Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.69 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Thanh Thúy
Mã SV: 1715510135
Lớp A3, Khối 1 Kinh doanh quốc tế, Khóa 56
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Huy Quang

Hà Nội – 11/2017


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................2
I. CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG – CẶP PHẠM TRÙ
CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC.......................................................................2
1. Khái niệm cái chung và cái riêng........................................................2
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.......................4
3. Ý nghĩa phương pháp luận..................................................................6
II. VẬN DỤNG CƠ SỞ LÍ LUẬN GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM.....................7
1. Khái niệm kinh tế thị trường..............................................................7
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.....8
3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam.....................11
3.1: Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường


thế giới.................................................................................................11
3.2: Những nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam..............................................................................12
3.3: Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại......14
3.4: Một số thực trạng và giải pháp tiếp tục phát triển đối với nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay................................................15
3.4.1: Thực trạng.............................................................................15
3.4.2: Giải pháp...............................................................................17

PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU.................................................................21


PHẦN MỞ ĐẦU
Chiến lược phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Việt Nam cũng như vậy, việc nghiên cứu và xây dựng phát
triển là vấn đề rất quan trọng. Như chúng ta đã biết, đất nước ta đã trải qua
hàng nghìn năm phong kiến lạc hậu, sau đó lại phải đấu tranh chống kẻ thù
xâm lược. Khi mà đất nước còn quá non trẻ, nước ta đã áp dụng nền kinh tế
bao cấp khiến cho đất nước càng chậm phát triển. Trong khi xu hướng chung
của nền kinh tế thế giới thời bấy giờ là nền kinh tế thị trường và đã đạt được
những bước phát triển nhất định. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã
quyết định thực hiện bước chuyển biến lớn đưa đất nước thoát khỏi nền kinh
tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ đó
giúp nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, ổn định và theo kịp các quốc
gia đang phát triển khác.
Bước đầu tiến lên nền kinh tế thị trường chúng ta đã gặp phải rất nhiều
khó khăn tiêu biểu là cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên việc vận dụng chủ
động, sáng tạo, hiệu quả những nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt
là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, đã đưa đất nước thoát khỏi khủng

hoảng. Qua đó, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phát
triển, kích thích sản xuất, nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh.
Để thể hiện sự ủng hộ của bản thân em cũng như phần nào giúp mọi
người hiểu thêm về đường lối phát triển kinh tế đúng đắn của đất nước, em
chọn đề tài: “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc
xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta”.

1


PHẦN NỘI DUNG
I. CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG – CẶP PHẠM TRÙ
CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái niệm cái chung và cái riêng
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với một số sự vật,
hiện tượng và quá trình khác nhau. Mỗi sự vật hiện tượng đó là một cái riêng
đồng thời giữa chúng cũng tồn tại những cái chung nhất định.
Để hiểu rõ hơn về các khái niệm ta có thể mơ hình hóa như sau:
Cái riêng

B

A

Cái phổ biến

C

Cái chung


Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hay một hiện
tượng riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như
là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Hay nếu chúng ta quan
niệm mỗi trường đại học là một sự vật hiện tượng để phân biệt với các trường
đại học khác thì ĐH Ngoại Thương, ĐH Bách Khoa, ĐH Sư Phạm,... đều sẽ là

2


một cái riêng. Mỗi con người là một chỉnh thể để phân biệt người này với
người khác thì người A là một cái riêng, người B là một cái riêng...
Cái riêng cịn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm
các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy
nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính khơng lặp lại ở những sự vật
hiện tượng khác. Tính chất này được diễn đạt thơng qua khái niệm đơn nhất.
Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những
mặt chỉ có ở một sự vật hiện tượng nhất định mà không lặp lại ở sự vật hiện
tượng khác. Ví dụ: dấu vân tay của một người là cái đơn nhất bởi nó cho biết
đặc điểm nhận dạng của riêng người đó mà không lặp lại ở bất kỳ một người
nào khác.
Bên cạnh đó, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau,
chứng tỏ giữa chúng có một điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó
được triết học khái quát thành khái niệm cái chung.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những
đặc điểm, những tính quy định có ở nhiều sự vật hiện tượng.
Hay hiểu một cách đơn giản hơn cái chung là những dấu hiệu thuộc tính
mà có sự lặp lại ở những cái riêng. Cái chung thường chứa trong nó những
quy luật, sự lặp lại. Ví dụ như ở trên chúng ta đã nói mỗi một người là một

chỉnh thể thì người A là một cái riêng và người B cũng là một cái riêng,..
nhưng đã là con người thì họ đều phải chịu sự tác động của những quy luật
chung như đồng hóa hay dị hóa, thì khi đó đồng hóa và dị hóa chính là những
cái chung; hay chúng ta coi mỗi thủ đô của một quốc gia là một sự vật hiện
tượng thì Hà Nội là một cái riêng, Tokyo là một cái riêng ,.. nhưng đó đều là
trung tâm về văn hóa và chính trị của một dân tộc, thì khi đó đặc điểm chung
về văn hóa và chính trị chính là cái chung.
3


Trong số những cái chung, những dấu hiệu mà được lặp lại ở nhiều sự
vật hiện tượng nhất thì được gọi là cái chung nhất hay cái phổ biến. Vậy nên
cái phổ biến là phạm trù triết học để chỉ cái chung nhất của sự vật hiện tượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Phạm trù cái chung, cái riêng được bàn đến nhiều trong triết học
phương Tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất thượng đế vối cái chung
và nhấn mạnh rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan, là cội
nguồn sản sinh ra cái riêng. Phát triển ý tưởng của Platơn về ý niệm, và của
Arirstote về “hình dạng thuần tuý” các đại biểu nổi tiếng của trường phái này
như G.Ơrigenơ và Thomas d Aquincho rằng chỉ có khái niệm phổ biến là tồn
tại thực sự, có trước các sự vật riêng biệt. Đối lập với chủ nghĩa duy thực, các
nhà triết học duy danh như P. Abơla (1079-1142), Đumxcot (1265-1308) lại
cho rằng chỉ có những sự vật hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất
lượng riêng của chúng mới là có thực, cịn các khái niệm chung (cái phổ
biến) là sản phẩm của tư duy con người. Thấy được và khắc phục hạn chế của
hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái
riêng có mối liên hệ mật thiết với nhau và cả hai đều tồn tại một cách khách
quan.
- Thứ nhất, cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng
mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngồi cái

riêng. Ví dụ như khi xem xét ngun nhân biểu tình ở một cơng ty có thể là do
các ngun nhân trực tiếp như: trả lương không đúng kỳ hạn hay mức lương
quá thấp so với sức lao động mà công nhân bỏ ra. Đó là những cái riêng trong
từng điều kiện. Nhưng sau tất cả những cái riêng đó thì tồn tại một cái chung
là đều do tư bản bóc lột gái trị thặng dư của công nhân.
4


- Thứ hai, cái riêng nằm trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Khơng có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập. Ví dụ như mỗi con người là một cái
riêng nhưng khổng thể nào tồn tại ngoài mối liên hệ với tự nhiên và xã hội.
- Thứ ba, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng, cịn
cái riêng là cái tồn bộ nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú
hơn cái chung vì ngồi những đặc điểm chung, cái riêng cịn có cái đơn nhất.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản ánh thuộc tính cịn cái chung
phản ánh mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do
vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và
phát triển của cái riêng. Có thể khái quát bằng công thức sau đây:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cái chung chỉ giữ phần bản chất hình thành nên chiều sâu của sự vật
cịn cái riêng là cái tồn bộ vì nó hình thành nên thực tế sống động. Trong cái
riêng luôn tồn tại cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế giữa cái riêng vừa có sự
tách biệt, vừa có thể tác động qua lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Cũng nhờ
sự tương tác này mà cái riêng được phát hiện. Ví dụ: người nông dân Việt
Nam bên cạnh những cái chung với nông dân của các nước khác trên thế giới
là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn,.. cịn có đặc điểm
khác là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, các tập quan lâu đời và điều kiện
tự nhiên của đất nước nên rất cần cù chịu khó.
- Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
những điều kiện nhất định. Sở dĩ như vậy là vì khi thực hiện cái mới bao giờ

cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn
thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau,
khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn
nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của
quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ chung
5


thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Ví
dụ quá trình phát triển của sinh vật, xuất hiện những biến dị ở một hoặc ít cá
thể riêng biệt, biểu hiện thành đặc tính mà khi ngoại cảnh thay đổi nó trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Và những đặc tính khơng phù hợp sẽ mất
dần đi và trở thành cái đơn nhất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị
sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ
cái riêng, từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý
muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức
phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải đưa ra cái chung
để nhằm cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết
những ngun lí chung (khơng hiểu biết lí luận), sẽ khơng tránh khỏi rơi vào
tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Mặt khác cái chung lại
biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tùy theo từng
cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp. Ví dụ khi áp dụng những nguyên lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng
thời kì lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lí đó cho thích hợp, có
vậy mới đem lại kết quả trong hoạt động thực tiễn.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến

thành cái đơn nhất, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều
kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho người trở thành cái chung và cái
chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
6


Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung, ta đã dưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một
cách vững chắc, theo kịp các quốc gia khác đồng thời cung cấp cơ sở vật chất
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa.

7


II. VẬN DỤNG CƠ SỞ LÍ LUẬN GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
1. Khái niệm kinh tế thị trường
Để hiểu rõ về khái niệm kinh tế thị trường trước hết ta cần biết thị
trường là gì. Trên góc độ vĩ mơ, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một
cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hóa và lưu
thơng hàng hóa. Ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy có
thị trường. Theo David Begg, thị trường "là sự biểu hiện thu gọn của quá trình
mà thơng qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng
nào, các quyết định của các cơng ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và
cái quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung
hòa bằng sự điều chỉnh giá cả". Hay ta cũng có thể định nghĩa thị trường là nơi
diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Lồi người đã chứng kiến sự phát triển của kinh tế hàng hoá, sự hình
thành, phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là
hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hố, trong đó từ sản suất đến tiêu

dùng đều thơng qua thị trường. Nói cách khác, kinh tế hàng hố phát triển,
trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hố thì gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường,
tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn
có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì, như
thế nào và cho ai. Một cơ chế bao hàm các nhân tố cơ bản là cung, cầu, giá cả.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn, mà là một trật tự kinh
tế, là bộ máy vi tính phối hợp một cách khơng có ý thức hoạt động của người
tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Khơng ai
tạo ra nó, nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự ra đồi và phát triển của
kinh tế hàng hoá.
8


2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang
hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ
và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước
ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các
loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Thị trường trong nước gắn liền với thị trương thế giới. Nền kinh tế Việt Nam
là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Chính điều này tạo nên một chỉnh thể
hồn chỉnh của nền kinh tế thế giới.
Như vậy với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì việc tiếp
thu những đặc trưng cơ bản những nét chung trong tổng thể đó để hồn thiện
nền kinh tế Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu
một cách hình thức phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với điều kiện đất
nước. Phải giữ dược những nét đặc trưng riêng tức là phải bảo tồn cái đơn
nhất của kinh tế Việt Nam từ đó cịn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường
mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị

trường TBCN.
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh
tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ
nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi cịn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hố
tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời
gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của
các nước trong hệ thống XHCN mà mơ hình kế hoạch hố đã phát huy được
tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế
hoạch hố nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng
về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế.
9


Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta
tồn tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và kinh tế hàng hoá. Do sự khơng hài hồ giữa các nền kinh tế và sự chủ
quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng
ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà cịn gây
lãng phí tài ngun, ơ nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị
cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên nhân đó đã
khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào
khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số nơi
cịn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ những sai lầm
cơ bản như:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một

quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô
chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của đất
nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2,2%.

- Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình
quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát
triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các cơng cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến khơng thích hợp với u cầu tự do lựa chọn
của người sản xuất và người tiêu dùng đã khơng kích thích sự sáng tạo của
hàng triệu người lao động.
Chính vì việc q tập trung vào bên ngồi cái riêng, đó là những mục
tiêu phát triển, xây dựng mà quên đi cái riêng là những sở hữu tư nhân và cá
nhân. Điều đó trái với quy luật phát triển và quan hệ giữa cái chung và cái
riêng dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, làm kìm hãm sự phát triển của
10


kinh tế. Đồng thời trước những đổi thay của tình hình kinh tế thế giới là các
nước TBCN đã sớm chuyển sang kinh tế thị trường và đã đạt được những
bước tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế. Đó là những yêu cầu cấp bách đòi
hỏi phải thay đổi phương hướng, con đường nhằm cải thiện nền kinh tế trong
nước. Nói cách khác đó là những điều kiện tiên quyết yêu cầu cái chung phải
trở thành cái đơn nhất và cái đơn nhất phải trở thành cái chung. Cơ chế quản lí
kinh tế từ kế hoạch tập trung phải trở thành nền kinh tế thị trường hội nhập
cùng thế giới.
Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ bản, cùng
những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà khơng cịn đơn thuần phủ
nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng có của
CNTB; nước ta khơng đi theo CNTB thị cũng không thể áp dụng kinh tế thị
trường trong phát triển kinh tế). Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị trường
có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu
thế của thời đại:

- Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì khơng
thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để
mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ
thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục chúng ta đã liên tục đổi
mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội
đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội,
tích luỹ hầu như khơng có, đơi khi cịn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
- Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có
tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng
phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại q
dài nên nó khơng những khơng cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản
11


xuất phát triển mà nó cịn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
- Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị
trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho
rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị
trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở
hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã
được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng
với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ,
còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ
can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
- Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế
của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hồ nhập quốc tế chính là
tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được
tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp
thấp. Kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trị và sức mạnh của mỗi dân

tộc, là cơng cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm
quyền.
Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể
thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình
thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển
rất cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó cịn phải xây dựng một nền kinh
tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với
nền kinh tế thị trường TBCN.

12


3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam
3.1: Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường
thế giới
Không cái riêng nào là độc lập hồn tồn, kinh tế thị trường nước ta
ln nằm trong tổng quan kinh tế thị trường thế giới. Nó liên hệ với những
nền kinh tế khác hình thành nên nét chung quy luật của một nền kinh tế thị
trường.
Bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ
chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái
đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa vào từng điều kiện kinh tế, xã hội, tự
nhiên, vào từng lĩnh vực khác nhau. Với tư cách là cái chung, kinh tế thị
trường ở Việt Nam cũng là kinh tế thị trường nên trong quá trình xây dựng
phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố:
- Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và các thành phần kinh tế
để nền kinh tế có “tự do hố về kinh tế” (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và
tự chủ), dẫn tới các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao, tự lực, tự cường phát
huy nội lực.
- Các phạm trù vốn có của kinh tế thị trường như: hàng hố, tiền tệ, thị

trường cạnh tranh, cung cầu, giá trị thị trường,giá cả thị trường và lợi nhuận.
- Kinh tế thị trường là hình thức phát triển của kinh tế hàng hố nên
nó chịu sự tác động của các quy luật vốn có của kinh tế hàng hố là : quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ và quy luật cạnh tranh.
- Hình thành một lớp người năng động, nhạy cảm, giám nghĩ, dám làm,
ham mê làm giàu chính đáng, quan niệm đúng đắn về mục đích kiếm tiền.
- Một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là mọi biến động kinh tế
đều được điều tiết qua giá cả. Giá cả sản xuất lại được điều tiết qua thị trường
dưới tác động của quan hệ cung cầu.
13


3.2: Những nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
- Thứ nhất, về hệ thống mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngồi
nước để thực hiện cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho CNXH; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; tiêu
dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước.
- Thứ hai, về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta có cấu trúc từ nhiều loại hình, hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và
sở hữu tư nhân, trong đó: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu từng
bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng
xong về cơ bản. Từ các hình thức sở hữu đó hình thành nên nhiều thành phần
kinh tế với những hình thức tổ chức đa dạng, đan xen hỗn hợp. Các thành
phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ ba, về cơ chế vận hành kinh tế: là cơ chế thị trường có sự quản lý

của nhà nước để đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích
phát triển các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động;
thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với kinh tế thị trường trên cơ sở học tập vận
dụng kinh nghiệm có chọn lọc cách quản lý kinh tế của các các nước tư bản,
điều chỉnh cơ chế kinh tế, giáo dục đạo đức kinh doạn phù hợp; thống nhất
điều hành, điều tiết và hướng dẫn sự vận hành nền kinh tế cả nước theo đúng
mục tiêu phát triển xã hội.
- Thứ tư, về hình thức phân phối: có nhiều hình thức đan xen, vừa thực
hiện theo nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường và nguyên tắc phân phối
của CNXH. Trong đó cần ưu tiên phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài
14


năng và hiệu quả, đồng thời đảm bảo sự phân phối cơng bằng và hạn chế bất
bình đẳng xã hội.
- Thứ năm, về nguyên tắc giải quyết các mặt, các mối quan hệ chủ yếu:
Phải kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo
đảm giải phóng, xây dựng lực lượng sản xuất mới kết hợp với củng cố và hoàn
thiện qaun hệ sản xuất, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện
và nâng cao đời sống nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng
xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội.
- Thứ sáu, về tính cộng đồng và tính dân tộc: mang tính cộng đồng cao
theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển có sự tham gia của cộng
đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội
giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, công bằng dân chủ văn
minh, đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
- Thứ bảy, về quan hệ quốc tế: kinh tế thị trường định hướng XHCN
dựa vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn
lực ngoài nước theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức

mạnh của thời đại” và sử dựng một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất, để phát
triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
3.3: Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại
Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng
động, tinh tế, nhạy cảm (đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm
tám mươi.
Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường
theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng (con
người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) của Việt Nam mà nền kinh tế cũng
như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể:
15


- So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%,
trong đó sản xuất cơng nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim
ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được
vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu
có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần
biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
- Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến
nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
- Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt nam đã tăng
đáng kể sau vài năm đổi mới:
Chỉ tiêu
1971
1983
1986
1996
Thu nhập quốc dân (tỷ USD)
4,97

5,14
5,78
12,46
Trên đầu người
101
94
101
175
Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới
(Nhà xuất bản thống kê 1996)
Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang
kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang
lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc
lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội...
3.4: Một số thực trạng và giải pháp tiếp tục phát triển đối với nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
3.4.1: Thực trạng
- Thứ nhất, với thành phần kinh tế nhà nước (chủ yếu là doanh nghiệp
nhà nước)
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu
sắc những hậu quả của chế độ kinh tế cũ. Nên mặc dù chúng ta đã thực hiện
nhiều biện pháp cải cách bộ phận kinh tế này, nó vẫn còn tồn tại nhiều thực
trạng như:
16


+ Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
nhà nước cịn thấp. Tính năng động của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp
nhà nước cịn hạn chế.
+ Trình độ quản lý của doanh nghiệp nhà nước phần lớn còn yếu kém,

chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế thị trường. Cán bộ quản lý hầu hết trưởng
thành trong cơ chế cũ, chưa được đào tạo, đào tạo lại, không đáp ứng được
nhu cầu mới đặt ra của nền kinh tế thị trường.
+ Chính sách tài chính, tín dụng, chính sách thuế, tiền lương và phân
phối lợi nhuận cịn nhiều bất cập.
+ Qui mơ doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, dàn trải, chồng chéo về
ngành nghề và tổ chức quản lý.
- Thứ hai, về lực lượng sản xuất:
+ Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn lạc hậu. Địi hỏi q trình cơng nghiệp
hố
hiện đại hố.
+ Nguồn nhân lực: Sự thiếu hụt một số lượng lớn công nhân kỹ thuật,
thợ bậc cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Chất lượng nguồn nhân
lực là vấn đề rất bức súc. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh chóng, kéo
theo mọi mặt biến đổi khơng ngừng của xã hội, địi hỏi con người phải ln
ln thích nghi với cuộc sống. Do đó, những phẩm chất của người lao động
phải có sự biến đổi tương ứng. Thực tế đó địi hỏi hệ thống giáo dục, đào tạo
hợp lý.
- Thứ ba, thị trường
Thị trường sơ khai, rối loạn và nhiều yếu tố tự phát. Thị trường tiền tệ
và thị trường vốn vẫn còn tách biệt: một bên là tín dụng lãi suất, tỷ giá do Nhà
Nước định hoặc khống chế; một bên là tín dụng lãi suất tự do, tự phát ngồi
vịng kiểm sốt của Nhà Nước. Thị trường sức lao động có phần chưa thốt
17


khỏi chế độ biên chế, hoặc tự phát. Thị trường thiếu và cịn những rối loạn
cùng với tình trạng luật lệ Nhà Nước vừa thiếu, vừa bất hợp lý: còn những gị
bó và cả những sơ hở, thủ tục hành chính phiền hà, nạn tham nhũng tràn lan là
mơi trường bất lợi cho thị trường phát triển.

Mặc dù đã có định hướng lớn để xây dựng một thị trường đồng bộ ,
nhưng trên thực tế chuyển biến rất chậm. Nguyên nhân chủ yếu là sự thiếu
nhất quán về chính sách, thể chế nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đầu tư,
thương mại tỷ giá, lãi suất. Đó là những tồn tại của vấn đề thị trường ở Việt
Nam hiện nay.
- Thứ tư, sức cạnh tranh của nền kinh tế cịn thấp
Ví dụ như ngành dệt may Việt Nam vốn được coi là thế mạnh của
chúng ta. Trong ba tháng đầu năm 2003 xuất khẩu vào thị trường Mỹ vượt 500
triệu USD, thì vào Nhật và EU giảm 25%. Xuất khẩu vào các
nước ASEAN trước đây chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu hàng năm của cả
nước thì nay chỉ cịn 17%. Tỷ trọng này có nghĩa là Việt Nam đã mở rộng sang
các thị trường khác, nhưng cũng chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng hố Việt
Nam cịn thua kém so với các nước ASEAN khác.
- Thứ năm, về mặt xã hội
Sự phân hoá giàu nghèo, vấn đề đạo đức, lối sống, văn hố, ơ nhiễm
mơi trường, tàn phá tài nguyên,... Làm cho các mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội gặp nhiều khó khăn khi thực hiện.
3.4.2: Giải pháp
Có thể nhận thấy hầu hết những thực trạng trên là do kinh tế thị trường
ở nước ta chưa phát triển. Do đó, giải pháp chiến lược, lâu dài, trên tầm cả vĩ
mơ và vi mơ là: Tạo lập duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế. Đây là một
điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta. Tự do hoá kinh tế là điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi
18


dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ rất cần thiết cho các chủ
doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ. Chỉ có một cơ chế
kinh tế thực sự tự do, cạnh tranh lành mạnh mới đẩy các thành phần kinh tế,
đặc biệt là bộ phận kinh tế Nhà Nước, vốn quen thói bị động, bao cấp tự phát

phải đứng vào cuộc đua tranh quyết liệt sống cịn. Do đó bộ phận này phải tự
thân vận động, phát triển để thích nghi, hồn thiện về mọi mặt khơng chỉ là
quản lý, mà còn sở hữu và phân phối.
Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế
giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các nước
phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự do sang
kinh tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường chung
của toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường hiện đại.
Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta phải chấp nhận những thách
thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng những tiến bộ
mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao
động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải đào tạo được "lớp
người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm thấy lạ lẫm với
những máy móc hiện đại, địi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Để đáp
ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học, giáo dục đào tạo, cũng
như có những chính sách phát hiện, ni dưỡng và giữ gìn nhân tài, tránh hiện
tượng chảy máu chất xám.
Nước ta có vị trí vơ cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam
thắng cảnh đẹp được thế giới cơng nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao
thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở
nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một
yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh phát
triển du lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu ngoại tệ
19


từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành nghề
khác trong nền kinh tế.
Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế,
về hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò

chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự
thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn
còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào
nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Điều
này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng cho
nền kinh tế, khơng thể giữ vai trị chủ đạo như trước. Theo thống kê, hàng năm
tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ có 25% dành
cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại của hai thành
phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư. Trong những
điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc của
doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên năng
động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và quan tâm đến
hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, định hướng
như trước.
Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều
kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập luật
pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật,
sông văn minh, có văn hóa, và tạo một mơi trường cạnh tranh cơng bằng, lành
mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh.
Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và có sự quản lý của nhà
nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và
con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường mang lại.
20


21


PHẦN KẾT LUẬN

Qua nhiều năm đổi mới, tìm tịi và nghiên cứu để tìm ra hướng đi đúng
đắn cho nền kinh tế. Đảng ta đã luôn phải đứng trước hai con đường cái chung
hay cái đơn nhất, cái nào là quy luật phải tuân theo và cái nào có thể thay đổi,
cái nào là của riêng chúng ta. Đứng trước tình hình đó, triết học Mác Lênin đã trở thành kim chỉ nam định hướng cho tồn bộ q trình xây dựng
kinh tế thị trường ở Việt Nam. Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam cũng tuân theo những quy luật chung
mang tính bản chất của kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những
đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt Nam. Chúng ta khơng coi
kinh tế thị trường là mục tiêu mà kinh tế thị trường chỉ là phương tiện để
chúng ta xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh, xã hội yêu con người và vì con người.
Sau khi nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
cùng với việc vận dụng vào xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam, ngoài
việc nâng cao nhận thức của bản thân về kinh tế thị trường, em cịn có thể hiểu
được tầm quan trọng của việc áp dụng cặp phạm trù cái riêng và cái chung vào
thực tiễn.
Đặc biệt trong mơi trường tồn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt,
các chủ thể cạnh tranh ln tìm mọi cách để tạo thế mạnh riêng, thì việc cố
gắng tìm kiếm, tạo dựng và phát triển những nét đặc sắc, đơn nhất là vô cùng
quan trọng đối với khơng chỉ doanh nghiệp mà cịn với cả nền kinh tế quốc
dân, là nhân tố quyết định đến quá trình xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mang đậm màu sắc Việt Nam .

22


DANH MỤC TÀI LIỆU
1. Nguyễn Sinh Cúc – 1995 – “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” – NXB
Thống Kê – Hà Nội
2. Mai Ngọc Cường – 1992 – “Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường” – Viện

Thông tin Khoa học Xã hội – Hà Nội
3. Lê Trần Hảo – 1997 – “Thống kê thương mại trong kinh tế thị trường” – NXB
Thống Kê – Hà Nội
4. Vladimir Ilych Lenin –1961 – “Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” – NXB Sự
Thật – Hà Nội
5. Phan Quang Tuệ - 1994 – “Một số học thuyết kinh tế tiền tệ của các nhà kinh
tế thị trường” – NXB Lao Động – Hà Nội
6. Nhiều tác giả - 2016 - “Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” –
NXB Chính trị quốc gia -Sự thật – Hà Nội

23


×