LỜI NĨI ĐẦU
Trong cơng cuộc phát triển đất nước ta hiện nay, tình trạng tham nhũng được nhận
diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vậy nguyên nhân dẫn đến tình
trạng tham nhũng là do đâu ?. Hậu quả nghiêm trọng mà nó để lại đối với sự phát
triển của đất nước ?. Và chúng ta cần phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Vấn
đề này cần có sự nhìn nhận đa chiều, để đảm bảo tính khách quan của tình trạng
trên. Do vậy, bằng cách :” Vận dụng nội dụng và ý nghĩa phương pháp luận của
cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả để nhận thức và giải quyết vấn nạn tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay”.
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm cặp phạm trù “nguyên nhân và kết quả”.
- Nguyên nhân là phạm trù chỉ tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
- Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Tuy nhiên, không nên hiểu nguyên nhân và kết quả nằm ở hai sự vật khác nhau, sẽ
dẫn đến cho rằng nguyên nhân của một sự vật, hiện tượng nào đấy luôn nằm ngoài
sự vật, hiện tượng đó và cuối cùng nhất định phải thừa nhận rằng nguyên nhân của
thế giới vật chất nằm ở thế giới tinh nhần,
Phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và điều kiện: nguyên cớ là những sự vật,
hiện tượng xuất hiện đồng thời cùng nguyên nhân nhưng chỉ có quan hệ bề ngồi,
ngẫu nhiên chứ khơng sinh ra kết quả. Điều kiện là hiện tượng cần thiết để nguyên
nhân phát huy tác động, trên cơ sở đó gây ra một biến đổi nhất định..
2. Tính chất của mối liên hệ nhân quả.
* Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan,
tính phổ biến, tính tất yếu:
-
Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự
vật khơng phụ thuộc và ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết,
thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất
định.
-
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã
hội đều có ngun nhân nhất định gây ra. Khơng có hiện tượng nào khơng có
ngun nhân, chỉ có điều là ngun nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thơi.
-
Tính tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều
kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên, trong thực tế không thể có
sự vật nào tồn tại trong những điều kiện, hồn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy,
tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động
trong những điều kiện, hồn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng
gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
3.Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
a) Nguyên nhân sản sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả
-
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân ln ln có trước kết quả,
được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất
hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về
mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả. Cái phân biệt quan hệ nhân quả với quan
hệ kế tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ: giữa nguyên nhân và kết quả cịn có mối
-
quan hệ sản sinh, quan hệ trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
Nguyên nhân sinh ra kết quả như thế nào? Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức
tạp, bới vì nó cịn phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết
quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mặt khác, một nguyên nhân trong những
điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết quả khác nhau. Nếu nhiều
nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây
ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh
hơn. Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác
nhau, thì sẽ cản trở tác dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều
đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải
phân tích vai trị của từng loại ngun nhân, để có thể chủ động tạo ra điều kiện
thuận lợi cho những nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người
-
mong muốn) phát huy tác dụng.
Căn cứ vào tính chất và vai trị của ngun nhân đối với sự hình thành kết quả, có
thể phân các ngun nhân ra thành: nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu;
nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài; nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan
b) Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
-
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy,
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối
liên hệ chung của nó với với tồn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với
nhau trong một khái niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó
ngun nhân và kết quả ln thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vơ cùng,
khơng có bắt đầu và khơng có kết thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là
nguyên nhân hay kết thúc bao giờ cũng ở trong một quan hệ xác định cụ thể.
c) Sự tác động qua lại giữa nguyên nhân và kết quả
-
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh hưởng
trở lại đối với nguyên nhân, Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: Thúc
đấy sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của
nguyên nhân (hướng tiêu cực)
4.Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả
a) Trong nhận thức:
Do ngun nhân ln có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một hiện
tượng, ta cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện:
-
Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra kết
quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu
hiệu đặc trưng này.
-
Vì một hiện tượng có thể do nhiều ngun nhân sinh ra nên trong quá trình
tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra
được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như
từng tổ hợp khác nhau của chúng. Từ đó ta mới có thể xác định đúng
về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
-
Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác
có thể là nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem
xét nó trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trị là ngun nhân cũng như
trong những quan hệ nó là kết quả.
b) Trong thực tiễn:
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yêu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ nhân
quả để hành động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
-
Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh
ra nó.
-
Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều
kiện cần thiết. Vì hiện tượng này có thể do nhiều ngun nhân tác động
riêng lẻ hoặc đồng thời nên cần tùy hồn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương
pháp thích hợp.
-
Trong hoặt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và
nguyên nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện,
vận động và tiêu vong của hiện tượng.
-
Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó, ta cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay
lệch hoặc ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách
quan.