Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận nền văn minh ấn độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.54 MB, 25 trang )





TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN
NỀN VĂN MINH ẤN ĐỘ

HỌC PHẦN: HIST100402 – LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 6 năm 2021






TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN
NỀN VĂN MINH ẤN ĐỘ
HỌC PHẦN: HIST100402 – LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Họ và tên: Lưu Bảo Vy


Mã số sinh viên: 46.01.608.110
Lớp Học phần: HIST100402

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Trà My

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 6 năm 2021






MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ ................................................................... 2
1.1

Vị trí địa lý và khí hậu ................................................................................... 2

1.2

Cư dân Ấn Độ ................................................................................................ 2

CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ..................................................................... 3
2.1 Thời kì lịch sử văn minh sơng Ấn (từ thế kỉ III đến giữa thế kỉ II TCN) .......... 3
2.2 Thời kì Veda (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN) ............................... 3
2.1.1 Giai đoạn tiền Veda (Rig Vedic Age) 1600- 1000 TCN ............................. 3
2.2.2 Giai đoạn hậu Veda (Later Veda Age) 1000- 600 TCN .............................. 4
2.3 Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII ............................................................. 4
2.3.1 Vương triều Maurya (321 -187 TCN) ......................................................... 4

2.3.2 Vương triều Gupta (320 -550) ..................................................................... 4
2.3.3 Các vương triều sau sự sụp đổ của đế chế Gupta và sự xâm lược của người
Hồi giáo ................................................................................................................ 5
2.4 Ấn Độ từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI .................................................................. 5
2.4.1 Vương triều hồi giáo Dehli (1206 – 1526) .................................................. 5
2.4.2 Vương triều Mughal (1526- 1857) .............................................................. 6
CHƯƠNG 3: THÀNH TỰU VỀ VĂN HỌC ẤN ĐỘ ................................................ 6
3.1 Ngôn ngữ và chữ viết ......................................................................................... 6
3.2 Văn xuôi và thơ .................................................................................................. 8
3.3 Sử thi .................................................................................................................. 9
Sử thi Ấn Độ vốn nổi tiếng với hai bộ là Mahabharata và Ramayana. Cả hai bộ
đều có đặc điểm chung là truyền miệng để bảo tồn và truyền bá đến đời sau. ........ 9
3.4 Tuồng kịch ....................................................................................................... 11
CHƯƠNG 4: THÀNH TỰU VỀ NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ....................................... 12
4.1 Hội họa ............................................................................................................. 12
4.2 Điêu khắc ......................................................................................................... 13
4.3 Kiến trúc........................................................................................................... 13
CHƯƠNG 5: THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC ẤN ĐỘ ........................................... 14
5.1 Thiên văn học ................................................................................................... 14
5.2 Tốn học........................................................................................................... 14
5.3 Hóa học và Vật lý học ...................................................................................... 15
5.4 Y dược học ....................................................................................................... 15






CHƯƠNG 6: TƠN GIÁO ......................................................................................... 16
6.1 Đạo Bà La Mơn và đạo Hindu ......................................................................... 16

6.1.1 Đạo Bà La Môn ......................................................................................... 16
6.1.2 Đạo Hindu (Ấn Độ giáo) ........................................................................... 16
6.2 Phật giáo........................................................................................................... 16
6.3 Đạo Jain ........................................................................................................... 17
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TCN

Trước Cơng Ngun

CN

Cơng Ngun

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Chương 3
Hình 3.1 Bản tiếng Phạn của Devīmāhātmya trên lá bối,
theo lối viết cổ Bhujimol, của Bihār hoặc Nepāl, thế kỷ 11………………………….7
Chương 4
Hình 4.1 Mặt tiền chaitya của Hang 19 ở Ajanta, Tây Bắc Deccan, Ấn Độ…………11
Hình 4.2 Tượng thần Shiva – Chúa tể của các điệu nhảy, thế kỉ 11………………….13
Hình 4.3 Đền Taj Mahah……………………………………………………………...14


1



MỞ ĐẦU
“Văn minh” là món quà của Thượng đế ban cho chúng ta. Văn minh là những phát minh
và những sự tiến bộ có từ lâu đời và chúng ta là những thế hệ sau cần tìm hiểu nó. Đặc

biệt là trong bộ môn Lịch sử văn minh thế giới càng cung cấp cho chúng ta nhiều kiến
thức cho chúng ta. Tôi chọn nền văn minh Ấn Độ là đề tài nghiên cứu vì Ấn Độ có thể
coi là cái nơi của văn minh, của sự tiến bộ.
Mục đích và đối tượng nghiên cứu đề tài
Dựa trên cơ sở nghiên cứu nền văn minh ở Ấn Độ cùng với những thành tựu và cơng
trình nghiên cứu đặc sắc, tiểu luận mang đến cách nhìn tổng quát nhất cho người đọc
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những thành tựu văn minh Ấn Độ cùng với sự phát triển
của văn minh qua các thời kì.
Phạm vi nghiên cứu
Về mặt khơng gian: tồn lãnh thổ Ấn Độ và các nước lân cận có liên quan đến sự hình
thành nền văn minh
Về mặt thời gian: từ trước Công Nguyên đến hiện tại, bắt đầu từ thời kì văn minh sơng
Ấn.
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng nhiều công cụ, phương pháp và nguồn để nghiên cứu. Bao gồm sách tham khảo,
các trang báo và tài liệu điện tử. Sử dụng phương pháp tổng hợp, liệt kê, quy nạp, so
sánh, trích và phân tích đánh giá.
Cấu trúc
Gồm 6 chương
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ẤN ĐỘ
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
CHƯƠNG 3: THÀNH TỰU VỀ VĂN HỌC ẤN ĐỘ
CHƯƠNG 4: THÀNH TỰU VỀ NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ
CHƯƠNG 5: THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC ẤN ĐỘ
CHƯƠNG 6: TÔN GIÁO


2




CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ẤN ĐỘ
1.1

Vị trí địa lý và khí hậu

Ấn Độ là đất nước có vị thế địa lý đặc biệt. Đây là một bán đảo rộng mênh mơng và có
ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và
Afghanistan. Ở Ấn Độ có dãy núi Himalaya nổi tiếng, chắn ngang từ Đông Bắc và Tây
Bắc. Ấn Độ chia làm hai miền Nam và Bắc. Cực Bắc Ấn Độ là tỉnh Kashmir, phía Nam
Kashmir là miền Penjab – nghĩa là “Xứ sở Năm sông” và nơi đơng có sơng Indus dài
một ngàn dặm chảy qua. Đây cũng nơi bắt nguồn của tên đất nước Ấn Độ. Lặng lẽ chảy
về phía đơng nam là sơng Ganges (sơng Hằng). Sông Hằng rộng lớn dần đến thánh địa
Banares – nơi tắm gội, tẩy rửa cho hàng triệu tín đồ tôn giáo mỗi ngày và trong những
dịp lễ. Hai con sông này đã tạo nên hai vùng đồng bằng mùa mỡ ở miền Bắc Ấn Độ và
là cái nôi của Thời kì văn minh lưu vực sơng Ấn. Ở phía tây và phía nam của Rajputana
là nơi tập hợp những thành phố dân cư nhộn nhịp và đông đúc: Surat, Ahmedabad,
Bombay và Poona cịn phía đơng nam là những tiểu quốc Hyderabad và Mysore.
Ấn Độ là nơi đa dạng về khí hậu. Từ dãy núi Himalaya đến dần xuống đảo Ceylon là
khí hậu nóng quanh năm. Miền Bắc bị ảnh hưởng những đợt gió lạnh từ dãy Himalaya
và những đám sương mù. Những lưu vực sông ở Punjab bồi đắp nên những vùng châu
thổ màu mỡ, phì nhiêu nhưng ở phía Nam lại bị nắng gắt khiến các đồng bằng khơ cằn,
thiếu nước. Nơi cao ngun Deccan tuy khí hậu cũng cằn cỗi nhưng nhờ gió biển nên
dịu bớt đi cái nóng bức và oi ả. Ngồi ra, Ấn Độ cũng là khu vực có nhiều rừng rậm với
những lồi dã thú như cọp, chó sói, beo, rắn độc, voi và những vùng đầm lầy là nơi sinh
sống của loài cá sấu. Khí hậu cũng là một phần ảnh hưởng đến tính cách và các quan
niệm tơn giáo, triết học. Những rừng cây có bóng mát thường là nơi lý tưởng cho việc
ngồi thiền, là nơi tụ tập của các đạo sĩ.

1.2


Cư dân Ấn Độ

Đã có nhiều dân tộc sinh sống ở Ấn Độ với những phong tục, tập quán và nền văn minh
khác nhau. Cư dân Ấn Độ chủ yếu chia thành hai loại chính và phân chia ở hai miền
Nam và Bắc: người Aryan chủ yếu ở miền Bắc, người Dravidian chủ yếu ở miền Nam.
Người Aryan có thể họ xuất phát từ vùng biển Caspian, bắt đâu ồ ạt xâm lăng người
Dravidian. Aryan là những người có thân hình vạm vỡ, sức ăn khỏe, tính cách thơ bạo
nhưng tài giỏi trên chiến trận nên đã nhanh chóng làm chủ vùng Bắc Ấn. Cịn người
Dravidian vì bị người Aryan đánh đuổi nên đã chạy xuống cư trú ở phương Nam. Họ
sống theo chế độ mẫu hệ, mắt đen, mũi to và nước da sậm màu. Khi bị xâm lăng thì dân
tộc Dravidian đã văn minh rồi. Hiện nay ở phía cao nguyên Deccan, các học giả cho
rằng về huyết thống, ngôn ngữ, nghệ thuật và văn học đều thuộc về người Dravidian.
Những người nói tiếng Dravidian thường được tìm thấy ở Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan,
Nepal, Maldives và Sri Lanka.Tuy nhiên, do những cuộc xăm lăng và di cư sau này nên
ở Ấn Độ cịn có các nhiều tộc người khác nên vấn đề bộ tộc ở Ấn Độ khá là phức tạp và
có sự pha trộn từ nhiều dịng máu khác nhau. Bên cạnh đó, nền văn minh của Ấn Độ cổ
đại còn gồm các nước Ấn Độ, Băngledet, Pakixtan và Nepan của thế giới ngày nay.




3

CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
2.1 Thời kì lịch sử văn minh sông Ấn (từ thế kỉ III đến giữa thế kỉ II TCN)
Trước đây, người ta không phát hiện ra nhiều dấu tích của thời kì này. Những chứng
tích của giai đoạn này đã bị chôn vùi vào lớp đất đá. Mãi đến năm 1922, các nhà khảo
cổ đã phát hiện ra Mohenjo-Dero và Harappa – nơi chứa nhiều di tích của một nền văn
minh mà họ chưa từng biết đến trước đây. Hai địa điểm này cách nhau khoảng vài trăm

dặm. Harappa ở phía Tây Punjab, thượng lưu sơng Indus cịn Mohendjo – Daro ở miền
Sind, hạ lưu sông Indus. Ở khu vực Harappa, họ phát hiện ra những thành phố nằm
chồng lên nhau, có nhiều ngơi nhà và cửa tiệm được xây kiên cố, thậm chí có những
ngôi nhà lầu. Điều kiện sinh hoạt xã hội của những người dân thời đó cũng rất phát triển,
có sự tồn tại của thành thị, có phịng tắm riêng, có hệ thống dẫn nước tưới tiêu. Những
di vật được khai quật cũng rất đa dạng loại và hình thù: có đồ gia dụng, đồ sứ, đồ gốm
có hoa văn bên trên, những con cờ, xúc văn và cả những đồng tiền cổ họ chưa từng thấy
trước đây. Họ còn sản xuất binh khí và dụng cụ bằng đồng, nhiều lồi trang sức, vòng
vàng đeo tay hay cổ chân và nhiều lồi trang sức khác. Ở Harappa, người ta đã tìm thấy
con dấu hình vng hoặc chữ nhật, bằng đất nung, có hình người ngồi chéo chân và tay
để trên đầu gối, mắt nhắm, tựa như các đạo sĩ đang ngồi thiền. Dựa vào các hiện vật,
văn hóa sơng Indus được định niên đại vào khoảng 3000 – 1500 năm TCN, các nhà khảo
cổ học xác nhận thuộc Nền văn minh lưu vực sơng Ấn.
2.2 Thời kì Veda (từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN)
Thời kì Veda là thời kì người Aryan xâm nhập vào Ấn Độ. Họ tiến vào Ấn Độ mang
theo tiếng Phạn và tín ngưỡng tôn giáo của họ để di cư vào Ấn Độ. Gọi là thời kì Veda
vì lịch sự thời nay và những tập tục, cuộc sống đời thường được phản ánh trong kinh
Veda và hai bộ sử thi là Mahabharata và Ramayana. Kinh Veda là tác phẩm gồm 4 tập:
Rig Veda, Sama Veda, Yajur Veda và Arthava Veda. Trong đó Rig Veda là tập xưa
nhất, quan trọng nhất và Indra, Varuna, Agni là những thần được ca tụng nhiều nhất.
Thời này có nhiều tập tục liên quan đến tế lễ cho thần linh. Thần mưa là Parjanya, thần
lửa là Agni, thần gió là Vayu, thần sấm sét là Indra, thần Dayus và nhiều thờ nhiều vị
thần khác. Thời kì Veda được chia làm 2 giai đoạn: giai đoạn tiền Veda (Rig Vedic Age)
1600 – 1000 TCN và giai đoạn hậu Veda (Later Vedic Age) 1000 – 600 TCN.
2.1.1 Giai đoạn tiền Veda (Rig Vedic Age) 1600- 1000 TCN
Thời kỳ tiền Veda hay còn được biết đến là Rig Veda. Trong thời, chính trị được tổ chức
dưới hình thức các bộ lạc. Bộ máy chính quyền của người Aryan thời kỳ Rig Veda được
cai trị bởi người đứng đầu thị tộc và cũng được gọi là Rajan tức là Vua. Xã hội thời này
xem gia đình là nền tảng của xã hội và mang tính chất gia trưởng. Người cha là người
đứng đầu gia đình và được gọi là Grahapathi. Tuy nhiên vai trị của phụ nữ cũng khá

bình đẳng so với nam giới và được hưởng giáo dục, ngoài ra cịn là nội trợ của gia đình.
Kinh tế thời Rig Veda dựa vào săn bắn là chính, họ cũng ni trâu và bị để phục vụ
nơng nghiệp cùng với các loại gia súc khác. Nghề thợ mộc, thợ gốm, thợ rèn cũng rất
phát triển. Kinh tế thương mại cũng bắt đầu phát triển thông qua việc trao đổi các loại
hàng hóa, vật phẩm và đồng tiền được sử dụng gọi là nishka. Về mặt tơn giáo, tín ngưỡng




4

họ coi Thượng đế là chân lý cao cả nhất cùng với việc thờ các vị thần. Tuy nhiên giai
đoạn này tơn giáo chỉ thể hiện theo khía cạnh là huyền thoại chứ không theo hướng triết
học.
2.2.2 Giai đoạn hậu Veda (Later Veda Age) 1000- 600 TCN
Giai đoạn này có bộ kinh Upanishad nói về 3 vấn đề triết học căn bản là linh hồn, luân
hồi và giải thoát, bên cạnh đó cịn là sự ra đời 2 bộ sử thi Ramayana và Mahabharata.
Nhà vua khơng cịn duy trì hệ thống quân đội bộ binh nhưng vẫn tập hợp các bộ lạc nếu
có chiến tranh. Bắt đầu xuất hiện chế độ đẳng cấp (varna) dựa trên sự phân biệt về chủng
tộc, màu da, dịng dõi, nghề nghiệp, tơn giáo, quan hệ giao tiếp, tục cấm kỵ hơn
nhân…được hình thành trong thời kỳ người Aryan xâm chiếm Ấn Độ. Đây cũng là giai
đoạn tạo sự ảnh hưởng đến tư tưởng Ấn Độ thời kì cổ đại. Kinh tế phát triển do người
Aryan và Dravidan bắt đầu đồng hóa và tiếp thu những kĩ thuật và văn minh của người
Dravidian. Kinh tế nông nghiệp làm trọng tâm, chăn nuôi gia súc giảm và khái niệm sở
hữu đất đai được hình thành.
2.3 Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XII
Sử sách Ấn Độ bắt đầu được ghi chép từ thế kỉ VI TCN. Thời bấy giờ, miền Bắc Ấn Độ
có đến 16 nước và Madaga là nước mạnh nhất nằm ở khu vực hạ lưu sông Hằng.
Alexander xâm lược phần đất phía tây nam Ấn Độ vào năm 327 TCN, phần Bắc Ấn của
vương triều Nanda do người Ấn Độ cai quản

2.3.1 Vương triều Maurya (321 -187 TCN)
Chandragupta Maurya là vị vua đầu tiên thành lập vương triều Maurya vào năm 322
TCN bằng việc lật đổ vương triều Nanda và nhanh chóng mở rộng thế lực của mình về
phía tây đến vùng trung và tây Ấn Độ. Năm 320 TCN, Chandragupta Maurya đã hồn
tồn kiểm sốt được vùng tây bắc Ấn Độ, từ đó vương triều Maurya trở thành một thế
lực hùng mạnh ở lãnh thổ Ấn Độ cổ đại, kinh đô đặt tại Pataliputra (nay là Patna) cai trị
từ năm 321 đến 185 TCN. Năm 297 TCN, Chadragupta đi vào rừng, từ bỏ cõi thế và
đến nay vẫn chưa xác định được năm mất của ông. Kế thừa cha ông mình cai trị đất
nước là vua Ashoka. Thời Ashoka (273 -236 TCN) cũng được coi là giai đoạn hưng
thịnh và phát triển nhất, bao gồm nông nghiệp và công thương nghiệp. Thêm vào đó
thời kì này cũng có một đội quân đông đảo và thiện chiến. Về mặt tôn giáo, Đạo Phật ra
đời từ trước đó và đến giai đoạn này đã nhanh chóng trở thành quốc giáo. Đến năm 28
TCN thì hồn tồn tan rã.
2.3.2 Vương triều Gupta (320 -550)
Giai đoạn ghi lại lịch sử từ khi vua Ashoka qua đời cho đến khi vương triều Gupta được
thành lập rất hiếm thấy, giai đoạn này dài khoảng gần 600 năm.
Đầu Công nguyên, miền Bắc Ấn Độ được thống nhất lại, bước vào một thời kì mới phát
triển cao của lịch sử Ấn Độ - thời Vương triều Gupta. Vương triều Gupta có 9 đời vua
(319 – 467). Nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, nghề luyện kim đạt trình độ
cao, nghề dệt vải mở rộng. Nét đặc sắc của thời kì này là sự phát triển văn hóa chính




5

thức. Tơn giáo vẫn phát triển ở thời kì này, đặc biệt là Phật giáo và Hindu giáo. Đến 535
vương triều Gupta bị diệt vong.
2.3.3 Các vương triều sau sự sụp đổ của đế chế Gupta và sự xâm lược của người Hồi
giáo

Vương triều Maukharis (554 CN - 606 CN) đã vươn lên như một cường quốc sau sự sụp
đổ của đế chế Gupta. Khu vực cốt lõi của vương quốc là thủ phủ Kanyakubja (hiện là
thành phố Kannauj ngày nay). Sự nổi lên của vương quốc Kanyakubja chỉ tồn tại trong
thời gian ngắn và cuối cùng nó được gọi là vương quốc cơ sở mà các đế chế trong tương
lai tranh giành gay gắt.
Các vương triều Pushyabhuti hay còn gọi là Vardhana (500 – 647 CN). Khu vực cốt lõi
của vương quốc nằm là bang Haryana ở Ấn Độ ngày nay. Pushyabhutis đã thành lập
một vương quốc hùng mạnh cạnh tranh với các cường quốc khác trong khu vực để giành
quyền tối cao chính trị ở Ấn Độ và dưới thời Harsha, đã đạt được địa vị đế quốc. Người
cai trị đáng chú ý nhất của triều đại này là người cai trị cuối cùng của nó, Hồng đế
Harshavardhana hay cịn được gọi là Harsha (606 -647), ơng là người cai trị đáng chú ý
nhất của triều đại này cũng là người cai trị cuối cùng của đế chế vĩ đại ở Ấn Độ trước
cuộc xâm lược của người Hồi giáo. Tuy nhiên, vương triều Pushyabhuti cũng có cái kết
giống vương triều Maukharis, đó là chỉ tồn tại một thời gian ngắn.
Sau khi triều đại của Harsha kết thúc cho đến đầu thế kỷ XII, Ấn Độ bị chia cắt trầm
trọng, đặc biệt là bị xâm lược bởi người Hồi giáo. Cuộc xâm lược của người Hồi giáo
cỡ lẽ là cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại. Các dân tộc Hồi giáo dần tiến
về phương Nam, cùng với sự liên kết của các vua Hồi các xứ đã triệt hạ các ông vua Ấn.
Trong giai đoạn 400 năm (600 -1000) là giai đoạn Ấn Độ trở thành con mồi của đoàn
người xâm lược Hồi giáo. Mở đầu là cuộc cướp bóc tại Multan, miền Tây Punjab (năm
664). Họ chiếm đoạt nhiều chiến lợi phẩm, vơ vét các kho lương thực, phá hoại đền thờ,
cung điện và tát sàn những người dân vô tội. Những cuộc tàn phá tương tự cứ liên tục
liên tục diễn ra trong 3 thập kỉ tiếp theo. Năm 997, một thủ lãnh tên là Mahmud đang
làm vua cai trị tiểu quốc Ghazni, miền đơng Afghanistan có ý định xâm chiếm Ấn Độ.
Mahmud cho đội quân của mình tàn sát kẻ thù, cướp phá các đô thị, tàn sát dân chúng
để thu được cả kho tàng châu báu, vàng ngọc. Vì cứ cướp bóc trong thời gian dài, ơng
có lẽ là vị vua giàu nhất lịch sử nhân loại. Vua Mahmud cai trị được một phần ba thế kỉ
thì mất.
2.4 Ấn Độ từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI
2.4.1 Vương triều hồi giáo Dehli (1206 – 1526)

Bộ lạc Ghuri của người Turk ở Afghanistan bắt đầu xăm lăng Ấn Độ, chiếm đô thị Dehli,
phá đền đài, cướp phá đền đài dẫn đến sự thành lập triều đại Hồi giáo ở Dehli (1206) và
cai trị vùng Bắc Ấn trong vòng 3 thế kỉ. Từ năm 1206 – 1526 trải qua 5 vương triều:
Mamluk (1206–1290), Khalji (1290–1320), Tughlaq (1320–1414), Sayyid (1414–51),
Lodhi (1451–1526) và tất cả các khu vực của Pakistan hiện nay đều thuộc quyền cai trị
của Delhi. Điểm chung của 5 vương triều là đều bị cai trị bởi những người ngoại tộc Hồi
giáo Dehli. Nhưng không thể phủ nhận rằng những ông vua này đều là những người tài


6



năng, bọn tay chân thì tận tụy và trung thành. Vì vậy khơng q khó hiểu tại sao Vương
triều hồi giáo Dehli lại tồn tại và duy trì được quyền cai trị giữa một dân tộc đang hận
thù họ. Các quốc vương của Dehli rất thích tạo mối quan hệ
với các nhà cai trị Hồi giáo ở Cận Đông nhưng không trung thành với họ. Tuy cai trị ở
đô thị nhưng các trại quân sự và thương mại lại tập trung ở nơng thơn. Nhưng bản chất
chính quyền nào cũng sẽ thay đổi. Do chính sách cai trị nghiêm ngặt và tàn khốc nên
không được sự ủng hộ của người Hindu và cả người Hồi giáo. Vương triều hồi giáo
Dehli chính thức kết thúc khi bị bọn xăm lăng tràn xuống từ phía phương Bắc.
2.4.2 Vương triều Mughal (1526- 1857)
Các đế quốc Mông Cổ (1206-1368) được thành lập bởi Thành Cát Tư Hãn hay còn gọi
là Gengis Khan (1206-1227), Genghis đã xây dựng đế chế bằng cách hợp nhất các bộ
lạc du mục trên thảo nguyên châu Á. Từ thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở khu vực Trung
Đông đã nhiều lần xâm lược Ấn Độ. Họ đánh chiếm Dehli, nắm quyền kiểm soát trên
phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ. Người đầu tiên chiến thắng là Tamerlane (Timur) xem Hồi
giáo là vùng đất chiến tranh, tự xưng là hậu duệ của Genis Khan để lợi dụng sự giúp đỡ
của người Mơng Cổ. Các vua nhà Mughal đều thuộc dịng dõi nhà Timur. Giai đoạn cực
thịnh của đế quốc Mughal được bắt đầu khi Akbar Đại Đế lên ngôi năm 1566. Akbar có

nghĩa là “vơ cùng vĩ đại”. Năm 18 tuổi ơng tiếp quản tồn bộ quyền hành. Akbar khát
khao mở rộng bờ cõi bằng các cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Sau khi thống trị
toàn cõi Ấn Độ và quay về Dehli, ơng tổ chức lại triều chính. Nhà vua thời đó nắm cả
ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Akbar biết cách chi tiêu tiết kiệm cho quốc
gia, luật pháp và thuế khơng cịn hà khắc như trước, bỏ chế độ bắt tù linh làm nô lệ, cấm
sát sinh để tế thần linh, cho phép tự do phát triển tôn giáo và các ngành nghề. Ơng cịn
có thiên hướng và khao khát trở thành triết gia. Sự sụp đổ của đế quốc Mông Cổ này bắt
đầu khi Aurengzeb qua đời năm 1707, tuy nhiên đế chế Mughal vẫn còn tồn tại thêm
một thời gian nữa. Đến năm 1849, thực dân Anh bắt đầu ồ ạt xâm chiếm, Ấn Độ nhanh
chóng trở thành thuộc địa của Anh. Vương triều Mughal chính thực bị tan rã.

CHƯƠNG 3: THÀNH TỰU VỀ VĂN HỌC ẤN ĐỘ
3.1 Ngôn ngữ và chữ viết
Các tác phẩm triết học và văn học của Ấn Độ thời Trung cổ đa phần được viết bằng
tiếng Sanskrit. Tiếng Sanskrit hay còn gọi là tiếng Phạn, là cổ ngữ của Ấn Độ (Bắc
Phạn). Cổ xưa nhất là tiếng Phạn Vedic được tìm thất trong tác phẩm Veda, cụ thể là
Rig Veda. Nhưng do nhu cầu thuyết giảng của các học phái nên tiếng Sanskrit nhanh
chóng bị biến đổi thành từ ngữ mới, làm mất đi sự giản dị vốn có trong Veda, trở thành
những chữ dài ngoằng, ví dụ như chữ “citerapratisamkramayastadakarapattau” (Will
Durant, 1963).




7

Hình 3.1 Bản tiếng Phạn của Devīmāhātmya trên lá bối, theo lối viết cổ Bhujimol, của
Bihār hoặc Nepāl, thế kỷ 11
Nguồn: Nguyên Thế/ GiácNgộ, 2018, Tam tạng Sanskrit là gì?
truy cập ngày 30/6/2021

Vào thế kỉ thứ 5 TCN, tiếng Sanskrit biến đổi thành tiếng Prakrit, trở thành ngơn ngữ
chính của các tín đồ đạo Phật và đạo Jaina. Cũng trong khoảng thời gian đó, khảo tự
Kharosthi cũng được mơ phỏng bằng chữ Semitic – loại chữ thuộc vùng Lưỡng Hà. Họ
viết trong kinh của Phật giáo và các bộ sử thi. Ngôn ngữ này được viết trên lá cọ và vỏ
cây, dùng dây để xâu những vỏ cây đó thành sách. Vào khoảng năm 1000, người Hồi
giáo mang giấy viết đến Ấn Độ nhưng vẫn chưa thay thế được vỏ cây và lá cọ.
Hệ thống chữ viết Brahmi xuất hiện vào thế kỉ thứ 2 TCN là hệ thống chữ viết sớm nhất
được phát triển ở Ấn Độ. Nó là một trong những hệ thống chữ viết có ảnh hưởng nhất
sau chữ Kharosthi, tất cả các chữ viết hiện đại của Ấn Độ và hàng trăm chữ viết được
tìm thấy ở Đơng Nam và Đơng Á đều có nguồn gốc từ Brahmi. Tiếng Prakrit lại tiếp tục
biến đổi thành tiếng Pali mà tiền thân của nó là khẩu ngữ vùng Magada. Tiếng Pali dùng
để viết kinh sách đạo Phật thời cổ, hiện nay vẫn còn. Hệ thống chữ viết Brahmi là hệ
thống chữ viết sớm nhất được phát triển ở Ấn Độ. Nó là một trong những hệ thống chữ
viết có ảnh hưởng nhất; tất cả các chữ viết hiện đại của Ấn Độ và hàng trăm chữ viết
được tìm thấy ở Đơng Nam và Đơng Á đều có nguồn gốc từ Brahmi. Cuối thế kỉ 10 đã
phát sinh ra nhiều loại ngôn ngữ mới, quan trọng nhất là tiếng Hindi, sau đó tiếp tục
chuyển thành tiếng Hindustani. Đến thời kì Ấn Độ bị người Hồi giáo xâm lăng, người
Hồi giáo đã đem theo các từ ngữ Ba Tư, biến chúng trở thành tiếng Urdu ở miền Bắc
Ấn Độ. Người Dravidan ở cao nguyên Deccan vẫn giữ nguyên ngôn ngữ của dân tộc
mình, bao gồm: tiếng Tamil, tiếng Telugu, tiếng Kanarese, tiếng Malayalam. Trong đó,
tiền Tamil là ngơn ngữ chính thức và phổ biến ở Tamil Nadu – một phần miền Nam Ấn
Độ. Cho đến hiện nay, Ấn Độ vẫn cịn tồn tại nhiều ngơn ngữ khác nhau và khơng có
ngơn ngữ thống nhất chung.
Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được hơn 3.000 con
dấu khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỉ từ khi phát hiện lần đầu tiên vào năm 192, nhiều
tác giả của nhiều nướcc đã nghiên cứu cách đọc loại chữ này nhưng chưa thành công.
Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là Tiến sĩ S. R. Rao đã
khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này. Theo ơng Rao, đây là một loại chữ dùng hình





8

vẽ để ghi âm và ghi vần. Trong số hơn 3.000 con dấu ấy có 22 dấu cơ bản. Lọai chữ này
chủ yếu viết từ phải sang trái. Những con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng
để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa
đó. (Vũ Dương Ninh, Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo, tái bản
lần thứ mười hai).
3.2 Văn xuôi và thơ
Đối với người Hindu, những gì thơ mộng và lãng mạn đều được thể hiện bằng thơ ca vì
thơ dễ ngâm, dễ nhớ và dễ truyền miệng. Truyện ngụ ngôn và sử ký ở đất nước Ấn Độ
thường được thể hiện bằng thơ.
Ấn Độ có kho tàng về ngụ ngơn khá phong phú. Có hai loại sách được coi là dạy về
chính trị và đạo đức là Panchatantra và bộ Hitopadesha. Tập ngụ ngôn nổi tiếng nhất
không thể không nhắc đến là tập Panchatantra có nghĩa là năm quy tắc ứng xử được viết
theo tiếng Sanskrit vào khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, do Vichnousarman biên soạn. Còn bộ
Hitopadesha các câu chuyện ngụ ngôn dựa trên tập Panchatantra. Người Hindu sống
trong tín ngưỡng và những chuẩn mực đạo lí xã hội nên họ chấp nhận các bộ sử thi là
lịch sử, dùng truyền thuyết làm tiểu sử. Cụ thể là cuốn Buddhacharita của Ashvaghosha
ghi chép về Đức Phật và cuốn Harshacharita viết về tiểu sử vua Harsha. Cả hai cuốn đều
nói về lịng u nước, tơn thờ tín ngưỡng nhiều hơn là lịch sử.
Người Hồi giáo lại có nhận thức sâu sắc và rõ ràng hơn về lịch sử. Thời Akbar có một
sử gia kiệt xuất, Muhammad Qazim Firishta, mà bộ Lịch sử Ấn Độ của ông là sách
hướng dẫn đáng tin cậy nhất về các biến cố trong giai đoạn Ấn Độ bị người Hồi cai trị
(Will Durant,1963). Đồng thời, Abu-I-Fazl là một vị tể tướng trong thời Đại đế Alkbar
đã ghi chép lại thuật trị quốc của vua Akbar trong tác phẩm Ain-I Akbari.
Ấn Độ là đất nước sản sinh ra những nhà thơ tuyệt vời. Số lượng có thể lên đến hàng
trăm, hàng ngàn. Fayadeva với tập Gita-Govinda đã diễn tả sự yêu đương của người
Hindu mang sắc thái tơn giáo, là tình u giữa thần Radha và Krishma, mang vẻ thần bí

và hướng về Thượng Đế. Nhà thơ Chand Bardai dùng ngơn ngữ bình dị viết về lịch sử
bằng tiếng Hindu. Cịn có Sur Das, nhà thơ mù viết 60000 câu thơ về cuộc đời và chuyến
phiêu lưu của thần Krishna. Thi hào lớn nhất của văn học Hindu là Tulsi Das, cùng thời
với thi hào Shakespeare ở nước Anh. Ông viết một bộ sử thi và tôn giáo với tựa đề là
Ramacharita-manasa (tiếng Việt là Hồ các truyền kì về Rama). Trong khi đó, tại cao
ngun Deccan, cũng có nhà thơ Tukaram sáng tác đến 4600 bài thơ về tôn giáo bằng
tiếng Mahrathi, ngày nay các tác phẩm của ơng vẫn cịn lưu truyền ở Ấn Độ.
Cuối cùng, không thể thiếu Kabir Das – nhà thơ trữ tình vĩ đại và là người chỉ trích các
tơn giáo qua các tác phẩm. Ông vốn là người Hồi giáo, nhưng đã đi theo thầy mình là
nhà lãnh đạo tên là Ramananda và trở thành tín đồ thờ Rama. Ông tôn thờ Rama là vị
thần chung của nhân loại, tơn thờ một tín ngưỡng khơng có thánh đường, khơng có đền
thờ hay tượng. Ơng đã bị đe dọa bởi cả những người theo đạo Hindu và đạo Hồi vì quan
điểm của mình. Tuy vậy, đạo lý của ơng rất giản dị, ông sống hạnh phúc và luôn chấp
nhận với cuộc sống hiện thực. Ơng viết về thơ tình cũng rất hay. Tập thơ Songs of Kabir




9

(Những khúc hát của Kabir) do Rabindranath Tagore, dịch từ tiếng Hindi sang tiếng
Anh, sau đã được nhà thơ Bùi Xn dịch một đoạn như sau:
XII
Nói với tơi, Ơi Thiên Nga, chuyện xưa của bạn.
Từ mảnh đất nào bạn tới, Ôi Thiên Nga? Bạn sẽ bay đến bờ biển nào?
Bạn sẽ làm tổ ở đâu, Ôi Thiên Nga, và bạn sẽ tìm kiếm gì?
Ngay sáng nay, Ơi Thiên Nga, hãy thức giấc, vươn mình, theo tơi.
Nơi đó là vùng đất khơng có sự ngờ vực hoặc sự kêu than của những
luật lệ: nơi đó sự khiếp sợ của Thần Chết cũng khơng,
Nơi đó, khu rừng mùa xn là một bơng hoa, và thơm ngát mùi hương

“Bạn là Tôi” được sinh ra trên gió:
Nơi đó, con ong của trái tim được đắm mình, và mong muốn khơng có niềm vui khác.
XXX
Trên tán cây này có một con chim: nó nhảy nhót trong niềm vui cuộc sống.
Khơng ai biết nó từ đâu tới: và chẳng ai hay, đâu là nỗi nhọc nhằn để nó
có thể có được tiếng hót?
Nơi cành cây tỏa bóng râm, chim có chiếc tổ của mình: nó về tổ buổi tối và sớm mai
bay đi, khơng nói một lời trong đó chứa nghĩa của nó.
Khơng ai nói với tơi rằng con chim này đang hót trong tơi.
Nó có thể khơng có sắc màu mà cũng khơng thể có sắc màu, nó khơng có hình thức mà
cũng khơng có đường nét:
Nó đậu trong bóng tối tình u.
Nó cư ngụ trong cái Không Thể Vươn Tới, cái Vô Biên, và cái Vĩnh Cửu; và khơng
một dấu vết khi nó đến hoặc đi.
Kabir nói: “Ơi người anh em Sadhu! sâu thẳm là điều bí ẩn. Hãy để cho người khơn
ngoan biết được nơi nghỉ ngơi của chim.”

Nguồn:
Bùi
Xuân
dịch,
2016,
Thơ
tình
của
Kabir,
/>truy cập ngày 30/6/2021
3.3 Sử thi
Sử thi Ấn Độ vốn nổi tiếng với hai bộ là Mahabharata và Ramayana. Cả hai bộ đều có
đặc điểm chung là truyền miệng để bảo tồn và truyền bá đến đời sau.

Mahabharata là bài thơ sử thi tiếng Phạn cổ đại kể về câu chuyện của vương quốc
Kurus, là sử thi vĩ đại của triều đại Bharata. Thánh Vyasa được công nhận là người đầu
tiên biên soạn Mahabharata, dần dần qua nhiều thế kỉ đã được bổ sung thêm nhiều chi
tiết và được viết tiếp bởi nhiều tác giả. Đến thời vua Gupta, các Brahman đã viết thêm
những tư tưởng về tôn giáo và đạo đức khiến Mahaharata trở thành bộ sử thi đồ sộ như
hiện nay: 18 chương và 220.000 câu. Thực chất, Mahabharatra kể về câu chuyện mang
tính bạo lực và chiến tranh hơn là giáo huấn đạo lý vì bộ sử thi này kể về cuộc chiến
giữa các bộ tộc Kuru và Panchala ở tiểu lục địa Ấn Độ.




10

Câu chuyện chính kể về năm người con trai của Vua Pandu đã qua đời (người
Pandavas) và 100 người con trai của Vua mù Dhritarashtra (người Kauravas), những
người chống lại nhau trong cuộc chiến tranh giành quyền sở hữu vương quốc Bharata
của tổ tiên trên sông Ganga ở miền trung bắc. Ấn Độ. Nhân vật chính trong sử thi là
thần Krishna.
Mặc dù Krishna có quan hệ họ hàng với cả Pandu và Dhritarashtra, nhưng anh ta háo
hức chứng kiến chiến tranh xảy ra giữa hai gia tộc và coi các con trai của Pandu là
công cụ của con người để hồn thành mục tiêu đó. Các nhà lãnh đạo của cả hai gia tộc
tham gia vào một trò chơi xúc xắc, nhưng trị chơi bị gian lận theo lợi ích của
Dhritarashtras và gia tộc Pandu thua cuộc, đồng ý sống lưu vong 13 năm.
Khi thời kỳ lưu vong kết thúc và gia tộc Pandu trở lại, họ nhận thấy rằng các đối thủ
của họ không muốn chia sẻ quyền lực. Kết quả là chiến tranh nổ ra. Sau nhiều năm xung
đột bạo lực, trong đó cả hai bên thực hiện vô số hành động tàn bạo và nhiều trưởng lão
gia tộc bị giết, Pandavas cuối cùng đã xuất hiện và giành chiến thắng.
Trong những năm sau chiến tranh, Pandavas sống một cuộc sống khổ hạnh trong một
ẩn thất trong rừng. Krishna bị tàn sát trong một cuộc ẩu đả say rượu và linh hồn của

anh ta tan biến trở lại thành Thần tối cao Vishnu. Khi họ biết được điều này, Pandavas
tin rằng đã đến lúc họ phải rời khỏi thế giới này. Họ bắt đầu một cuộc hành trình vĩ đại,
đi về phía bắc hướng tới thiên đường, nơi những người chết của cả hai gia tộc sẽ sống
hòa thuận.
Nhiều tình tiết phụ đan xen xuyên suốt văn bảnsử thi, theo chân nhiều nhân vật khi họ
theo đuổi chương trình nghị sự của riêng mình, vật lộn với những tình huống khó xử về
đạo đức và xung đột với nhau. (The Story of the Mahabharata, India's Longest Epic
Poem, 2018, />Ramayana là một trong những sử thi cổ đại lớn nhất trong văn học thế giới ngày nay,
do Valmiki sáng tác, có từ năm 1500 TCN theo một số nhà học giả thời trước nhận định.
Những cơng trình nghiên cứu gần đây thì cho là khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Sử thi
Ramayana có 7 chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới được thêm vào,
dài khoảng 1000 trang, gồm 24000 câu thơ đơi, tức là 48000 dịng thơ. Ramayana thuật
lại chuyện tình giữa chàng hồng tử Rama và nàng Sita.
Trong thời Vêđa, vương quốc Côxala được sống trong cảnh thanh bình dưới sự trị vì
của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là Rama, một thanh niên thơng minh
dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm thái tử nối ngơi.
Gần đó, có một vương quốc khác là Viđêha, dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới
quyền thống trị của vua Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà
vua đang cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp. Nhà vua đem về
nuôi, đặt tên là Sita và coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một
cuộc thi bắn cung để kén phò mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có
Rama giương nổi cây cung của nhà vua. Rama được kết hôn với công chúa Sita.




11

Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hồng hậu có con trai là Rama được
làm thải tử nối ngôi nên yêu câu vua đày Rama ra khỏi đất nước 14 năm. Rama cùng

Sita đến sống ở trong rừng. Một cơng chúa góa chồng một hơm dạo chơi trong rừng
gặp Rama rồi đem lòng yêu chàng. Bị từ chối quyết liệt, nàng công chúa ấy tức giận nên
bảo em trai mình là Ravan, vua nước Quỷ ở đảo Lanca bắt cóc Sita.
Nhờ sự giúp đỡ của vua nước Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được một đội quân gồm
toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama, một cái cầu được xây dựng nối liền lục địa với
đảo Lanca. Ngày nay, giữa Ấn Độ và Xri Lanca có những hòn đảo mà theo truyền thuyết
của cư dân địa phương, đó chính là dấu vết của cái cầu ấy. Với đội quân vượn và gấu
đó, Rama đánh bại vua nước Quỷ và cứu được Sita. Thời gian đi đày cũng hết, Rama
trở về đất nước của mình và lên làm vua.
Chương cuối do người đời sau thêm vào kể tiếp rằng mặc dầu Sita đã thắng được cuộc
thử lửa, Rama vẫn nghĩ nàng khơng giữ được trinh tiết với mình trong thời gian ở trong
cung điện của Ravan, nên Rama đã đày vợ vào rừng. Tại đây, Sita sinh được 2 đứa con
trai và gặp Vanmiki mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên 2 đứa con ấy trở
thành người đi hát rong và một hôm chúng đã hát cho Rama nghe bản trường ca
Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung. Sita được
minh oan nhưng vẫn đau khổ vì đã bị chồng nghi ngờ nên biến vào lịng đất, người mẹ
trước đây đã sinh ra nàng từ luống cày. Rama tiếp tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân
dân được sống yên vui, nhưng bản thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu cô độc.
(Lịch sử thế giới, Vũ Ngọc Ninh)
Hai tác phẩm Mahabharata và Ramayana đều để lại nhiều cảm hứng sáng tác cho đời
sau. Ngoài ra, còn nhiều tác phẩm khác viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhìn chung
nền thi ca mang ngơn ngữ dân gian, sử dụng nhiều tiếng khác nhau để phiên dịch và
sáng tác, mang tính lịch sử hào hùng pha trộn sự lãng mạn nhẹ nhàng, thể hiện được tâm
tư và nguyện vọng của dân chúng.
3.4 Tuồng kịch
Không thể xác định tuồng kịch bắt đầu chính xác vào năm nào nhưng nguồn gốc của
tuồng kịch có thể từ các nghi thức lễ hội, từ các đám rước của tôn giáo, từ việc nhảy
múa và có thể bắt nguồn từ những buổi diễn ngâm sử thi. Những điều này đã góp phần
tạo ra tuồng hát Ấn Độ, mang dấu ấn tôn giáo, chủ đề có thể lấy từ kinh Veda hoặc các
bộ sử thi. Khơng có ghi chép hay chứng tích về nghệ thuật tuồng kịch Hindu hoặc các

chứng cứ rất mơ hồ. Những tuồng kịch cổ hiện nay chỉ còn là những bản viết tay trên lá
cọ, hoặc được biểu diễn qua nhiều thời kì nhưng có thêm thắt chi tiết cho thêm sinh
động.
Mirchakatika (Cổ xe đất sét) là vở tuồng cổ nhất của Ấn Độ. Vở tuồng này được viết
bằng tiếng Sanskrit vào thế kỉ thứ II TCN, tác giả là Shudraka. Đây có lẽ là vở tuồng
hấp dẫn nhất ở Ấn Độ, được biểu diễn trong 10 màn. Cổ xe đất sét có cốt truyện phức
tạp, pha trộn nhiều cảm xúc, đầy những tình tính lãng mạn, vui nhộn, hài hước và cả
những âm mưu hồng gia đầy bí hiểm. Câu chuyện xoay quanh chuyện tình của chàng
trai trẻ Charudtta và cơ hầu gái Vasantasena thuộc nhà giàu có. Mối tình trở thành mối


12



tình tay ba khi chàng cận thần hồng gia cũng bị thu hút vởi Vasantasena. Bên cạnh đó
là sự phức tạp và nhầm lẫn của những tên trộm gây ra đã làm vở tuồng thêm phần thú
vị.
Vở kịch Shakuntala do Kalidasa tạo ra được xem là vở kịch nổi tiếng nhất của tuồng
kịch Hindu. Kalidasa là nhà thơ và cũng là nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỉ V).
Tuồng kịch Shakutana gồm 7 màn, viết vê chuyện tình giữa nàng Shakuntala và vua
Dushyanta. Họ cùng trải qua nhiều sóng gió, trắc trở nhưng cuối cùng hai người đã đến
bên nhua và sống hạnh phúc đến cuối đời.
Có thể thấy rằng, đặc điểm chung của tuồng kịch Ấn Độ là dài hơn so với các kịch
phương Tây. Mỗi vở kịch diễn ra từ 5 đến 10 màn, chia thành nhiều cảnh. Sân khấu
được dựng sơ sài nhưng y phục lại màu mè và diêm dúa. Kịch thường thể hiện trí tưởng
tượng bay bổng, sáng tạo, đầy chất thơ, gợi xúc cảm người xem tuy nhiên hay có nhiều
đoạn trùng nhau. Nếu thơ ca Hindu phản ánh triết học khô khan thì trên sân khấu tuồng
kịch lại khơng hề có bi thương. Kết thường có hậu, tình u chung thủy trước sau như
một và người tốt luôn được báo đáp xứng đáng.

CHƯƠNG 4: THÀNH TỰU VỀ NGHỆ THUẬT ẤN ĐỘ
Ấn Độ vốn nổi tiếng là có cả kho tàng nghệ thuật phong phú và đặc sắc, nhất là ở ba
mảng: hội họa, điêu khắc, kiến trúc.
4.1 Hội họa
Hội họa Ấn Độ đã có tuổi đời mấy ngàn năm. Nhưng lịch sử hội họa ở Ấn Độ khơng có
ghi chép liên tục, nhiều giai đoạn bị ngắt quãng vì thời tiết khắc nghiệt làm hư hại tranh
và một phần vì sự xâm lăng và thống trị của người Hồi giáo trong thời gian dài.
Hệ thống hang động Ajanta nổi tiếng với các bức bích họa trên vách đá và trần hang
cùng với các điêu khắc đá. Các bức tranh tập trung thể hiện cuộc đời đức Phật và các
câu chuyện liên quan đến Ngài, số lượng lên đến 500 bức bích họa.

Hình 4.1 Mặt tiền chaitya của Hang 19 ở Ajanta, Tây Bắc Deccan, Ấn Độ
(Nguồn: Sankarshan Mukhopadhyay, 2015)


13



Ngoài ra, một họa phái đã trội dậy từ những người Rapjut, các bức họa chỉ là những nét
phát thảo nhưng sinh động và chân thực, hiện nay vẫn còn được trưng bày ở một số bảo
tàng Mỹ. Một dạng biến tướng khác là phát triển dưới triều đại Mông Cổ, là trường phái
vẽ chân dung quý tộc và các bức họa thường đặc tả cuộc sống xa hoa của tầng lớp hoàng
gia. Họa sĩ nổi tiếng của trường phái này là Dasvanth.
4.2 Điêu khắc
Triều đại Gupta là triều đại có nghệ thuật điêu khắc phát triển nhất. Các tác phẩm điêu
khắc thường là đặc tả Đức Phật và các vị thần linh. Một số tác phẩm tiêu biểu là: tượng
thần Shiva ba mặt (Trimurti) nổi tiếng trong hang động Elephanta, tượng đá nữ thần
Rukmini, tượng thần Shiva múa, con hưu bằng đá ở Mamallapuram, v.v…


Hình 4.2 Tượng thần Shiva Nataraja – Chúa tể của các điệu nhảy, thế kỉ 11
Nguồn: Jean-Pierre Dalbera, 2015, Shiva Nataraja,
cập ngày 30/6/2021
4.3 Kiến trúc
Kiến trúc Phật giáo ra đời vào TK VI TCN, là đề tài và là nguồn khơi gọi cảm hứng cho
nghệ thuật và học thuật. Về mặt kiến trúc có hai loại hình kiến trúc chủ yếu: thờ thánh
tích và chùa. Thờ thánh tích có hình thức vừa là mộ thờ vừa là tháp, ở đây đặt các di tích
của Phật. Chùa là nơi thờ Đức Phật và chỗ ở của các sư, nhà tu hành. Stupa Sanchi và
hang Ajana là hai loại hình tiêu biểu của kiến trúc Phật giáo. Bên cạnh đó cịn có các
cơng trình làm bằng gạch, đá. Tiêu biểu là trụ đá ở Sarnath. Trên đỉnh trụ đó có 4 con
sư tử chụm đi vào nhau, nhìn về 4 hướng, có hình bánh xe ln hồi bên dưới. Hình
tượng này được Ấn Độ vẽ thành quốc huy cho nước này.
Kiến trúc Ấn Độ giáo thay thế Phật giáo vào thời kì Gupta (TK 6 – 9). Đặc điểm nghệ
thuật kiến trúc thời này là các đền thờ ngoài trời. Các đền thờ thường được xây dựng
bằng đá hoặc gạch, tháp đồ sộ có móc hình vằn khăn. Ở miền Nam, đền thờ có các tháp
tam quan bên các tường bao quanh. Nhìn chung, phong cách nghệ thuật mang tính sống
động, mạnh mẽ và độc đáo. Các cơng trình kiến trúc phổ biến: cụm thánh tích
Mahabalipuram, Pandava ratha, v.v… khu đền Mahavalipuram được ví như đỉnh
Everest của nghệ thuật cổ trung đại của Ấn Độ.


14



Kiến trúc Hồi giáo nổi bật và nổi tiếng với các thánh đường Hồi giáo, đền và lăng mộ
được thiết kế kiểu cách, khác lạ, hoa văn phúc tạp. Thánh đường Hồi giáo có kiến trúc
mái vịm và những họa tiết được trang trí cực kì cơng phu ở trên tường, mái, các cây cột
trụ, trên trần nhà. Các họa tiết trang trí thường được làm từ thủy tinh, pha lê nhiều màu
sắc. Các cơng trình tiêu biểu: Đền Taj Mahah, lăng mộ Humayun, giáo đường Quwat ul

Islam ở Dehli, v.v…

Hình 4.3 Đền Taj Mahah
Nguồn: TMAX / Fotolia, Kiến trúc Mughal, , truy cập ngày 30/6/2021
CHƯƠNG 5: THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC ẤN ĐỘ
5.1 Thiên văn học
Bộ sách cổ nhất về Thiên văn học là bộ Shiddhanta ra đời vào khoảng năm 425 TCN,
bên cạnh đó cịn có bộ Varahamihira. Cả hai bộ sách này đều dựa trên nền khoa học Hy
Lạp. Nhà thiên văn học lớn nhất Ấn Độ là Aryaabhata giảng về các hiện tượng nhật
thực, nguyệt thực, bốn mùa trong năm và tuyên bố trái đất có hình trịn. Các nhà thiên
văn học đời sau mơ phỏng theo các nhà thiên văn Babylon để chia vòm trời thành các
chịm sao cung hồng đạo. Họ cịn tạo ra lịch và cách tính ngày tháng giống với thời
gian chúng ta đang sử dụng. Sự tính tốn của họ có tính chính xác cao, xác định được
đường kính của mặt trăng, vị trí của các cực trên trái đất, vị trí và sự vận hành của các
vì sao.
5.2 Tốn học
Để giải quyết các phép tính phức tạp, người Ấn Độ đã tạo ra hệ thống toán học cao hơn
toán học của Hy Lạp, trừ hình học.




15

Các nhà toán học đã tạo ra con số “Ả Rập” mà chúng ta hay dùng ngày nay và hệ thập
phân. Những con số “Ả Rập” được tìm thấy là trên các bia đá của vua Ashoka (năm 256
TCN). Ba nhà khoa học trong lĩnh vực này cũng như là trong thiên văn học gồm có
Aryabhata, Brahmagupta và Bhaskara. Ba nhà toán học này đã tạo ra khái niệm số âm,
xác lập các quy tắc về phép hốn vị, tìm được căn bậc hai của số 2 và giải được những
phương trình bậc 2.

Về mặt hình học thì có trình độ không bằng số học. Để đo đạc và xây dựng các đàn tế
thần linh, các tu sĩ Ấn đã biết sử dụng định lý Pythagore, có nghĩa là trong một tam giác
vng, bình phương cạnh huyền bằng tổng hai cạnh góc vng. Do ảnh hưởng của Hy
Lạp nên Aryabhata đã tìm được cơng thức tính diện tích các hình, gồm có: hình tam
giác, hình thang, hình trịn, tính được trị số của số pi là 3,1416. Ngoài ra, cuốn Surya
Siddhanta còn cung cấp cả một hệ thống lượng giác (giá trị sine).
5.3 Hóa học và Vật lý học
Về mặt vật lý học, các nhà khoa học đã tạo ra được thuyết nguyên tử. Nhà triết học
Vaisheshika cho rằng vũ trụ được cấu tạo bằng các nguyên tử khác nhau. Các nhà bác
học đạo Jaina lại cho rằng tất cả các nguyên tử đều giống nhau, chỉ là các tổ hợp khác
nhau nên có những hiệu ứng khác nhau. Khơng những vậy, người Ấn Độ còn biết đến
sức hút của trái đất. Trong bộ Siddhanta viết rằng: “Trái đất, do trọng lực của nó, hút
hết tất cả mọi thứ về mình”. Như vậy có thể thấy rằng họ đang giải thích về thuyết trọng
lực.
Về mặt hóa học cũng rất phát triển. Ấn Độ thời cổ đại có kỹ thuật luyện kim tuyệt hảo.
Ấn Độ cũng là nước giỏi về công nghệ hóa học như làm da thuộc, chế tạo xà bơng, thủy
tinh, sản xuất xi măng và có cả ngành nhuộm. Vào thế kỉ thứ 6, người Ấn còn phát triển
trước châu Âu. Họ là những người đứng đầu trong lĩnh vực về kỹ thuật hoa học, bao
gồm các kỹ thuật về nung khô, chưng cách thủy, chưng cất rượu, thăng hoa, biết về cách
điều chế các hợp chất với các hợp kim.
5.4 Y dược học
Ấn Độ có những thành tựu và những nghiên cứu lớn hơn so với các nước cùng thời. Thế
kỉ thứ 6 TCN, các thầy thuốc Hindu đã mô tả được về các cơ quan trong cơ thể: dây
chằng, mạch bạch huyết, dây thần kinh, mô mỡ, mô dẫn truyền, màng dầy, màng hoạt
dịch, các cơ và biết cả cách khâu vết mổ. Trước Công Nguyên, các thầy thuốc theo
trường phái y khoa Hindu đã đề nghị sinh đẻ một cách khoa học dựa trên chu kì kinh
nguyệt của phụ nữ, họ tính tốn sự phát triển của thai rất chính xác.
Tài liệu y học cịn được ghi trong các tập Veda, lẫn lộn ma thuật, thần chú với y khoa
chân chính. Đám người phù thủy chữa bệnh bằng ma thuật và thần chú nhưng ngay từ
thời Veda, các thầy thuốc và nhà giải phẫu học đã tách biệt với đám người phù thủy.

Những cái tên nổi tiếng trong giới y học Hindu là Sushruta ở thế kỉ V TCN và Charaka
ở thế kỉ thứ II CN. Charaka soạn cuốn bách khoa tự điển về y học, hiện nay vẫn còn
được sử dụng ở Ấn Độ. Sushruta là bậc thầy về giải phẫu học. Ông đã nói về nhiều
phương pháp giải phẫu: mổ lấy sạn thận, mổ lấy thai, thực hiện ghép mô bằng mảnh da


16



khác trên cơ thể, … thậm chí là liệt kê các loại dụng cụ giải phẫu giống với hiện nay.
Sushruta còn nghĩ ra phương pháp chẩn bệnh bằng các bước: quan sát, bắt mạch và thính
chẩn. Cả Sushruta và Charaka đều từng nhắc đến một vài loại thuốc giúp gây tê bệnh
nhân, giúp bệnh nhân khơng cịn cảm giác đau đến khi phẫu thuật. Nhìn chung, y học
trình độ phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt là ở thời kì Veda và Phật giáo.
CHƯƠNG 6: TÔN GIÁO
6.1 Đạo Bà La Môn và đạo Hindu
6.1.1 Đạo Bà La Môn
Ra đời vào nửa đầu thiên niên kỷ I TCN. Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội, thờ ba vị
thần: Brama, Visnu, Siva. Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở
mãi trong giai cấp đó suốt đời tức là khuyên con người bằng lòng với giai cấp của mình.
Bốn đẳng cấp đều được sinh ra từ một nguồn, từ trên cùng cơ thể lần lượt được xếp theo
thứ tự từ cao đến thấp: Các tăng lữ Bà la môn, Sát Đế Lỵ, Phệ Xá, Thủ Đà La.
Đạo Bà La Môn ra đời trên cơ sở kinh Upanishad, quan niệm về kiếp luân hồi, linh hồn
chuyển từ vỏ bọc vật chất này sang vỏ bọc vật chất khác, khuyên con người tuân thủ các
quy định Bà la mơn để kiếp sau đầu thai vào vị trí tốt hơn.
Luật Manu ra đời và quy định rõ chế độ đẳng cấp: giải thích về nguồn gốc của các đẳng
cấp; cho rằng hệ thống đẳng cấp là do thần linh định ra. Luật Manu cịn giải thích về các
nhiệm vụ, bổn phận và công việc của mỗi đẳng cấp; quy định những loại thức ăn, áo
quần và nơi ở mà mỗi đẳng cấp cần phải theo, đặt ra những hình phạt dành cho mỗi đẳng

cấp nếu có sự vi phạm các luật định. Tóm lại, Đạo Bà La Mơn chi phối xã hội, bảo vệ
giai cấp thống trị, thủ tiêu đấu tranh giai cấp.
6.1.2 Đạo Hindu (Ấn Độ giáo)
Đạo Hinđu ra đời muộn hơn. Đến khoảng thế kỉ VII, khi mà đạo Phật bị suy sụpở Ấn
Độ. Thì đạo Hinđu đã ra đời trên cở sở của đạo Bà la mơn. Nhưng đạo Hindu cũng đã
có thêm nhiều yếu tố mới. Vẫn là thờ ba vị thần: Brama, Visnu, Siva. Tuynhiên vị trí
các vị thần này đã có sự đổi khác. Vai trò của thần Brama bị hạ thấp và vai trị của thần
Siva được đề cao và tơn thờ các lồi động vật. Có sự bổ sung nhiều quyển kinh thánh
mới: Mahabharata, Ramayana, Purana… Quy định thêm các chuẩn mực, luật lệ xã hội,
hình phạt... một cách tỉ mỉ. Những quy định của đạo Hindu đã tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội Ấn Độ.
Kết luận: sau khi đạo Phật suy sụp, đạo Bà la môn đã nhân tình hình đó dần dần được
phục hưng. Thế kỉ VII - IX đạo Bà la môn với tên gọi mới là đạo Hindu - một tơn giáo
chính của Ấn Độ ngày nay gọi là Ấn Ðộ giáo. Ðặc biệt Bà la môn hay Ấn Ðộ Giáo là
một tôn giáo khơng có giáo chủ với sự bổ sung thêm nhiều yếu tố mới vềđối tượng sùng
bái, về kinh điển, nghi thức tế lễ... nhưng về cơ bản vẫn chú trọng về thuyết luân hồi,
coi trọng sự phân chia đẳng cấp.
6.2 Phật giáo




17

Ra đời vào giữa thiên kỷ VI TCN, do một vị hồng tử là Thích ca mâu ni sáng lập.
Chống lại Kinh Veda, giáo lý Bàlamôn, chống phân chia đẳng cấp, bảo vệ người nghèo,
giai cấp bị trị. Lên án chế độ phân chia đẳng cấp, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã
hội. Để cải cách xã hội, Phật giáo khuyên con người ta sống từ bi, hỉ xả, bác ái... Tuyên
bố mọi người được bình đẳng như nhau, vì vậy đều được cứu vớt như nhau. Chưa tìm
ra được ngun nhân đích thực của nỗi khổ mà nhân dân phải gánh chịu, cho nên nó

chưa chỉ ra được con đường và biện pháp cải tạo xã hội đúng đắn, hiệu quả để xoá bỏ
tận gốc sự đau khổ và bất công xã hội. Cho rằng đời là bể khổ, con người bị kiếp luân
hồi và luật nhân quả đầy đọa, phải tu hành để tìm cách giải thốt. Cái chân lí về nỗi đau
khổ và sự giải thoát được thể hiện trong “Tứ Thánh Đế”, gồm: khổ đế, tập đế, diệu đế,
đạo đế.
Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ.Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh,
lão, bệnh, tử, gần kẻ mình khơng ưa, xa người mình u, cầu mà khơng được, giữ lấy
uẩn (thủ ngũ uẩn).Đối với con người, ngoài khổ đau vơ tận, khơng có cái gì khác.
Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà
nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lịng ham muốn như ham
sống, ham lạc thú, ham giàu sang...
Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì
vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi.
Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ.
Con đường đó gọi là "bát chính đạo" (8 con đường đúng đắn), gồm:
chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn.
chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
chính ngữ: nói năng đúng đắn.
chính nghiệp: hành động đúng đắn.
chính mệnh: sống đúng đắn.
chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn.
chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn.
chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.
Về mặt thế giới quan, nội dung của học thuyết Phật giáo là thuyết duyên khởi. Duyên
khởi là chữ nói tắt câu "chư pháp do nhân duyên nhi khởi" nghĩa là "các pháp đều do
nhân duyên mà có". Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương
"vô tạo giả" tức là khơng có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Bên cạnh thuyết "vô tạo
giả", đạo Phật cịn nêu ra các thuyết "vơ ngã","vơ thường".
6.3 Đạo Jain
Đạo Jain được xác lập gần như cùng thời với Phật giáo. Người sáng lập là Mihariva, cịn

có hiệu là Jaina (chiến thắng). Trong khi Phật giáo suy tàn trên đất Ấn thì đạo Jaina vẫn


18



tồn tại. Đạo Jaina chia làm hai phái, phái Svetambara (mặc áo trắng) và phái Digambara
(ở truồng). Về sau tín đồ phái Digambara mặc quần áo bình thường, chỉ có các đạo sĩ
của họ thì khơng mặc quần áo kể cả khi ra ngoài đường. Giới luật của đạo Jain cũng
gồm có 5 điều chủ yếu:
Khơng được giết bất cứ một sinh vật nào.
Khơng nói dối.
Khơng lấy bất kì một vật gì của kẻ khác nếu khơng phải là tặng phẩm.
Khơng dâm dục.
Khơng được tích lũy của cải q nhiều. Phải sống khổ hạnh, từ chối mọi thú vui của xã
hội.
Đạo Jain là một tôn giáo khắt khe và hơi kì quặc nên khơng được truyền bá rộng rãi rộng
rãi như các đạo khác. Tuy ở Ấn Độ hiện nay vẫn cịn các tín đồ của đạo này, nhưng
khơng nhiều, chỉ chiếm khoảng 0,7% dân số Ấn Độ.

KẾT LUẬN
“Văn minh” là từ ngữ mơ tả các xã hội lồi người có trình độ phát triển văn hóa và cơng
nghệ cao. Lịch sử Ấn Độ vẫn đang hiện diện và không ngừng phát triển về mọi mặt. Về
phương diện văn hóa, Ấn Độ là bức tranh đa dạng màu sắc và ngày càng tiếp nhận nhiều
tư tưởng văn hóa mới qua các thời kì và chịu ảnh hưởng từ các nước láng giềng và các
nước phương Tây, cụ thể hơn là những cuộc xâm lăng của người Hồi giáo đem theo cả
kho tàng tri thức và văn minh đến với Ấn Độ. Văn học Ấn Độ đa dạng, cao quý, cái hồn
nghệ thuật trong từng tác phẩm khơng có cách nào lột tả hết được vẻ đẹp và tính nhân
văn của nó. Văn học Ấn Độ tuy khơng nổi bật như các nền văn minh cùng thời nhưng

nó mang nét riêng và cái hay riêng. Về mặt tín ngưỡng, Ấn Độ là quốc gia có nhiều tơn
giáo nhất trên thế giới. Người Ấn Độ sống với niềm tin dựa vào thánh thần, sự tâm linh.
Họ tôn sùng thánh thần của họ hơn cả nhà nước và chính trị. Tơn giáo cũng là sự khởi
nguồn của nhiều thứ khác trong cuộc sống. Tuy nhiên những điều mê tín dị đoan, tiêu
cực thì vẫn nên bị loại trừ. Về phương diện chính trị và nhà nước, thật khó để mà đánh
giá điều này. Vì mỗi quốc gia khác nhau sẽ có phong tục tập quán riêng và cách điều
hành riêng. Ấn Độ được trị vì bởi nhiều thể chế khác nhau, có cả vua trong nước và cả
những người ngoại quốc. Về phương diện kinh tế, Ấn Độ không quá đặc sắc vể khía
cạnh này. Tuy nhiên Ấn Độ cũng đang dần bước ra khỏi sự lạc hậu, cổ hữu để đến với
thời kì cơng nghiệp hiện đại. Sự thịnh vượng và nền thương mãi sẽ không bao giờ ngừng
tiến bộ.
Ấn Độ dạy chúng ta bài học về sự khoan dung và lòng nhân hậu, dạy cho chúng ta sự
thanh thản trong tâm hồn, không tham lam. Dạy cho ta cách sống điềm nhiên, n bình
và tĩnh lặng. Hầu hết, tơn giáo giữ vai trị trung tâm, có tầm ảnh hưởng rộng khắp và chi
phối mọi mặt đời sống từ văn hóa, chính trị, đời sống của con người nơi đây. Ấn Độ là
cái nôi của văn minh nhân loại. Ngày nay, trong tiến trình hội nhập quốc tế, Ấn Độ dựa




19

trên cơ sở phát huy truyền thống quá khứ, đã được những thành tựu rất đáng ghi nhận.
giữa Ấn Độ ngày nay và quá khứ có sự liên kết chặt chẽ và bền vững. Tìm hiểu về nền
văn minh phương Đơng cổ đại có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa
truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử khu vực. Bên cạnh đó, sự tìm hiểu và
nghiên cứu cịn mang ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong tiến trình hội nhập của khu vực
nói chung và văn hóa đất nước nói riêng trong thời đại văn hóa ngày nay.





20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Will Durant (1963), Tập 2 Văn minh Ấn Độ và các nước láng giềng, Huỳnh Ngọc
Chiến dịch, NXB Khoa Học Xã Hội.
2. Lê Phụng Hoàng (chủ biên) (1998), ... Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục
Việt Nam
3. Nguyên
Thế/
GiácNgộ,
2018,
Tam
tạng
Sanskrit

gì?
truy cập ngày
30/6/2021
4. Bùi Xuân (dịch), 2016, Thơ tình của Kabir,
/>2517615/index.htm, truy cập ngày 30/6/2021
5. The Story of the Mahabharata, India's Longest Epic Poem, 2018,
truy cập
ngày 28/6/2021
6. Jean-Pierre Dalbera, 2015, Shiva Nataraja,
truy cập ngày
30/6/2021
7. TMAX/ Fotolia, Kiến trúc Mughal,
truy cập ngày 30/6/2021





21


×