Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Lịch sử việt nam bằng tranh bộ mỏng t 17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.79 MB, 116 trang )



Tái bản lần thứ nhất


Hình vẽ do phịng vẽ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” thực hiện
Họa sĩ thể hiện: Nguyễn Huy Khôi

BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM

Ỷ Lan Nguyên phi / Trần Bạch Đằng chủ biên ; Tôn Nữ Quỳnh Trân biên soạn ; họa sĩ
Nguyễn Huy Khôi. - Tái bản lần thứ 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2012.
112 tr. : minh họa ; 21 cm. - (Lịch sử Việt Nam bằng tranh ; T.17).
1. Ỷ Lan, 1044-1117. 2. Việt Nam — Lịch sử — Triều nhà Lý, 1009-1225 — Sách tranh.
I. Trần Bạch Đằng. II. Tôn Nữ Quỳnh Trân. III. Ts: Lịch sử Việt Nam bằng tranh.
1. Ỷ Lan, 1044-1117. 2. Vietnam — History — Ly dynasty, 1009-1225 — Pictorial works
959.7023092 — dc 22
Y11


Lời giới thiệu
Việc người phụ nữ tham gia triều chính trong lịch sử nước
ta vốn đã là hiếm. Không những vậy, người phụ nữ ấy với tài
năng và đức độ của bản thân lại trở thành một trong những
danh nhân có tài trị nước. Người ấy chính là Ngun phi Ỷ Lan.
Vốn chỉ là cô thôn nữ, vào cung, được vua Lý Thánh Tơng
tin tưởng trao quyền nhiếp chính khi người đích thân chinh
phạt Chiêm Thành, và khi nhiếp chính với cương vị Hồng thái
hậu, Ngun phi Ỷ Lan góp phần khơng nhỏ trong việc ổn định
chính sự, giúp cho trong nước yên ổn, lòng dân vui vẻ, được
nhân dân quý trọng, tôn vinh.


Dầu vậy, đời người không tránh được sai lầm, sử cũ vẫn ghi
lại chuyện Thượng Dương hoàng hậu cùng 72 vị cung nữ đã
làm cả đời bà day dứt, xây dựng chùa chiền, sám hối, rửa oan.
Do vậy, bà rất tinh thông Phật pháp, là người “hiểu sâu tôn
chỉ” đạo Phật, cùng với tài văn chương, bà đã để lại cho đời
bài kệ vẫn còn lưu lại trong Thiền uyển tập anh rất có giá trị.
Những nội dung trên được truyền tải trong tập 17 của bộ
Lịch sử Việt Nam bằng tranh “Ỷ Lan nguyên phi” phần lời
do Tơn Nữ Quỳnh Trân biên soạn, phần hình ảnh do Nguyễn
Huy Khôi thể hiện.
Nhà xuất bản Trẻ xin trân trọng giới thiệu tập 17 của bộ
Lịch sử Việt Nam bằng tranh.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ

3


Nguyên phi Ỷ Lan là vợ vua Lý Thánh Tông, và là mẹ
vua Lý Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam. Với tài năng
và đức độ của mình, Ỷ Lan đã được vua Lý Thánh Tơng
trao quyền điều khiển chính sự khi người thân chinh cầm
quân chinh phạt Chiêm Thành năm Kỷ Dậu (1069). Khi
vua Lý Nhân Tông lên ngôi, do còn nhỏ tuổi, dưới sự
giúp đỡ của cả Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt, bà ra
tài ổn định và phát triển đất nước, đập tan âm mưu xâm
lược của ngoại bang.
Mùa thu năm năm Đinh Dậu (1117), Ỷ Lan mất, hỏa
táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức (đền Lý Bát Đế).
4



Ỷ Lan, theo một số sách thì có tên thật là Lê Thị Khiết, quê ở
làng Thổ Lỗi, Gia Lâm, Hà Nội(*). Khiết sinh trưởng trong một
gia đình làm ruộng, có nghề trồng dâu ni tằm. Sống giản dị ở
làng quê êm đềm nên theo nếp nhà, Khiết đã chăm chỉ làm việc
từ nhỏ. Lớn lên, cô trở thành một cô gái khéo léo, nuôi tằm, dệt lụa
không thua một ai trong vùng.
*Có tài liệu nói là huyện Mỹ Văn - Hưng Yên.

5


Khiết khơng những khéo tay, chăm chỉ, mà cịn là một cô gái
khỏe mạnh và xinh đẹp. Do thức khuya dậy sớm, ln tay vận
động nên cơ có một sức khỏe dẻo dai. Trời cịn phú cho cơ một
làn da trắng hồng, nụ cười duyên dáng và giọng ca ngọt ngào. Vào
những đêm trăng, cô vừa dệt lụa vừa ngân nga hát. Tiếng hát thanh
trong, cao vút lơ lửng trong khơng gian, làm xao xuyến lịng người.
6


Nhiều chàng trai say đắm giọng ca, nết ở của cô, nhờ mai mối
đến đưa lời với cha Khiết mong cụ nhận lời mà gả con cho. Nhưng
cha Khiết vốn yêu thương con gái nên không muốn ép duyên con.
Cụ để cho Khiết tự lựa chọn. Còn Khiết dù cũng có bâng khuâng,
nhưng thương cha già, chưa muốn rời xa.

7



Mẹ Khiết mất khi cô vừa chớm lớn. Tuy thế bà cũng kịp truyền
lại nghề nuôi tằm, dệt lụa cho cô. Cô nuôi lứa tằm nào cũng trúng.
Bởi cô chọn mua trứng ngài(*) của những lái buôn quen biết nên
lần nào cũng được họ dành cho thứ tốt. Cô treo trứng ngài vào chỗ
mát cho đến khi nở ra sâu nho nhỏ thì để vào nong(**). Vì nhà neo
người nên mỗi lứa cô chỉ nuôi vài chục nong.
(*) Ngài là bướm do tằm biến thành.
(**)Nong là dụng cụ đan bằng tre rất khít, hình trịn, lịng rộng và cạn,
khá to, dùng để phơi, đựng.

8


Vào những lúc tằm ăn rỗi, cô làm việc không nghỉ tay. Cô rất
cẩn thận, chỉ chọn hái những lá dâu tươi xanh. Hái về, cô không
cho tằm ăn ngay mà bao giờ cũng hong thật khô rồi mới thái thành
những sợi mỏng như tơ. Sợi lá càng nhỏ, tằm tiêu hóa càng dễ
dàng nên chóng lớn. Mỗi ngày phải cho tằm ăn đến ba mươi sáu
lần nên có khi Khiết quên cả ăn cả ngủ.

9


Cha cô phải nhờ một cậu bé trong họ cùng cơ săn sóc tằm. Tằm
ăn rỗi một tuần thì cơ mới được thong thả hơn. Lá dâu khơng cịn
phải thái nhỏ nữa mà tằm cũng chỉ ăn có năm, sáu lần trong ngày
mà thôi. Tuy vậy, buồng nuôi tằm vẫn phải giữ thơng khí và sạch
sẽ. Hễ trời trở nóng thì mở cửa cho mát, trời trở lạnh thì phải đóng
ngay, nếu khơng tằm sẽ chết. Tằm cũng khơng chịu được gió lùa.
Gió thổi phía nào thì phải che phía ấy để bảo vệ tằm.

10


Ngồi ra cịn phải xua ruồi, đuổi chuột. Nếu ruồi đậu vào tằm
thì sẽ đẻ trứng, bọ ruồi sẽ ăn kén tằm về sau này. Cịn các chú
chuột thì rất khoái chén những con tằm béo ngậy. Cậu em họ của
Khiết tinh mắt, thường giúp Khiết loại bỏ những con tằm xấu, vì
tằm xấu chẳng cho tơ mà cịn ăn tốn lá dâu nữa.

11


Khiết nuôi chừng hai bốn, hai lăm ngày là tằm chín, sẵn sàng
nhả tơ. Cơ bắt tằm lên né(*) rồi đem phơi dưới nắng để cho tằm làm
tổ. Khi có được kén(**) rồi thì chỉ trong ba ngày là cơ phải ươm tơ
ngay. Nếu chậm trễ, nhộng sẽ cắn kén chui ra, làm hỏng hết cả tơ.
(*) Né là dụng cụ làm bằng phên đan thưa, thường có nhét rơm, dùng đặt tằm
khi đã chín, để cho tằm làm tổ.
(**)Tổ bằng tơ mà tằm tự nhả ra để ẩn lúc hóa thành nhộng.

12


Ươm tơ(*) là một cơng việc rất khó khăn, nhưng nhờ mẹ đã chỉ
bảo cẩn thận nên Khiết rất thông thạo. Cô nấu nước sôi rồi lần
lượt bỏ những cái kén vào nồi. Tay cô cầm đũa, thoăn thoắt nhào
đi nhào lại mớ kén để lấy sợi gốc. Lấy được rồi, cô bỏ đũa, dùng
tay kéo tơ. Cứ bảy con kén, cơ chập lại thành một sợi. Nếu có mối
nào đứt thì cơ nhanh tay nối ngay.
(*) Ươm tơ là kéo sợi tơ từ kén ra.


13


Sợi tơi được nối vào gàng(*) và cậu bé trai ngoan ngoãn quay
đều tay dưới sự chỉ dẫn của người chị họ đảm đang. Khi nào gàng
nặng ước chừng bốn năm lạng, cậu bé quấn mối lại rồi đem phơi
nơi thống gió và sạch sẽ. Trong khi đó, Khiết vẫn tiếp tục ươm tơ.
(*) Dụng cụ bằng gỗ có hình lục lăng để quấn tơ vào.

14


Tơ do Khiết làm ra khi nào cũng vàng mượt và óng ánh ngũ
sắc. Với những cuộn tơ ấy, cơ dệt thành những tấm lụa mịn màng.
Các lái buôn thường tìm đến cơ để mua. Nhờ thế, tuy gia cảnh đơn
sơ, nhưng trong nhà chưa bao giờ túng thiếu. Còn Khiết, dù tự tay
làm ra nhưng chưa bao giờ cô dám may cho mình một chiếc
áo lụa. Quanh năm cơ chỉ mặc một thứ vải nâu sồng mộc mạc.

15


Hàng đêm, tiếng khung cửi dệt lụa hòa trong tiếng học bài ê a
của cậu em. Hai chị em mải mê, người dệt, người học cho đến tận
khuya. Thỉnh thoảng, người cha thức giấc ra châm đèn đuổi muỗi
cho con hoặc nhấm nháp chén rượu thuốc. Nhìn con siêng năng,
hài lịng nhưng khơng khỏi áy náy cho nhân dun của con gái.

16



Rồi năm ấy (1062), làng Thổ Lỗi cũng đang vào đợt nuôi tằm.
Khiết tất bật lo toan. Nhằm lúc tằm nhà đang ăn rỗi, Khiết hái
dâu, thái lá không ngừng tay. Có tin loan rằng nhà vua sẽ đi ngang
qua làng đến chùa Dâu để cầu tự. Ngài đã 40 tuổi mà vẫn chưa
có một hồng nam nào nên vẫn thường đến những nơi linh thiêng
để cầu xin. Khiết nghe tin, trong lòng cũng muốn được biết mặt
rồng, nhưng bận rộn nên cô cũng quên bẵng đi.

17


Hôm ấy, trong nhà đã hết lá dâu, Khiết ra nương hái. Nắng xuyên
qua vườn dâu xanh mướt, ánh lên mặt người con gái đang ửng
hồng vì vội vã. Bỗng từ đằng xa, một đồn qn rầm rộ đi đến.
Vó câu của đấng thiên tử gõ đều, theo sau là đoàn Thiên tử binh.
Các chức dịch trong làng ăn mặc chỉnh tề, chắp tay lại bên đường.
Dân chúng ùa ra, hớn hở tung hô: Thánh cung vạn phúc! Ai cũng
muốn tận mắt chiêm ngưỡng vị vua có tiếng nhân từ này.

18


Nhà vua vui mừng miễn lễ cho các thần dân. Ngài đưa mắt nhìn
ngắm phong cảnh của vùng quê êm đềm và bỗng thấy trên nương
dâu thấp thống bóng dáng yêu kiều của một người con gái đang
mải mê hái lá. Vó câu đột ngột dừng lại. Hai tay đang thoăn thoắt
hái dâu, nghe tiếng reo hò, Khiết quay lại. Ồ kìa, nhà vua đã đến.
Cơ ngừng tay rồi ngập ngừng đến nép bên gốc lan nhìn ra.


19


20


Thấy lạ, vua quay qua hỏi trưởng làng:
- Người con gái ấy là ai thế?
- Muôn tâu bệ hạ, đấy là Lê Thị Khiết,
con gái Thổ Lỗi ạ.
- Thật là một người siêng năng. Hãy gọi
nàng đến ra mắt ta.

21


Được diện kiến long nhan, Khiết không khỏi bồi hồi, nhưng
cô cố trấn tĩnh. Nhà vua hỏi về gia cảnh của cơ, về sức khỏe cha
già, đặc biệt, ngài tìm hiểu về việc chăn tằm, dệt lụa. Câu nào cô
cũng trả lời lưu lốt. Cuối cùng, cơ nói:
- Mn tâu bệ hạ, hiện lũ tằm ăn rỗi háu đói đang chờ tiện thiếp
ở nhà. Xin bệ hạ thứ tội.

22


Nhà vua ngỡ ngàng trước người con gái xinh đẹp, nết na. Không
tiện giữ nàng lâu, ngài sai một Thiên tử binh đi theo gánh thúng
dâu cho Khiết và bảo quan hộ giá(*) đưa Khiết về nhà.

Trở về cung, nhà vua không thể quên cô thôn nữ xinh xắn ấy.
Ngài quyết định cưới cô làm vợ.
(*) Quan đi theo để bảo và phục dịch cho vua.

23


×