TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH NGHỆ AN
TIỂU LUẬN HẾT MƠN HỌC
MƠN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Họ và tên: SẦM SỸ THỨC
Đơn vị công tác: UBND xã Châu Cường
Lớp: K51.2
Quỳ Hợp, ngày 18 tháng 9 năm 2021
1
TIỂU LUẬN
Môn: Chủ nghĩa xã hội
Họ tên học viên: Sầm Sỹ Thức
Lớp: K51.2 - TCLLCT
Chữ ký GVC 1…………………….
………………….………………….
Chữ ký GVC 2:………………… ..
……………………………………..
Điểm
Bằng số:……………………………………………
Bằng chữ:………………………………………….
Đề bài: Vận dụng quan niệm của Đảng về dân chủ và xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta vào việc xây dựng đời sống dân chủ ở địa phương mình
cơng tác.
PHẦN MỞ ĐẦU
Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát
triển của xã hội hiện đại ngày nay.Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến
bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Dân chủ là cái quý báu
nhất của nhân dân, nó có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển của con người
và xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là một nước dân
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới là trách nhiệm của dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, dân chủ là bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chế độ xã hội xã hội “do nhân dân làm chủ, ở đó, quyền
làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ
và làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc Đảng Cộng sản –
đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo, thực hiện nhất
nguyên về chính trị. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các hình
thức trực tiếp và gián tiếp, thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó
nịng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trên
cơ sở nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà
nước “đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời là người tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”.
Với bản chất và đặc điểm nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chế
độ dân chủ thực sự, không phải là dân chủ hình thức, cực đoan, vơ chính phủ. Nó
đối lập với chuyên quyền độc đoán, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, quan liêu. Nói
một cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ thấm nhuần đầy đủ và sâu
2
sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn. Khẳng định điều này, đồng chí Tổng Bí thư
đã viết: “Chúng ta cần một xã hội, mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con
người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người”.
Trong những năm thực hiện đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu sắc rằng để đi
lên chủ nghĩa xã hội, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.., nhất thiết phải xây dựng
thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vì “dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển”, khơng có dân chủ thì khơng có chủ nghĩa xã hội. Với
tư cách là đỉnh cao trong tồn bộ lịch sử tiến hố của dân chủ, dân chủ xã hội chủ
nghĩa kết tinh trong bản thân mình tồn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong
lịch sử và nảy sinh những giá trị dân chủ mới về chất. Ở đây, dân chủ trở thành giá
trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội, mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của con người, tạo ra
ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của
con người. Đây cũng là căn cứ để Đảng ta xác định, dân chủ là một trong những
thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
PHẦN NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ DÂN CHỦ VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN
CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
* Khái niệm chế độ dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Chế độ dân chủ:
Chế độ dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước thừa nhận quyền lực cao
nhất thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền bình đẳng, dân chủ trong việc lựa chọn
hình thức nhà nước, xây dựng chế độ chính trị và tham gia vào các quyết định
chính trị quan trọng của đất nước và tham gia vào việc bầu chọn nhân sự cho nhà
nước. Trong lịch sử nhân loại đã có 3 chế độ dân chủ là chế độ dân chủ chủ nô, chế
độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ XHCN.
- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Là một hình thức nhà nước của dân, do dân, vì dân, được xác lập sau khi giai
cấp công nhân giành được quyền lực nhà nước. “Giai cấp vô sản mỗi nước trước
hết phải tự giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”, phải
giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức quyền lực đó thành nhà nước mới thực
hiện được sứ mệnh lịch sử.
* Bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Bản chất kinh tế của dân chủ XHCN:
Dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu để đáp ứng sự
phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học và công
3
nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần
của toàn thể nhân dân lao động.
Đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Nó kế thừa và phát triển mọi thành tựu phát triển kinh tế
mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu
cực như áp bức bóc lột, bất cơng nảy sinh từ chế độ tư hữu. Sản xuất phát triển và
phân phối công bằng theo lao động là mục tiêu của dân chủ XHCN.
- Bản chất chính trị của dân chủ XHCN:
Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua Đảng cộng sản để
thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản
chất giai cấp (giai cấp công nhân lãnh đạo); ở cơ chế nhất nguyên (một đảng cộng
sản lãnh đạo); ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân vì nhân dân). Xét về bản chất, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa
có bản chất giai cấp cơng nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất tư tưởng - văn hóa:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là chủ
nghĩa Mác - Lênin làm tư tưởng chủ đạo trong xã hội mới. Đồng thời, nó kế thừa,
phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống của các dân tộc; tiếp thu những giá
trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả
các quốc gia, dân tộc. Nhân dân được làm chủ và thụ hưởng các giá trị văn hoá tinh
thần, có điều kiện để phát triển mọi năng lực cá nhân.
* Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bao gồm:
+ Xây dựng cơ sở kinh tế của chế độ dân chủ là nền sản xuất phát triển cao
với lực lượng sản xuất phát triển.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN mang bản chất giai cấp công nhân
và coi nhân dân là chủ thể quyền lực tối cao, dần mở rộng các hình thức tham gia
của nhân dân vào quản lý các q trình xã hội thơng qua các tổ chức chính trị - xã
hội của nhân dân…
Quyền lực chính trị ngày càng thuộc về nhân dân là mục tiêu cuối cùng của
xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay:
+ Chế độ dân chủ XHCN ở nước ta là kết quả trực tiếp của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và được xây dựng trong điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Chế độ mới đã đưa người dân lên địa vị làm chủ xã hội và là động lực khơi
dậy nhiều nguồn lực, sáng tạo từ nhân dân; mặt khác, do mới bắt tay vào “làm chủ
4
và là chủ” hiển nhiên cịn những cơ chế, cơng đoạn, thao tác…chưa được thực
hiện.
+ Việc bỏ qua sự phát triển chế độ TBCN vừa là một cách phát triển rút ngắn
lại vừa có nhiều yếu tố khơng thuận lợi trong xây dựng dân chủ. Sự nghiệp đổi mới
còn đang tiến hành, Nhà nước pháp quyền XHCN đang được xây dựng; quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn còn những bất cập, tệ quan liêu, nạn
tham nhũng và những biểu hiện suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xã
hội chưa định hình lối sống tuân thủ pháp luật, thói quen dân chủ…Những lý do cơ
bản trên đã khiến cho sự nghiệp xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta trở thành
mục tiêu, động lực và điều kiện để phát triển đất nước hiện nay.
+ Đảng ta chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trước hết thơng qua hồn thiện hệ thống
chính trị. Bao gồm Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân
được thiết lập từ trung ương tới địa phương là cơ sở bảo đảm cho việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là
then chốt; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân là trụ cột.
- Xây dựng dân chủ XHCN tập trung vào 3 nội dung chính:
+ Một là, đẩy mạnh thể chế hóa quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tạo cơ sở pháp lý cho dân chủ hóa về kinh
tế.
Phương châm mà ĐH XIII chỉ ra là: “Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế
thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu
quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt,
có hiệu quả trên thực tế phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng".
Thể chế hóa các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và các loại thị trường;
Thể chế hóa các khâu liên quan đến vận hành kinh tế thị trường, gồm: ban hành
văn bản, quy định; xây dựng cơ chế vận hành, thực thi hoạt động kinh doanh; hoàn
thiện tổ chức bộ máy theo dõi, giám sát việc thi hành thể chế. Đẩy mạnh cải cách
hành chính nhà nước, cả về nhân lực, bộ máy và thủ tục hành chính.
+ Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân.
Hồn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trên các
lĩnh vực chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội; Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước, áp dụng các chế tài nghiêm minh với người được ủy quyền để hạn chế
5
lộng quyền, lạm quyền; Hoàn thiện các thể chế bầu cử - bãi miễn, ứng cử cạnh
tranh theo nguyên tắc: quyền lực thực sự của dân.
+ Ba là, thực hành dân chủ trong Đảng và củng cố, phát triển các tổ chức xã
hội tự nguyện, hợp pháp của Nhân dân.
Dân chủ trong Đảng là tấm gương, là cội rễ của dân chủ trong tồn xã hội.
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải luôn luôn xuất phát từ lợi ích của
nhân dân, lắng nghe ý kiến giám sát, phản biện từ nhân dân. Đảng cần phải đi đầu
và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh làm trong sạch Đảng và gương mẫu trong
cuộc chiến đấu chống tham nhũng, lãng phí.
2. VẬN DỤNG VÀO VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
CHÂU CƯỜNG, HUYỆN QUỲ HỢP.
1. Khái quát tình hình, đặc điểm của địa phương:
Châu Cường là một trong những xã đặc biệt khó khăn của huyện Quỳ Hợp
với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 8.375,32 ha, tổng dân số với 5.478 khẩu. Tồn
xã có 9 xóm, bản tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thái chiếm 92%. Cịn lại 8% là người
Kinh. Là xã thuần nơng, sản xuất nông nghiệp chiếm hơn 95%, công nghiệp, dịch
vụ chưa phát triển, đời sống của Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình
qn đầu người cịn thấp so với các xã lân cận. Đến nay, Đảng bộ xã Châu Cường
có 14 Chi bộ trực thuộc, trong đó có 09 Chi bộ xóm, bản, 3 Chi bộ Trường học, 01
Chi bộ Trạm Y tế và 01 chi bộ Công an xã. Tổng số đảng viên là 316 đồng chí,
100% các xóm, bản đều có Chi bộ.
Nhìn chung tình hình chính trị, tư tưởng cán bộ Đảng viên và các tầng lớp
Nhân dân trên địa bàn xã nhìn chung ổn định, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính quyền, chấp hành tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hăng hái thi đua lao động
sản xuất trên mọi lĩnh vực.
Nhân dân rất vui mừng và phấn khởi trước sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, các cấp, các ngành, các tổ chức, các doanh nghiệp trong việc chăm lo chính
sách cho người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn, các gia đình chính sách,
người có cơng với cách mạng và các chương trình hỗ trợ khác đối với Nhân dân.
2. Thực trạng phát huy dân chủ ở địa phương hiện nay.
- Tình hình thực hiện dân chủ tại cơ sở:
Trong những năm qua, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được cấp
ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể xã triển khai sâu rộng và thực sự đi vào
cuộc sống. Các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về thực hiện dân chủ cơ sở được xây dựng, hoàn thiện; chất lượng và hiệu
quả hoạt động của HĐND - UBND xã và cơ sở ngày càng được nâng cao.
Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được thể chế hóa và
đi vào cuộc sống; cơng tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các
6
đoàn thể đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được chú trọng góp phần
đưa kinh tế - xã hội của xã nhà tiếp tục phát triển, quốc phịng - an ninh được giữ
vững, cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đạt được nhiều kết quả
tích cực.
Ban Thường vụ Đảng ủy xã đã ban hành các văn bản về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; về tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trên địa
bàn toàn xã; quyết định kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Hằng năm, tổ chức các lớp tập huấn QCDC ở cơ sở như: Tập
huấn Pháp lệnh 34/PLUBTVQH13 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
Nghị định 04, Nghị định số 145/NĐ – CP. Ban Thường vụ Đảng ủy định kỳ 6
tháng và 1 năm tổ chức giao ban, làm việc với các chi bộ để nghe tình hình, kết
quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương và định hướng những nhiệm vụ trọng tâm
của xã, của địa phương trong thời gian tới; thành lập Ban chỉ đạo xử lý các vụ việc
tồn đọng kéo dài. Hàng năm đưa nội dung về thực hiện QCDC cơ sở vào chương
trình cơng tác năm của cấp ủy, chính quyền.
Hoạt động của HĐND có nhiều chuyển biến, nhất là nâng cao chất lượng các
kỳ họp, chất vấn và trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề, tăng cường giám sát việc
thực hiện nghị quyết của HĐND xã đối với UBND xã, các ban, ngành và các xóm,
bản. Qua các kỳ họp, HĐND xã và các xóm, bản đều nghe và cho ý kiến báo cáo
kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở trong kỳ họp HĐND, ngồi ra, UBND xã ban
hành các văn bản đơn đốc, tổ chức thực hiện nhiệm vụ như: Công văn về cơng
khai, minh bạch thủ tục hành chính; cơng văn về tăng cường kỷ luật, kỷ cương
hành chính; cơng văn về tiếp nhận, giải quyết TTHC qua Bộ phận Một cửa. 100%
đơn thư được thụ lý, hướng dẫn trả lời và giao trách nhiệm giải quyết theo thẩm
quyền; giải quyết đúng trình tự, thủ tục theo quy định, khơng có đơn thư tồn đọng
tại cơ quan, đơn vị.
UBND xã thực hiện cơng khai, minh bạch các thủ tục hành chính, nêu cao
tinh thần phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của dân, kịp thời chỉ đạo giải
quyết các vướng mắc, khó khăn ngay từ cơ sở. Chỉ đạo đội ngũ cán bộ tiếp dân và
giải quyết các thủ tục hồ sơ cho nhân dân kịp thời, hiệu quả; xây dựng tác phong,
thái độ trong quan hệ với nhân dân; tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết đơn,
thư khiếu nại, tố cáo; tổ chức gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với nhân dân để giải quyết
kịp thời những ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ngay từ cơ
sở; hạn chế đơn, thư vượt cấp, phát sinh “điểm nóng”; nâng cao tinh thần trách
nhiệm, hiệu quả hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng
đồng, phát huy vai trò tổ tự quản, tổ hòa giải, tổ liên gia trong việc giải quyết các
mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng dân cư.
Ủy ban MTTQ và các đoàn thể xã, hằng năm đều xây dựng kế hoạch và tổ
chức giám sát, phản biện theo chức năng, nhiệm vụ. Trong năm 2020 và 6 tháng
đầu năm 2021 đã tổ chức được 6 cuộc giám sát, giám sát chuyên đề 2 cuộc, phối
hợp giám sát được 23 cuộc, tự giám sát được 8 cuộc); Căn cứ vào nghị quyết của
Đảng ủy, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của UBND đã lựa chọn những dự
7
thảo chương trình, kế hoạch có liên quan đến phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích của
nhân dân để phản biện, phát huy vai trị của các đồn thể chính trị xã hội từ xã đến
xóm, các cá nhân tiêu biểu trong Ủy ban MTTQ để thực hiện.MTTQ đã tổ chức
phản biện thơng qua các hình thức đóng góp bằng văn bản, thơng qua các buổi hội
nghị góp ý, phản biện, góp phần có thêm thơng tin để hồn thiện văn bản dự thảo
tốt hơn, mang tính khả thi cao hơn; tham gia đóng góp vào Dự thảo nghị quyết của
HĐND, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân.
Thực hiện công tác giám sát cán bộ, đảng viên theo Quy định 124-QĐ/TW
ngày 02/2/2018, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trị chủ trì phối hợp với
các thành viên lắng nghe ý kiến Nhân dân, dư luận, để góp ý kiến kịp thời với
người đứng đầu, cán bộ chủ chốt các cấp .Công tác tổng hợp báo cáo tình hình
Nhân dân hàng tháng, quý; xây dựng báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri
và nhân dân trình tại kỳ họp HĐND xã.
Hằng năm, Khối Dân vận Đảng ủy tham mưu, phối hợp tổ chức các hội nghị
tập huấn về thực hiện QCDC ở cơ sở, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn cho các tổ
dân vận các xóm, bản. Xã đã xây dựng được 3 điểm sáng về thực hiện QCDC ở cơ
sở.
Hoạt động đối thoại giữa Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND với Nhân dân
được tổ chức thường kỳ tại 12/12 xóm bản. Tồn xã có 12/12 xóm, bản có mơ hình
tự quản trên các lĩnh vực do cấp ủy, các ngành, MTTQ và các đoàn thể xây dựng
và triển khai tại các xóm, bản. Ở các xóm, bản đều thành lập được ban hòa giải giải
quyết kịp thời các vụ việc trong cộng đồng dân cư. Hương ước của các xóm, bản
được UBND xã phê duyệt.
Thực hiện QCDC trong các đơn vị sự nghiệp đóng trên địa bàn xã được thực
hiện chặt chẽ. Các trường học đều xây dựng quy chế làm việc, quy định quyền lợi
và nghĩa vụ của công nhân, viên chức và người lao động, bầu ban thanh tra nhân
dân; tổ chức hội nghị người lao động, đại hội công nhân, viên chức.
Qua thực hiện QCDC ở cơ sở tại xã Châu Cường đã tác động tích cực vào sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương, nhất là
trong xây dựng nơng thơn mới; nhân dân đã đóng góp cơng, góp của, ngày cơng
lao động, hiến đất để làm đường giao thông, lắp hệ thống đèn điện chiếu sáng, xây
dựng thiết chế văn hóa thể thao đồng bộ, đã góp phần hồn thiện các chỉ tiêu để xã
nhà về đích Nơng thơn mới.
- Tồn tại hạn chế trong q trình thực hiện:
Một là, một số cấp ủy, ban cán sự xóm chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo và triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân chủ, chưa coi đây là một nhiệm
vụ thường xuyên, quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu ở một số ban, ngành, đồn thể và
ở các xóm, bản trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa được phát huy.
Hai là, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm về
dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi cịn mang tính hình
thức, thiếu tính liên tục, đồng bộ, thiếu chiều sâu và tính thuyết phục.
Ba là, một số nội dung công khai chưa đầy đủ, việc thực hiện những nội dung
nhân dân bàn để cấp có thẩm quyền quyết định còn hạn chế. Việc tổ chức để nhân
8
dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia góp ý cho cán bộ,
đảng viên có nơi chưa đảm bảo yêu cầu. Tỷ lệ người dân tham gia họp xóm thấp,
chất lượng các cuộc họp xóm có nơi chưa cao; việc thảo luận, tham gia ý kiến cịn
có tư tưởng cá nhân, cục bộ. Một bộ phận nhân dân chưa phát huy hết cơng sức, trí
tuệ tham gia xây dựng nơng thơn mới, cịn tư tưởng trơng chờ, ỷ lại vào sự lãnh
đạo, chỉ đạo và hỗ trợ của cấp trên.
Bốn là, một số thành viên ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ chưa chủ
động tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền trong q trình lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở; chưa thể hiện rõ trách nhiệm của mình trong tổ
chức thực hiện dân chủ trên địa bàn.
Năm là, thực hiện dân chủ gắn với cải cách hành chính và đổi mới phong
cách, lề lối làm việc của cán bộ, cơng chức cịn chưa đáp ứng được u cầu, vẫn
cịn tình trạng đi muộn về sớm. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nêu cao tính
tiền phong, gương mẫu, chưa tận tâm, tận lực, thiếu dân chủ cịn xảy ra. Một số
xóm, bản vẫn để xảy ra tình trạng nội bộ mất đồn kết dẫn đến đơn thư tố cáo.
Sáu là, phát huy dân chủ chưa thực sự gắn với thực hiện kỷ cương, pháp luật.
Một bộ phận nhân dân còn lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật, gây trở ngại tới
việc triển khai một số nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, nhất là trong việc
đền bù giải phóng mặt bằng.
Bảy là, cơng tác tiếp dân đôi khi vẫn chưa được quan tâm đúng mức; việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo có lúc chưa kịp thời, chủ động theo đúng thẩm quyền dẫn
đến tình trạng đơn thư vượt cấp. Một số vụ việc xảy ra ở cơ sở chậm được giải
quyết, cịn có những vụ việc phức tạp, kéo dài.
Bảy là, hoạt động của ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng
đồng ở một số đơn vị chưa thực sự hiệu quả, còn thiếu cơ chế, kinh nghiệm,
phương pháp hoạt động cịn lúng túng.
Tám là, Cơng tác kiểm tra, giám sát thực hiện dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn
chế.
- Nguyên nhân:
Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của Chế độ dân chủ của một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn hạn chế và chưa đầy đủ. Chưa thực sự quan tâm đóng góp ý
kiến để xây dựng và hoàn thiện các Quy chế, quy định của địa phương.
Trình độ, năng lực của một số thành viên Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám
sát cộng đồng còn hạn chế làm ảnh hường đến việc thực hiện dân chủ của nhân
dân.
Việc triển khai các ván bản hướng dẫn, thi hành về thực hiện dân chủ ở cơ sở
chậm đi vào đời sống nhân dân; cơ quan quản lý địa phương chưa cụ thể hoá cho
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị.
- Những giải pháp nhằm phát huy dân chủ ở địa phương:
Một là, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức,
trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ. Muốn thực hiện
quyền làm chủ thì trước tiên nhân dân phải hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về các
quyền tự do dân chủ ở cơ sở của mình. Đó là quyền được biết những cơng việc mà
chính quyền có trách nhiệm phải cơng khai, quyền được bàn và quyết định trực
9
tiếp, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định đối với những vấn đề liên quan
đến lợi ích của nhân dân, quyền giám sát các cơng việc của chính quyền.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với
việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước liên quan
đến việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; các cuộc vận động, các phong trào
thi đua yêu nước như: “Dân vận khéo”, phong trào “Toàn dân đồn kết xây dựng
nơng thơn mới”... đảm bảo thiết thực, hiệu quả.
Ba là, tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính; chú trọng việc ứng dụng
cơng nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành; công khai, minh bạch các
quy định, quy trình, cơ chế, chính sách; chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của
cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ. Thường xuyên kiểm tra và
bám sát cơ sở, tăng cường đối thoại, giải quyết kịp thời những bức xúc, đơn thư
khiếu nại, tố cáo công dân tránh để xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp và kéo
dài.
Bốn là, phát huy tốt vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng, trách nhiệm của chính
quyền trong việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với phát triển kinh tế xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh
xã hội. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải phát huy tính tiên phong,
gương mẫu thực hiện quy chế dân chủ, tạo niềm tin trong Nhân dân.
Năm là, kịp thời củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban
Chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở sau đại hội đảng và bầu cử đại biểu HĐND các
cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trong thực hiện quy chế
dân chủ cần đưa tiêu chí kết quả thực hiện quy chế làm tiêu chuẩn thi đua để đánh
giá xếp loại của từng đơn vị, cá nhân.
KẾT LUẬN
Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam
là phù hợp với điều kiện ở nước ta nên đã đưa tới những thành công tốt đẹp. Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững chủ trương và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
việc phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội, mọi vấn đề từ cương lĩnh,
đường lối, chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng đều
được tổ chức thảo luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến của nhân dân. Tất cả
những phương thức và giải pháp thực hành dân chủ ở Việt Nam đã đưa tới kết quả
tốt đẹp, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là biểu tượng về dân chủ và vấn đề
cốt tử để xây dựng bảo vệ Tổ quốc chính là phải bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân. Chính vì thế, trong Văn kiện Đại hội XIII, từ thực tiễn 35 năm đổi mới và 5
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, 5 bài học kinh nghiệm quý báu
10
đã được đúc kết, trong đó có bài học thứ hai là: “Trong mọi công việc của Đảng và
Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sau sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin
tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin
của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của cách mạng. Đó
cũng chính là bài học quý báu để Đảng ta vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách,
để giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài học đó giữ nguyên giá trị trong
q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới và hội nhập toàn cầu hiện nay./.
11