Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trên địa bàn tỉnh Bến Tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.25 KB, 12 trang )

1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Văn hố là tổng hồ của các mối quan hệ, là tất các những gì tốt đẹp của
cuộc sống từ cách ăn, cách mặc, cách giao tiếp, cách hưởng thụ và ngay cả cách
sản sinh văn hoá. Từ đó, văn hố truyền thống được hiểu là các nét văn hố
được gìn giữ lâu đời của một cộng đồng người cịn văn hố hiện đại là những nét
văn hoá sinh ra từ cuộc sống hiện hữu gắn liền với sự phát triển trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội.
Hiện nay văn hóa truyền thống của nước ta nói chung, tỉnh Bến Tre nói
riêng có xu hướng mai một trong sự thay đổi của đời sống xã hội, một bộ phận
khơng nhỏ người dân ít quan tâm đến bản sắc văn hóa truyền thống cũng như
lưu giữ và phát huy văn hóa của dân tộc, nhất là giới trẻ. Thách thức lớn đặt ra
với nền văn hóa tỉnh nhà là tiếp nhận những ảnh hưởng từ sự du nhập những
luồng văn hóa mới nhưng khơng qn bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống với phương châm “hịa nhập nhưng khơng hịa tan”. Đây vừa là
mục tiêu vừa là động lực để thực hiện các chính sách kinh tế - văn hóa - xã hội,
góp phần xây dựng nền văn hóa tỉnh nhà vì mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh đều khẳng định văn hóa là nền
tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững, văn hóa ln
song hành với kinh tế, chính trị và xã hội, càng cho thấy tầm quan trọng của các
giá trị văn hóa truyền thống. Vì thế, việc giữ gìn và phát huy giá trị cốt lõi của
văn hóa tỉnh nhà là tất yếu và cấp thiết gắn liền với sự phát triển toàn diện và
bền vững của nền kinh tế.
Là một giáo viên đang công tác trong ngành giáo dục, sinh ra và lớn lên
tại q hương Bến Tre, tơi mong muốn tìm hiểu các giá trị văn hóa truyền thống
của tỉnh nhà để góp sức vào cơng cuộc bảo tồn và phát huy, góp phần thúc đẩy
sự phát triển bền vững của kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh nhà.
Vì các lý do trên, tôi chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của tỉnh Bến Tre” làm tiểu luận kết thúc phần học Tình hình nhiệm
vụ địa phương.




2
PHẦN 2. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về “Các giá trị văn hóa truyền thống của Bến Tre”
1.1. Khái niệm
Năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm về văn hóa
vừa cụ thể vừa khái quát hết sức uyên bác và sâu sắc: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
Văn hoá truyền thống của Bến Tre là những nét văn hoá riêng, tốt đẹp của
Bến Tre được lưu giữ và trải qua nhiều thời kỳ được đa số người dân cơng nhận
và có ý thức gìn giữ, bảo vệ và phát huy.
Bảo tồn là giữ gìn, khơng để bị mất mát, tổn thất. Phát huy là làm cho cái
hay, cái tốt lan rộng và tiếp tục phát triển thêm. (theo từ điển Tiếng Việt). Bảo
tồn và phát huy các giá văn hố truyền thống của Bến Tre là phải có biện pháp
bảo vệ không để bị mai một đồng thời làm cho các giá trị văn hố truyền thống
đó được lan rộng, toả sáng góp phần đưa tỉnh nhà phát triển tồn diện.
1.2. Khái qt về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Bến Tre
1.2.1. Về vị trí địa lý
Bến Tre nằm sát biển, là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long
được hợp thành bởi ba cù lao lớn: cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh,
được bồi tụ bởi phù sa của 4 nhánh sơng Cửu Long là sơng Tiền (có tài liệu gọi
là sông Mỹ Tho), sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ thành
qua nhiều thế kỷ, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang có ranh giới chung con sơng
Tiền, phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh; phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Long có ranh giới
chung là sơng Cổ Chiên; phía Đơng giáp biển Đơng với đường bờ biển dài 65 km.
Dân số: 1.288.463 người (theo kết quả điều tra 01/4/2019).

1.2.2. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bến Tre có diện tích tự nhiên 2.315,01 km2, nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới cận xích đạo, có địa hình bằng phẳng nghiêng dần về phía biển; gồm


3
những giồng cát, xen kẽ ruộng vườn, trũng, bãi bồi, đất mặn, bãi thủy triều, cồn
sơng...; khơng có cây rừng lớn, chỉ có một số rừng chồi, những dải rừng ngặp
mặn ven biển và ở các cửa sông.
Hệ thống sông rạch: Bến Tre có 4 sơng chính (sơng Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm
Luông, Cổ Chiên), mạng lưới kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng
6.000 km. Mật độ sông ngòi khoảng 2,7 km/ km 2, là một trong những tỉnh có
mật độ sơng ngịi lớn nhất Việt Nam thuận lợi cho giao thông đường thủy, nguồn
nước tưới cây, nguồn lợi thủy sản và hệ động vật rất phong phú, đa dạng.
Người dân Bến Tre sống chủ yếu bằng nghề nông, ngư nghiệp, nghề thủ
công. Các loại cây trồng phổ biến: cây lúa nước; cây ăn trái đứng hàng thứ nhì
ở vùng đồng bằng sơng Cửu Long, bao gồm: chơm chôm, sầu riêng, măng cụt,
cam, chanh, bưởi,… Đặc biệt, Bến Tre được mệnh danh là “Quê hương xứ dừa”,
có diện tích dừa lớn nhất nước với trên 53.000ha (chiếm khoảng 35% diện tích
dừa cả nước), sản lượng trên 400 triệu trái/năm.
Bến Tre chính thức thành đơn vị hành chính cấp tỉnh từ ngày 1-1-1900
(theo quyết định của Tồn quyền Đơng Dương Paul Doumer), gồm có cù lao
Minh và cù lao Bảo với 21 tổng, 144 làng. Năm 1910 thêm đơn vị hành chánh
quận, Bến Tre có 4 quận Sóc Sải (Châu Thành ngày nay), Ba Tri, Mỏ Cày và
Thạnh Phú. Thời điểm này, dân số Bến Tre có 223.405 người.
Tính đến tháng 02/2020 Bến Tre có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao
gồm 01 thành phố (Thành phố Bến Tre) và 8 huyện (Ba Tri, Giồng Trơm, Bình
Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam và Thạnh Phú) với 7
thị trấn, 142 xã, 08 phường.
Người dân Bến Tre đa số là lưu dân người Việt từ miền Trung, chủ yếu là

vùng “ngũ quảng” (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Đức và Quảng
Ngãi). Người Bến Tre chủ yếu là người Kinh.
1.3. Khái quát về lịch sử, các giá trị truyền thống văn hóa của Bến tre
Bến Tre là đất giàu truyền thống văn hóa, tinh thần hiếu học, tinh thần yêu
nước - thượng võ, ý chí kiên cường bất khuất, có khát vọng độc lập, tự do, biết
ni dưỡng nhân tài và có ý thức bảo vệ vốn văn hóa truyền thống của cha ơng


4
như: tinh thần cần cù, sáng tạo, tự lực, tự cường, tương thân, tương ái. Đặc biệt
là truyền thống “thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút” của nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Văn Trị.
1.4. Quan điểm định hướng của Đảng về văn hóa
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường xây dựng con người và nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động
lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự
hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam là trung trâm, là mục tiêu và động lực phát triển quan trọng của
đất nước”.
Tiếp thu định hướng của Đảng, cụ thể hóa quan điểm, mục tiêu Nghị
quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030,
ngày 17/10/2020, Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về “Xây dựng
con người Bến Tre phát triển tồn diện; gia đình hạnh phúc, tiến bộ”. Với quan
điểm: “Khơi dậy tinh thần Đồng khởi, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn
lên của người dân Bến Tre trong phát triển kinh tế, phát huy các giá trị truyền
thống văn hóa, con người Bến Tre để sánh vai với các địa phương trong cả
nước”, với mục tiêu phát triển toàn diện con người Bến Tre phải gắn với 3 mơi
trường văn hóa: gia đình, nhà trường, xã hội; là mục tiêu quan trọng trong định
hướng phát triển tỉnh giai đoạn 2020 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, là một

trong 3 trụ cột (chính trị, kinh tế, văn hóa con người).
2. Thực trạng về vấn đề “Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của Bến Tre”
2.1. Các giá trị truyền thống văn hoá ở Bến Tre hiện nay
2.1.1. Truyền thống yêu nước, hiếu học
Bến tre được mệnh danh là “Quê hương Đồng khởi”. Với tinh thần yêu
nước, ý chí kiên cường bất khuất, nhân dân Bến Tre đã làm nên phong trào
Đồng khởi năm 1960 nổi tiếng với “đội quân tóc dài” mở đầu cho phong trào
Đồng khởi trên toàn miền Nam.


5
Trưởng thành từ các cuộc kháng chiến, Bến tre có có 23 vị tướng. Trong
đó có Đại tướng Lê Văn Dũng, là vị Đại tướng đầu tiên của Nam Bộ. Bà
Nguyễn Thị Định vị nữ tướng duy nhất trong kháng chiến chống Mỹ. Còn nhiều
tấm gương kiên cường bất khuất như: Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng, Đốc binh
Phan Ngọc Tòng; Trịnh Viết Bàng; Lê Quang Quan - Tán Kế… còn có những
nhà thơ u nước như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị dùng ngòi bút để ca
ngợi cái tốt, chống lại cái xấu. Cuộc họa thơ với Tôn Thọ Tường của nhà thơ
Phan Văn Trị được xem là cuộc đấu tranh tư tưởng đầu tiên có quy mơ lớn nhất
trong lịch sử văn học dân tộc mở đầu cho những cuộc đấu tranh văn hóa nổ ra ở
đầu thế kỷ XX.
Trong lịch sử báo chí ở Nam Kỳ, thời kỳ phơi thai chữ quốc ngữ, Bến Tre
cũng đã đóng góp 3 nhà báo có tầm cỡ: Lương Khắc Ninh, Sương Nguyệt Anh,
Lê Hoằng Mưu. Trong lĩnh vực nghệ thuật, Bến Tre đã đóng góp nhiều nghệ sĩ
tài năng như Lê Long Vân (cải lương), Diệp Minh Châu (điêu khắc), Lê Văn Đệ
(hội họa), Nguyễn Phi Hoanh (nghiên cứu mỹ thuật)…
2.1.2. Văn hoá lễ hội
Lễ hội là một nét văn hoá đặc trưng không thể thiếu đối với của người dân
xứ dừa. Hoạt động nhằm tôn vinh các giá trị văn hố của địa phương. Góp phần

khơng nhỏ vào việc giáo dục, phát triển nhân cách, phẩm chất, phong tục, tập
quán cho thế hệ sau kế thừa và phát huy.
Lễ hội Nghinh Ông
Là hoạt động truyền thống theo phong tục thờ cá Ông của ngư dân vùng
biển. Cá Ông được xem như vị thần bảo hộ giúp họ bình an, giúp sóng n biển
lặng, đánh bắt bội thu. Lễ hội chính là dịp để tỏ biết ơn đối với vị thần này. Tồn
tỉnh có 12 lăng thờ Ơng chủ yếu ở các huyện ven biển. Trong đó, lễ hội Nghinh
Ơng ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại tổ chức vào ngày rằm tháng 6 âm lịch
được xem là lễ hội Nghinh Ông tiêu biểu ở Bến Tre. Lễ hội được công nhận là di
sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, là niềm tự hào đối với người dân Bến Tre
đặc biệt là ngư dân vùng biển.


6
Tuy nhiên lễ hội chỉ dành cho các ngư dân làm nghề biển, ngày nay việc
tổ chức lễ hội chưa được bài bản, chưa phát huy được giá trị văn hố truyền
thống vốn có. Cụ thể như Đền thờ Ơng ở Thạnh Phú được xây dựng rất lớn
nhưng việc tổ chức lễ hội chưa bài bản, chưa có người thuyết trình hướng dẫn
khi có khách đến tham quan, có hiện vật là bộ xương cá Ơng nhưng hiện chưa
có cách bảo quản phù hợp sẽ ảnh hưởng đến việc bảo tồn giá trị văn hoá.
Lễ hội truyền thống văn hoá
Đây là lễ hội đặc trưng của tỉnh, được tổ chức vào ngày 01 tháng 7 hằng
năm tại Di tích quốc gia đặc biệt “Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu” (xã
An Đức, huyện Ba Tri) nhằm để tưởng nhớ ngày sinh Cụ Đồ Chiểu (01 tháng 7
năm 1822). Cụ là nhà giáo, nhà thuốc, nhà thơ lớn của nhân loại; có nhiều tác
phẩm thơ ca đặc sắc ảnh hưởng sâu rộng tới các tầng lớp Nhân dân yêu nước
qua các thời kỳ. Biểu tượng văn hoá Bến Tre lấy ý tưởng sáng tác từ hai câu thơ
nổi tiếng “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút
chẳng tà” của Cụ.
Lễ hội Kỳ Yên

Là lễ hội Đình làng có từ lâu đời và là một trong những hoạt động tín
ngưỡng của người dân Bến Tre để tạ ơn Thành Hoàng và các bậc tiền hiền, hậu
hiền; là lễ cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt. Lễ hội còn
là dịp để người dân họp mặt, vui chơi giải trí sau những ngày đồng áng. Các hoạt
động chủ yếu như lễ thượng điền (trung tuần tháng 11, 12 âm lịch) và hạ điền
(trung tuần các tháng 3, 4, 5 âm lịch). Tại Đình làng thờ thần được vua sắc phong
thì có lễ mở sắc thần vào giữa đêm thứ nhất để tưởng nhớ công lao khai cơ lập
nghiệp của các bậc tiền nhân xưa.
Hiện nay, lễ hội này vẫn được tổ chức thường xuyên theo tục lệ nhưng đối
tượng tham gia là những người lớn, bậc tiền bối, lão làng mà chưa nhận được sự
quan tâm của giới trẻ. Chính vì vậy những giá trị văn hố truyền thống này có
nguy cơ mai một.
2.1.3. Di sản văn hóa


7
Bến Tre là vùng đất giàu truyền thống văn hoá, cách mạng và được xem là
vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có hệ thống di tích lịch sử văn hóa phong phú, đa
dạng với nhiều giá trị về văn hóa vật thể, phi vật thể.
Tồn tỉnh có 04 di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia được Trung ương
công nhận: Hát Sắc bùa Phú Lễ (huyện Ba Tri), Lễ hội Nghinh Ơng ở Bình
Thắng (huyện Bình Đại), Nghề làm bánh tráng Mỹ Lồng ở xã Mỹ Thạnh và
Nghề làm bánh phồng Sơn Đốc ở xã Hưng Nhượng (huyện Giồng Trơm).
Giới trẻ ngày nay có xu hướng tìm hiểu và quan tâm những văn hoá mới
hiện đại, những văn hoá ngoại lai mà dần dần quên đi những giá trị văn hoá
truyền thống của quê hương. Chẳng hạn như Hát sắc bùa ở Phú lễ, đây là di sản
văn hố phi vật thể cấp quốc gia nhưng cũng ít được quan tâm và tổ chức trong
các hoạt động về văn hố, ít được giới trẻ quan tâm, chưa tiếp cận nhiều và có
nguy cơ bị thất truyền.
2.1.4. Văn hố nghệ thuật truyền thống

Bến Tre hội tụ đủ các loại hình văn học dân gian, hát sắc bùa Phú Lễ; là
cái nơi của loại hình “đờn ca tài tử”, có kho tàng ca dao phong phú ca ngợi cảnh
đẹp, lòng tự hào và tình yêu quê hương đất nước, kho tàng sách văn hố dân
gian, các điệu lý, hị, vè… tiêu biểu như quyển Dân ca Bến Tre do Lư Nhất Vũ
và Lê Giang biên soạn cho biết đã sưu tập được 75 điệu lý trên đất Bến Tre. Mặc
dù có nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống nhưng trong các hoạt động văn
hoá văn nghệ chỉ chú trọng đến những loại hình âm nhạc hiện đại chư nhạc đỏ,
ca cổ, múa ít chú trọng đến những loại hình nghệ thuật truyền thống như Hát sắc
bùa, đờn ca tài tử, hị, vè, lý…
2.1.5. Văn hố ẩm thực truyền thống
Mang tính chất đặc trưng của miền quê xứ dừa. Bằng cách sử dụng các
nguyên liệu từ dừa làm tăng thêm hương vị, tạo nên những món ăn đặc sản riêng
của Bến Tre, chẳng hạn như: gỏi củ hủ dừa, kẹo dừa, đuôn dừa, chuột dừa hay
bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Các đặc sản tiêu biểu như Bánh
tráng, bánh phồng, kẹo dừa, riêng kẹo dừa đã được xuất khẩu ra thế giới.
Thường vào dịp Tết Nguyên đán, nhà nhà đều chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ để làm


8
bánh phồng, cùng quây quần bên nhau gói bánh tét tạo một khơng khí sum vầy,
ấm áp. Đó cũng là một nét riêng trong văn hoá ẩm thực Bến Tre. Nhưng ngày
nay, do nhịp sống thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội những thói quen
truyền thống này đã dần bị mai một, người dân khơng cịn làm bánh phồng, bánh
tét vào dịp Tết nữa. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến truyền thống của quê
hương mình.
2.2. Những thành tựu trong “Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống ở Bến Tre”
Trong thời gian qua, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống ln được sự quan tâm của các ngành, các cấp và đạt được nhiều thành
tựu. Theo ông Nguyễn Hồi Anh - Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh

Bến Tre: Từ năm 2018 đến nay, Ngành văn hóa tỉnh đã tổ chức nhiều phong trào
trong lĩnh vực văn hố trong đó có hoạt động văn hóa, văn nghệ cho trẻ em như:
Truyền dạy đờn ca tài tử và liên hoan âm nhạc truyền thống chủ đề “Vui
khúc đồng dao” cho trẻ em vùng nông thôn mới huyện Chợ Lách nhằm cụ thể
Đề án “Chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 - 2030” của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch.
Năm 2019, tổ chức về nguồn, trò chơi dân gian và truyền dạy bài bản đờn
ca tài tử cho học sinh trên địa bàn tỉnh nhân Ngày hội truyền thống văn hóa tỉnh
tại huyện Ba Tri, tổ chức Ngày hội tuổi thơ và Hội thi âm vang làn điệu dân ca.
Thu thập thông tin nghệ nhân nắm giữ diễn xướng dân gian nói thơ Vân Tiên.
Năm 2020, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh tổ chức 3 hoạt động bảo
tồn các giá trị văn hóa dân gian: Trải nghiệm thực hành nghề truyền thống và về
nguồn, Truyền dạy đờn ca tài tử và Liên hoan Âm nhạc truyền thống tại huyện
Chợ Lách.
Về xây dựng thiết chế, đến cuối năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã xây dựng
mới, nâng cấp sửa chữa 13 trung tâm văn hóa - thể thao và học tập cộng đồng
cấp xã, nâng tổng số hiện có 62 xã văn hóa NTM có trung tâm đạt chuẩn. Xây


9
dựng 47 thiết chế văn hóa - thể thao ấp, nâng tổng số thiết chế văn hóa ấp hiện
có 304/968 ấp, khu phố của 157 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh.
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong “Giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống ở Bến Tre”
Hạn chế
Cùng với sự phát triển của tỉnh nhà, bên cạnh những thành tựu đạt được
thì trong vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cũng cịn
nhiều hạn chế, cụ thể:
Nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, quản lý về bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hố truyền thống cịn hạn chế. Vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn
hố thiếu chặt chẽ. Cơng tác phổ biến, giáo dục về truyền thống văn hố chưa
thường xun, thiếu tính đa dạng về hình thức, chưa phong phú về nội dung.
Việc xây dựng chuẩn mực con người Bến Tre chưa hồn thiện. Tình làng
nghĩa xóm của người dân chưa thực sự thắt chặt. Cịn tình trạng cán bộ, đảng
viên và một bộ phận người dânchưa quan tâm đến việc học tập nâng cao trình
độ, có biểu hiện suy thối về tư tưởng, đạo đức, có lối sống bng thả, tiếp thu
văn hố thiếu chọn lọc.
Một số giá trị văn hóa truyền thống chưa được quan tâm đúng mức có
nguy cơ mai một, các loại hình dịch vụ văn hố, giải trí hiện đại xuất hiện như
nhạc sóng, karaoke đã có sự biến tướng gây bức xúc trong cộng đồng dân cư
thậm chí gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Bên cạnh
một số trường hợp lợi dụng văn hoá để truyền bá những quan điểm sai trái, thù
địch, mê tín dị đoan…
Ngun nhân
Có nhiều ngun nhân dẫn đến thực trạng trên. Kinh tế xã hội phát triển
dẫn đến mặt trái của xã hội, đạo đức có sự xuống cấp, mơi trường văn hố cịn
có mặt chưa lành mạnh, tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Nhu cầu giải trí hưởng thụ cũng tăng lên, khoa học cơng nghệ phát triển
tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận văn hoá mới tuy nhiên khả năng tiếp
thu chưa có tính chọn lọc dẫn đến sự lệch lạc trong nhận thức và tư tưởng. Một


10
số nơi coi trọng vật chất hơn yêu tố tinh thần. Văn hố gia đình ít được quan
tâm, thiếu sự làm gương của những bậc tiền bối.
Việc phát huy truyền thống văn hoá gắn với du lịch hiện nay đang gặp khó
khăn do tình hình dịch bệnh Covid -19 gây ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát
triển chung của xã hội.
3. Những giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn

hóa của Bến tre trong giai đoạn hiện nay
Từ những hạn chế và nguyên nhân nói trên, việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống của tỉnh nhà trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cần
thiết và cấp bách, đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ. Để công tác này đạt được hiệu quả mong muốn trong giai đoạn 2021 2030, bản thân đề đạt những giải pháp cụ thể sau:
Một là. Nâng cao nhận thức về “các giá trị văn hoá truyền thống gắn liền
với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống” của tỉnh nhà, cụ thể là
nhận thức của các cấp Uỷ đảng, chính quyền, người đứng đầu, đội ngũ cán bộ,
đảng viên và quần chúng Nhân dân.
Hai là. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn
hoá, nghệ thuật và các loại hình văn hố nghệ thuật tại địa phương vừa có bản lĩnh
chính trị, vừa có tư duy sắc bén song song với trình độ và năng lực chuyên mơn.
Ba là. Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về văn hoá theo
hướng cơ bản, đồng bộ, lâu dài. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cần ban hành
các chính sách cụ thể tập trung vào cơng tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
văn hoá gắn với “bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của Bến Tre” trong
đó có chính sách cho các nghệ nhân tổ chức truyền dạy di sản văn hoá, định
hướng các phong trào văn hố phát triển theo hướng tích cực “hồ nhập nhưng
khơng hồ tan” góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là. Cụ thể hố các chương trình mục tiêu quốc gia, tập trung thực
hiện các đề án đã được phê duyệt về phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội ở tỉnh
nhà. Tăng cường mời gọi đầu tư và xã hội hoá đối với các hoạt động văn hố, du
lịch. Duy tu, sửa chữa những di tích lịch sử xuống cấp, phục hồi các loại hình


11
văn hoá, nghệ thuật dân gian, thường xuyên tổ chức các sự kiện, ngày hội, hội
thi, hội diễn, giao lưu văn hoá, văn nghệ, đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng để thu
hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Năm là. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, quảng bá “các giá trị văn hoá

truyền thống” kết hợp với phát triển du lịch. Định kỳ sơ, tổng kết, đánh giá kết
quả triển khai thực hiện, có hình thức khen thưởng, động viên, hỗ trợ cho các
nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng tham gia với vai trị đầu tàu trong
hoạt động truyền thụ văn hoá nghệ thuật hoặc sáng tạo các giá trị văn hoá nghệ
thuật mới phục vụ lợi ích cộng đồng.
4. Liên hệ bản thân
Với vai trị là một giáo viên, bản thân cần phải khơng ngừng học tập, trau
dồi để nâng tầm hiểu biết, nâng cao trình độ về chun mơn, nghiệp vụ để thực
hiện tốt nhiệm vụ trồng người của mình. Đồng thời ln tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức nhà giáo, phẩm chất của người đảng viên, luôn giữ vững lập trường tư
tưởng, bản lĩnh chính trị, kiên định khơng lung lay trước những luận điệu xuyên
tạc của các thế lực thù địch. Nhận thức đúng đắn, tiếp thu có chọn lọc những giá
trị văn hố trong q trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
của quê hương, truyền đạt cho học sinh những kiến thức phù hợp; đưa hị, vè, lý
vào trong giảng dạy; có thể mơ phỏng lại “Hát sắc bùa” trong các dịp lễ hội của
trường, lớp.
Kiến nghị với các cấp lãnh đạo của ngành và nhà trường tạo điều kiện để
học sinh được du lịch tham quan các khu di tích lịch sử, làng nghề truyền
thống…, tổ chức về nguồn, các hoạt động tìm hiểu, giới thiệu về các giá trị văn
hoá, những hoạt động nghệ thuật dân gian của địa phương; tổ chức các hoạt
động văn hoá, hội thi, hội diễn giao lưu văn nghệ để tăng cường giáo dục văn
hoá truyền thống của địa phương.


12
PHẦN 3. KẾT LUẬN
Vùng đất Bến Tre, là một địa bàn khơng chỉ có lợi thế về điều kiện thời
tiết về thắng cảnh của tự nhiên mà cịn có lợi thế về sự giàu có văn hóa truyền
thống của quê hương xứ dừa. Chính quyền và người dân địa phương đã nhận
thức được nguồn lợi văn hóa quý báu ấy, đã bước đầu tổ chức bảo tồn và phát

huy chúng thơng qua các hoạt động tìm hiểu các chủ trương, chính sách của địa
phương, cũng như các hoạt động về nguồn để giáo dục lớp trẻ hôm nay hiểu
thêm về văn hố truyền thống và tình u q hương. Những giá trị văn hoá vật
thể và phi vật thể ngày càng được chú trọng, bảo tồn và tôn vinh. Những nét văn
hố truyền thống được giữ gìn, những phong tục, tập quán được bảo tồn, hồi
sinh và chuyển mình một cách mạnh mẽ.
Văn hóa truyền thống được gìn giữ sẽ là cơ sở, tiềm năng lợi thế để
phát triển ngành du lịch văn hóa. Điều này sẽ có tác động tích cực, góp
phần nâng cao đời sống của người dân, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống để trở thành sản phẩm du lịch. Có thể nói rằng, phát triển du lịch văn
hóa là cách bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống hiệu quả. Những lợi
thế ấy cần được nghiên cứu, nhận diện để bảo tồn và phát huy tạo lập nền tảng
cho sự phát triển của xã hội.
Hy vọng rằng, trong thời gian tới, cùng với sự chuyển mình phát triển
cùng thời đại, những giá trị văn hoá truyền thống ngày càng được lưu giữ,
truyền bá rộng rãi, việc bảo tồn và phát huy không bị mai một, những “giá trị
văn hoá truyền thống của tỉnh Bến Tre” sẽ mãi trường tồn, đóng góp một phần
trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững và xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.



×