
trương đúng đắn trong việc xây dựng con người mới và phát huy nhân tố con người
trong điều kiện hiện nay.
Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Mác_ Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Con người, Đảng ta trong thời kỳ đổi mới đã hết sức coi trọng vấn đề con
người và chiến lược phát triển Con người, Đặt Con người ở trung tâm của mọi sự phát
triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một luận điểm có tính nền tảng của chiến lược
con người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.”
5
Đứng trước xu thế tồn cầu hóa. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vai trò con
người trong sự nghiệp đổi mới đất nước em đã xây dựng nên đề tài: “Triết học về con
người và vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”.
PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
1.1. Quan điểm của triết học Mac –Lênin về con người
Con người là một thực thể sinh vật- xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu
của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào triết học Mac khẳng
định con người vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là
thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và xã hội.
Là thực thể sinh vật, vì con người dù phát triển đến đâu cũng là một động vật.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra,
cũng đã quyết định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc
tính vốn có của con vật”. Cũng như động vật khác, con người là một bộ phận của tự
nhiên, nhưng con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt
động lao động sản xuất. Theo Mac, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa những con người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội.
Như vậy con người là một thực thể sinh vật- xã hội. Thực thể sinh vật và thực thể
con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là tiền đề mà cái trên cái
tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
Con người là chủ thể của lịch sử.
Lịch sử theo nghĩa rộng là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả
những bảo tồn và biến đổi của quá trình ấy. con người có lịch sử khác với lịch sử của
động vật ở chỗ chúng không làm ra lịch sử. Hoạt động của con người làm ra lịch sử
nên để có lịch sử trước hết phải có con người. Hành động lịch sử đầu tiên là hành động
lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật. Con người làm ra lịch sử song
không phải lảm theo ý muốn tùy tiện mà là trong những điều kiện sẵn có do quá khứ
để lại. Con người một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong hoàn cảnh
6
mới, một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để biến đổi hồn cảnh cũ. Như vậy,
trong q trình phát triển con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể lịch
sử.
Trong khi khẳng định: “con người là thực thể sinh vật –xã hội” và là chủ thể của
lịch sử, C.Mac đồng thời khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hịa những quan hệ xã hội”.
Bản chất con người theo quan điểm của Mác được hình thành và thể hiện ở
những con người hiện thực. Là những con người cụ thể sống trong những điều kiện cụ
thể, những mặt khác nhau tạo nên bản chất con người. ngoài ra tất cả các mối quan hệ
xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Các quan hệ này có vị trí vai
trị khác nhau nhưng khơng tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau.
1.2. Vai trò của chủ nghĩa Mác trong đời sống xã hội hiện nay.
Đại hội Đảng lần VI đã đề ra đường lối đổi mới tồn diện trong đó có đổi mới tư
duy lý luận. Từ Đại hội Đảng VI đến nay, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất
định trong việc đổi mới tư duy lý luận:
Trong nhận thức CNXH có nhiều điểm sáng tỏ hơn, thấy được nhiều cái sai
trong nhận thức cũ về CNXH.
Bước đầu hình thành các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở
nước ta.
Tư duy kinh tế có sự đổi mới quan trọng.
Thời gian qua các nhà triết học đã đi sâu phân tích bản chất và nguyên nhân của
bệnh chủ quan duy ý chí ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây làm sáng tỏ cơ
sở triết học của bài học mà Đại hội VI đã rút ra: “ Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Vấn đề biện chứng của thời
kỳ quá độ cũng đã được quan tâm, nghiên cứu nhất là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội ta. Qua đó làm sáng tỏ lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta, đóng góp vào xây dựng cương lĩnh mới của Đảng.
Trước sự phát triển mới của cuộc cách mạng KHKT & CN trên thế giới, giới triết
học đã nghiên cứu bản chất và hiệu quả xã hội có tính tồn cầu của cuộc cách mạng
KH & CN, biện chứng của thời đại, từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cho
7
quá trình đổi mới xã hội ta. Đồng thời khi phê phán những sai lầm của bệnh giáo điều
và bệnh kinh nghiệm trong cán bộ thì những nguyên tắc, phương pháp luận của tư duy
mới – tư duy biện chứng duy vật, vai trò của lý luận nhất là lý luận chủ nghĩa Mac –
Lênin và đổi mới công tác lý luận cũng được chú ý trong nghiên cứu và giảng dạy triết
học.
Như vậy là thực tiễn đổi mới ở nước ta những năm qua đã khẳng định vai trò của
triết học Mác – Lênin, khẳng định ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của nó.
Chủ nghĩa Mác – Lênin trong đó có triết học của nó cho đến nay vẫn là học thuyết tiến
bộ nhất. Vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho nhận thức và hành động cách
mạng của chúng ta.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ XÂY DỰNG PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM.
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
Sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tất yếu lịch sử. Nó là sản phẩm
của sự kết hợp giữa những điều kiện lịch sử-xã hội với phẩm chất, năng lực cá nhân
mà những cơ sở cơ bản để hình thành đó là:
Nhu cầu khách quan của lịch sử - xã hội:
-
Cuối TK XIX, đầu XX CNTB -> CN đế quốc: xuất hiện mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
-
Ở trong nước, từ giữa thế kỷ XIX, VN bị thực dân Pháp xâm lược. VN trở
thành nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách thống trị của Thực dân Pháp. Các cuộc
khánh chiến giải phóng dân tộc đều thất bại.
Văn hóa và truyền thống của người Việt Nam:
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống u nước, ý chí độc lập, tự cường; đồn kết, nhân
ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan u đời, cần cù, thơng minh, sáng tạo...
Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản.
Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc tới đến
quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người thanh niên Nguyễn Tất Thành.
8
Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam là tiền đề tư
tưởng quan trọng của Nguyễn Tất thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Tinh hoa văn hố của nhân loại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln tìm tịi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán quan điểm của các
trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh
thần độc lập, tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận
dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các giá trị tư tưởng nhân loại trở thành
tư tưởng của mình. Đặc biệt, Người đã kế thừa, phát triển các giá trị tích cực của Nho
giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa Tam dân và văn hóa tư sản...
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học
thuyết này. Từ đó, trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã có
nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin.
Trong ba nguồn gốc trên, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và là động lực
thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp
cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn.
Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
9
Tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu có và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư
tưởng xã hội chủ nghĩa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng phong
phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con người. Tất cả
đều tốt lên tình u vơ hạn, sự tơn trọng, thái độ bao dung và niềm tin tuyệt đối vào
con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng
ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là công việc
đối với con người”, tức là phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những
việc mà Đảng, Nhà nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
được vận dụng một cách sáng tạo vao thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH
ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh sâu sắc, gần gũi gắn với điều kiện cụ thể của nước
ta đó là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết XH và giải phóng con người, trong đó
con người được đặt lên hàng đầu là vấn đề trung tâm xuyên suốt nội dung tư tưởng của
người.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân tộc với giai cấp, dân
tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Đây là đặc trưng cơ bản, xuyên suốt và nhất quán mang tính nhân văn trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn giải phóng con người thì trước hết phải giải phóng
dân tộc. Bởi vì, giải phóng con người khơng thể tách rời giải phóng dân tộc, khơng thể
có con người tự do trong đất nước bị nơ lệ, lầm than. Vì vậy, tháng 7 năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc khi bắt gặp “Những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin” đăng trên báo L Humanite. Người đã nhận thấy đây là con đường duy
nhất của cách mạng Việt Nam. Người viết “Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang đứng trước quần chúng đồng bào:
“Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta”.
10
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có độc lập dân tộc thực sự mới có nền hồ bình chân
chính, mới có độc lập dân tộc hồn tồn. Khơng thể có độc lập dân tộc thực sự khi đất
nước vẫn còn sự lệ thuộc. Người khẳng định, toàn thể nhân dân Việt Nam kiên quyết
đấu tranh giành cho được độc lập, khi giành được độc lập dân tộc thì cả nước phải tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì đất nước độc lập mà người dân không được hưởng tự do,
hạnh phúc, thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người dân chỉ biết rõ giá trị của
độc lập, tự do khi mà họ được ăn no, mặc ấm. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường
duy nhất có thể giải phóng triệt để người dân khỏi thân phận nơ lệ, bất cơng xã hội,
nghèo đói, Người đã nhiều lần khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế
giới khỏi ách nơ lệ”
Để thực sự giải phóng được nhân dân lao động ở nước ta, theo Hồ Chí Minh:
“Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch
sử dân tộc ta. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương
nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc. Chúng ta lại phải
tiến hành những nhiệm vụ đó trong điều kiện đặc biệt của nước ta, nghĩa là trên cơ sở
của một xã hội vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến, hết sức lạc hậu”.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản
chất nhân văn.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng là tư tưởng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng của dân, do
dân và vì dân
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ
hàng, bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”. Con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con
người xã hội. Mỗi người là một cá nhân, một chỉnh thể đơn nhất mang những phẩm
chất riêng, vừa mang những giá trị, đặc điểm chung của cộng đồng xã hội, đó là mối
quan hệ biện chứng thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
Để lý giải mối quan hệ cái chung - cái riêng, Bác Hồ đã nói: “Mỗi người đều có
hồn cảnh riêng, lợi ích riêng, nếu cái riêng khơng xâm hại lợi ích tập thể thì khơng
11
phải là xấu, cần được bảo vệ. Chúng ta chống chủ nghĩa cá nhân nhưng khơng giày
xéo lên lợi ích cá nhân”. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội
không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại ln tơn trọng
lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá
nhân. Người ln sâu sát, tìm hiểu và quan tâm đến mỗi con người cụ thể, thấu hiểu
lợi ích của mỗi giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp khác nhau, để phát
huy được thế mạnh, năng lực, đồng thời khắc phục những hạn chế của các giai tầng
này.
Bác xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của xã hội,
tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, bởi lẽ Người đã thấy được sức mạnh vĩ đại của nhân
dân. Nhiều lần Người khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
“phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Sau khi giành được độc lập, Người khẳng
định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Trong bản Di chúc, Người cịn căn dặn thêm“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt
để phát triển kinh tế và văn hố, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân”. Điều này thể hiện tính nhân văn, vì con người, do con người và cho con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi suy nghĩ, mỗi hành động của Bác đều bắt nguồn từ
lòng yêu thương con người và đấu tranh cho hạnh phúc của con người. Như vậy, từ
quan niệm về con người, đến con người vừa là mục tiêu giải phóng, vừa là động lực
của cách mạng, chúng ta thấy được tấm lòng bao dung, độ lượng, niềm tin, tình u
thương con người ở Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao mới trở thành tư tưởng chỉ
đạo Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào năm 1986 đã
mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến xây dựng phát
triển kinh tế- xã hội, xây dựng con người mới được thực hiện. Văn kiện Đại hội Đảng
12
toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố và
hội nhập quốc tế”. Chính vì vậy, chúng ta đã huy động được mọi nguồn lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nên đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Phát huy tối
đa nhân tố con người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục
tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết
chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.
Như chúng ta đã biết, năm 2020 và 2021, đại dịch Covid-19 đã và đang hoành
hành trên 200 nước và vùng lãnh thổ. Khi đại dịch đi qua, dù ở nước phát triển hay
đang phát triển, dù nước giàu hay nghèo, dù thể chế chính trị cộng hồ hay dân chủ
đều phải có những chính sách và những biện pháp chống dịch phù hợp với điều kiện.
Thực tế đã chứng minh, dù là quốc gia phát triển, với các thiết bị y tế hiện đại thì cũng
khơng ngăn chặn được số người nhiễm lên đến hàng chục triệu người và số người chết
cũng không dưới hàng trăm ngàn người. Trong khủng hoảng vì đại dịch Covid-19 này,
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách và giải pháp kịp thời nhằm đảm bảo
quyền được sống của mỗi người dân. Thật cảm động khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
đã ra lời kêu gọi toàn dân đoàn kết chống dịch, Thủ tướng đã khẳng định quyết tâm
“chống dịch như chống giặc” với mục tiêu “khơng có ai bị bỏ lại phía sau”. Chính sự
quyết tâm và những giải pháp linh hoạt phù hợp nên đất nước ta đã đạt được mục tiêu
kép vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Điều này đã thể hiện tính
nhân văn và bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa - một chế độ xã hội tất cả vì
con người, vì quyền được sống - quyền cơ bản, đầu tiên và thiêng liêng nhất của mỗi
con người.
Có thể khẳng định tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn của Người chứa đựng nhiều giá trị
vừa mang tính giai cấp, tính dân tộc và thời đại hướng tới giải phóng con người, vì
hạnh phúc của con người.
13
Mỗi năm, cứ đúng vào tháng 5 - có ngày sinh nhật Bác, là dịp để chúng ta tìm
hiểu, khẳng định lại một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh vẫn cịn nguyên giá trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa MácLênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta để xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, giàu mạnh và ngày càng phát
triển phồn vinh. Mượn lời thơ của nhà thơ Tố Hữu để kết thúc bài viết:
“Ơi lịng Bác vậy cứ thương ta.
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa.
Chỉ biết quên mình cho hết thảy,
Như dịng sơng chảy nặng phù sa”.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn là tư tưởng về phát triển con
người toàn diện
Xây dựng con người phát triển toàn diện, tức là q trình làm phát triển hồn
tồn những năng lực sẵn có của con người
- Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong đó đức
là gốc.
- Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện
trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Phát triển con người tồn diện là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Tại lớp học của giáo viên cấp II, III toàn miền bắc ngày 13-9-1958, Bác
dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
“Trồng người” là q trình xây dựng con người tồn diện – q trình làm phát triển
hồn tồn những năng lực sẵn có của con người. Nội dung cơ bản trong tư tưởng phát
triển con người tồn diện của Hồ Chí Minh là:
Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người tồn diện là đức và tài, trong đó
đức là gốc.
Đức được hiểu là đạo đức. Nó khơng vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của lồi người. Đó là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương
con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư; có tinh thần quốc tế vơ sản.
Tài được hiểu là năng lực của con người để giải quyết nhiệm vụ được giao phó,
thể hiện ở trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và lý luận.
14
Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện
trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Hồ chí Minh quan niệm phẩm chất, năng lực của con người khơng phải có sẵn
mà phải đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển củng cố. Q trình đấu
tranh, rèn luyện ấy cũng chính là quá trình giáo dục, tự giáo dục trong hoạt động thực
tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện lien quan đến tất cả các
lĩnh vực của đời sỗng xã hội, đến mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mac – Lênin
và tư tưởng Hồ chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư
tưởng về con người của Đảng Cộng sản nhất quán với tư tưởng Hồ Chí Minh, nó thể
hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng và qua chủ trương chính sách của Đảng trong
suốt quá trình Đảng lãnh đạo. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó
tiếp tục được quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam là trung tâm trong
“chiến lược phát triển toàn diện”; là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội”.
15
PHẦN 3: VẬN DỤNG CÁC KIẾN THỨC CƠ BẢN ĐỂ ĐỀ RA
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội
mới, Đảng ta đã khẳng định: nguồn lực q báu nhất, có vai trị quyết định nhất là con
người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt
Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét đến cùng
cũng là vì con người, hướng đến con người. Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập
quốc tế, Đảng ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc chúng ta có tranh
thủ tận dụng thành công những thuận lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà
q trình đó đặt ra hay không phụ thuộc đáng kể vào con người.
Vấn đề con người được đề cập đầu tiên tại Đại hội lần thứ IV của Đảng và được
đề cập cụ thể, trực tiếp trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương lĩnh, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người
được giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo.
Quan điểm này của Đảng được xây dựng trên những cơ sở khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm lịch sử cụ thể của đất nước. Do đó, Đảng
ta khẳng định phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các chính sách xã hội
nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà trong xã hội, trong đó con người được đặt vào vị
trí trung tâm.
Quan điểm con người là trung tâm của sự phát triển đã trở thành một định
hướng chiến lược, một triết lý hành động xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước
ta.
16
Trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn
mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa
trên nền tảng lợi ích chung của tồn xã hội hài hịa với lợi ích chính đáng của con
người… Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người,
chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta
cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia
tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”. Có thể khẳng định, trong mọi
đường lối, chiến lược phát triển của Đảng ta đều xuất phát từ vấn đề con người, lấy
con người làm trung tâm để hướng tới xây dựng một xã hội mới với sự phát triển toàn
diện của con người và tiến bộ xã hội.
Để làm được điều đó, phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người - động lực trực
tiếp của sự phát triển. Chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi
vậy, mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ
quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã
hội, là chủ thể của mọi hành động kinh tế, văn hóa xã hội và mục tiêu của tồn bộ sự
nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân.
Kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm các kỳ đại hội trước, Đại hội
Đảng lần thứ XIII bổ sung mối quan hệ giữa lấy con người làm trung tâm - bảo đảm
quyền con người - phát triển con người tồn diện gắn bó khăng khít với mối quan hệ
giữa thực hành dân chủ, pháp quyền nhằm giữ gìn pháp chế, kỷ cương xã hội và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà
nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính
17
sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng;
củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa". Có thể nói, xun suốt tồn bộ quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ trọng tâm và
chiến lược phát triển, Đảng đều đặt con người, quần chúng nhân dân ở trung tâm của
sự phát triển.
Cùng với đó, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Khơi dậy tinh thần và ý chí,
quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn;
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự
cường, lịng nhân ái, tinh thần đồn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất
nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến
vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con
người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị
truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa,
mơi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa
phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”.
Với những quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng, trải qua những thời kỳ
khác nhau, mỗi người dân Việt Nam đã phát huy cao độ lịng u nước, ý chí tự lực, tự
cường để cùng nhau xây dựng đất nước. Đặc biệt, với tinh thần “khơng để ai bị bỏ lại
phía sau” trong đại dịch tồn cầu hiện nay, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định
tính ưu việt của chế độ, luôn coi sinh mạng, sức khỏe và cuộc sống của nhân dân lên
trên hết. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của con người trong chiến lược phát
triển đất nước thể hiện rõ nét trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại… Đây chính là bước hoàn thiện lý luận đổi mới của
Đảng ta về mục tiêu lấy con người – quần chúng nhân dân là mục tiêu, nguồn lực, là
18
chủ thể và trung tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng.
Như vậy, xây dựng con người việt Nam hiên nay phải đồng thời kiên trì đấu
tranh chống thối hóa, biến chất với việc hình thành và phát triển con người Việt Nam
với những đức tính cơ bản:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý
chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu, đồn kết với nhân dân thế
giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có ý thức tập thể, đồn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn trọng
kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện mơi trường
sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vào lợi ích bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và
thể lực.
Xây dựng con người Việt Nam đươc thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Để đạt được điều này nước ta đã và đang đầu tư vào những lĩnh vực chủ
yếu của xã hội như:
Về Kinh tế thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng con người thông qua cơ chế lao động. Việc phát
triển kinh tế nhiếu thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ tạo công ăn
việc làm mà thơng qua cơ chế thị trường với những địn bẩy kinh tế kích thích năng
lực lao động làm việc cho mình và cho xã hội.
Về chính trị, khẳng định con đường đi lên CNXH là nền tảng của chủ nghĩa nhằm
nâng cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
nhiều hơn vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội, giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội
cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực quan
hệ mới.
19
Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo – khoa học, công nghệ được coi là “quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, là nền tảng động lực
đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Trên lĩnh vực văn hóa: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được
coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động
của văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lịng nhân ái,
khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, quan hệ hài hịa trong gia đình, cộng đồng và xã
hội”.
Tư tưởng về chiến lược con người của Đảng ta được đặt trên cơ lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta rất coi trọng yếu tố con người thể hiện
qua các đường lối chủ trương của Đảng:
Đại hội VI – Đại hội đổi mới, chú trọng đến quyền làm chủ của nhân dân lao động
“thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân,
hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới” (Văn kiện ĐH Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, trang 113). Con người có quyền tự do chân chính, con người
muốn tự giải phóng phải có tri thức, nắm bắt được quy luật khách quan, có năng lực,
phẩm chất. Vì vậy, đào tạo con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực mạnh mẽ nhất.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII có viết: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố
con người – động lực trực tiếp của sự phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa
VII cũng nhấn mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta…Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị
lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất
phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một
xã hội công bằng, nhân ái thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người và
con người trong sản xuất và trong đời sống”.
Bước sang thời kỳ phát triển mới với những thành tựu to lớn trên nhiều mặt của hơn
10 năm đổi mới đất nước khơng chỉ đưa nước ta thốt khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội
20
mà còn là tiền đề cần thiết đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Tư tưởng chủ đạo của
chiến lược con người trong Đại hội VIII là thực hiện “chính sách xã hội đúng đắn vì
hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vấn đề con người được Đại hội VIII cụ
thể hóa thành các quốc sách lớn thích ứng với những u cầu mới của thời đại. Đó là
những chính sách nhằm phát triển trí tuệ con người Việt Nam.
Tiếp tục một cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ đổi mới, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và coi
con người ln giữ vị trí trung tâm của phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Chính vì
vậy Đại hội IX chủ trương: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá
nhằm xây dựng đất nước giàu đẹp.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo to lớn của con người Việt Nam
đang được phát huy mạnh mẽ. Tuy nhiên, tiềm năng trí tuệ vẫn chưa được khai thác
hết. vì vậy, cần xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách thích hợp để có thể khơi thơng
nguồn lực con người trong nước và ngồi nước.
21
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc (1945),
thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà
bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin
đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của tồn xã hội, thay đổi nhanh
chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng
xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức tồn diện. Bằng hệ
thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm
nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những
lớp người lao động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chun mơn cao ngày
nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hố khoa học cơng nghệ với trình độ lý
luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Lý luận về chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quan điểm của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người là kim chỉ nam để hướng nước ta cần
phải làm gì, làm như thế nào để có thể xây dựng và phát triển con người Việt Nam
trong thời đại mới nhằm mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Do đó, Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc
mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát
triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hố và chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi
nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng
khoa học và cơng nghệ… Điều đó địi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác
một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới
nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành Triết học) (2007). Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà xuất bản lý luận
chính trị.
2. Tài liệu học tập các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
(dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở) (2021). Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
3. Tài liệu học tập các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
(dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở) (2016). Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.