Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Anh (chị) hãy phân tích vị trí, chức năng của quốc hội và đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng của quốc hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.18 KB, 18 trang )

LUẬT HIẾN PHÁP (9Đ)
MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong hệ
thống tổ chức bộ máy Nhà nước, Quốc hội giữ vị trí, chức năng đặc biệt quan trọng
được xác định tại Điều 69 Hiến pháp 2013: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Với vị
trí to lớn, việc thực hiện chức năng có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện vai trò của
cơ quan quyền lực cao nhất nước, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, đảm bảo tôn trọng và
phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới của cả hệ thống chính trị
theo đường lối, chính sách của Đảng. Hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới và đạt
được những thành tựu quan trọng. Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện
chức năng của Quốc hội trong những năm qua còn nhiều mặt hạn chế. Hiệu quả hoạt
động lập pháp đã đạt những kết quả nhất định, ban hành được một khối lượng luật rất
lớn, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đã có đạo luật cơ bản điều chỉnh. Song,
các đạo luật đã ban hành có chất lượng chưa cao, chưa dự báo được thực tiễn vận động
phong phú, phức tạp của các quan hệ xã hội. Hay việc quyết định, giám sát một số nội
dung quan trọng như việc giám sát quản lý sử dụng ngân sách, cơng tác cải cách thủ
tục hành chính, tư pháp chưa được chủ trọng…hoạt động giám sát về phòng, chống
tham nhũng cũng chưa đạt được kết quả như mong muốn, việc lựa chọn phương thức
giám sát còn bị động. Chính vì thế, việc tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra các luận cứ nhằm
đánh giá đầy đủ và thống nhất vị trí, chức năng của Quốc hội, thực tiễn việc thực hiện
chức năng của cuốc hội từ đó rút ra được những giải pháp hiệu quả và bài học từ vấn


đề thực tiễn đó là yêu cầu cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó, em xin chọn chủ đề 10: “…(điều 69 hiến pháp 2013). Anh
(chị) hãy phân tích vị trí, chức năng của quốc hội và đánh giá thực tiễn thực hiện

2


chức năng của quốc hội ở Việt Nam hiện nay”, làm đề tài cho bài tiểu luận kết thúc
học phần.

II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Qua nghiên cứu, khẳng định vị trí pháp lý, chức năng của Quốc Hội trong tổ
chức hệ thống nhà nước; đánh giá thực tiễn việc thực hiện chức năng của Quốc hội
trong những năm qua, từ đó đưa ra những giải pháp và rút ra bài học kinh nghiệm . Để
đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra của đề tài là:
-Nghiên cứu cơ sở lý luận về vị trí, chức năng của Quốc Hội dựa theo Hiến
pháp năm 2013. Phân biệt, đưa ra những điểm mới, ý nghĩa của việc sửa đổi.
-Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện chức năng của Quốc hội. Chỉ ra kết quả
đạt được và những bất cập cịn tồn tại, ngun nhân của những bất cập đó.
-Nghiên cứu các đường lối chính sách của Đảng về giải pháp nâng cao hiệu quả
việc thực hiện chức năng của Quốc hội, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.

III. Ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, chức năng và hoạt động thực
hiện chức năng của Quốc hội. Luận văn có thể dùng làm tài liệu thâm khảo cho việc
nghiên cứu của sinh viên, các hoạt động thực tiễn tìm hiểu về pháp luật.

IV. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của
đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Mac-Lênin, các tư tưởng

quan điểm của Đảng, Nhà nước về tổ chức quyền lực nhà nước, những kì họp Quốc
Hội các khóa....Trong q trình nghiên cứu, sử dụng chủ yếu các phương pháp phân
tích, tổng hợp tài liệu có sẵn trên sách, các trang báo điện tử, kiến thức đã được tiếp
thu trong quá trình tự học tập và được giảng viên giảng dạy, hướng dẫn.
Kết cấu : ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của đề tài gồm 4 mục:
-I. Các vấn đề lý luận về vị trí và chức năng của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
-II. Thực tiễn thực hiện chức năng của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay

3


-III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Quốc
hội ở Việt Nam hiện nay
-IV. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện chức năng của Quốc hội

B. NỘI DUNG
I. Các vấn đề lý luận về vị trí và chức năng của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Vị trí của Quốc hội
Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc Hội chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí của Quốc Hội được xác định trên cơ sở quy định
của hiến pháp. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 đã quy định về vị trí của Quốc Hội như
sau: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam….”. Vị trí đặc biệt này
xuất phát từ việc Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra.

1.1. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân
dân

Tính đại biểu cao nhất của nhân dân này được thể hiện qua bốn phương diện
sau:
Thứ nhất, về cách thức thành lập: Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy
nhà nước do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Các đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay sẽ được bầu theo đơn
vị bầu cử, tuy nhiên họ không chỉ đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn
vị bầu cử ra mình, mà cịn đại diện cho nhân dân cả nước.
Thứ hai, về cơ cấu, thành phần đại biểu: Các đại biểu đại diện cho cơ cấu xã hội
trong phạm vi cả nước như: dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, độ tuổi… Hay nói cách
khác, Quốc hội được coi như tấm gương phản chiếu dân tộc, thể hiện rõ nhất khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân tồn quốc.
Thứ ba, về phương diện hoạt động: Quốc hội luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với
nhân dân để phục vụ lợi ích chung của nhân dân và chuyển ý chí nguyện vọng của

4


nhân dân thành ý chí của nhà nước, các quy định có tính bắt buộc chung cho mọi thành
viên trong xã hội.
Thứ tư, về giám sát hoạt động: Quốc hội chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm
trước nhân dân, vì Quốc hội gồm các đại biểu do nhân dân trực tiếp bầu. Để thực hiện
quyền giám sát của mình, nhân dân sẽ theo dõi quá trình làm việc của Quốc ội, có thể
là theo dõi qua các kì họp Quốc hội, chẳng hạn: qua việc nghe chất vấn, trả lời chất
vấn…qua việc các đại biểu phải báo cáo các hoạt động của mình ở đơn vị bầu cử. Đại
biểu Quốc hội có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm khi khơng cịn xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân.

1.2. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, có hai hình thức chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền lực

nhà nước, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam thì dân chủ đại diện lại đóng một vai trò rất quan trọng, là phương
thức cơ bản trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của nhà nước, nhân dân gián tiếp thực hiện
quyền lực của nhà nước. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà
nước trực tiếp nhận, và thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân cả nước trao cho,
biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước dưới hình thức hiến pháp, luật, nghị
quyết,… có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính bắt buộc thi hành đối với mọi cơ quan
nhà nước, tổ chức và cá nhân trong phạm vi cả nước. Chính vì vậy, Quốc hội được xác
định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta.
Và tính quyền lực nhà nước cao nhất này, được thể hiện qua 3 phương diện:
Thứ nhất, Quốc hội có quyền lập hiến, lập pháp; Thứ hai, Quốc hội có quyền quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước; Thứ ba, Quốc hội có quyền giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước.
Ba phương diện này cũng chính là ba nhóm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
chính của Quốc Hội.
Quốc Hội là cơ quan đại điện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của Nhà nước thể hiện vai trò là cơ quan trụ cột của Nhà nước. Do vậy, ngay sau

5


mỗi khóa quốc hội được hình thành thì quốc hội lập ra các cơ quan quan trọng trong
bộ máy nhà nước hoặc quốc hội bầu các chức danh chủ chốt (người đứng đầu) các cơ
quan quan trọng trong bộ máy nhà nước. Cụ thể, Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội; bầu
(miễn nhiệm, bãi nhiệm) Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ,… Tổng kiểm tốn nhà
nước; ngồi ra, bầu (miễn nhiệm, bãi nhiệm) người đứng đầu cơ quan khác do quốc
hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễm nhiệm, cách chức…

2. Chức năng của Quốc hội

Theo điều 69 Hiến pháp 2013 xác định Quốc Hội có các chức năng cơ bản sau:

2.1. Thực hiện quyền lập hiến, lập pháp
Chức năng lập hiến, lập pháp gồm: Thông qua Hiến pháp, thông qua luật; sửa
đổi Hiến pháp, sửa đổi luật và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng lập hiến, lập pháp của
Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”. Trong khi đó
Điều 83 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992 thì
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thơng qua, sửa đổi Hiến pháp và pháp luật. Ta
thấy, quy định này không phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, bởi vì trong quá trình
lập hiến, lập pháp, ngồi Quốc hội ra thì cịn có rất nhiều chủ thể tham gia vào q
trình này. Chính vì vậy, điều 69 Hiến pháp 2013 đã bỏ đi cụm từ “duy nhất” khi quy
định về quyền lập hiến, lập pháp của Quốc Hội. Việc bỏ đi từ này có rất nhiều ý nghĩa,
ý nghĩa cơ bản nhất chính là hiến pháp năm 2013 đã mở đường cho những chủ thể
khác tham gia vào quy trình lập hiến, lập pháp của Quốc hội.
Theo Khoản 1 Điều 120 Hiến pháp 2013 quy định: “Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có
quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành”. Như vậy, đây là những nhóm chủ thể được quyền tham gia vào việc
đề nghị làm, sửa đổi hiến pháp. Ngồi ra, cịn chủ thể nữa được tham gia vào thực hiện
quyền lập hiến bên cạnh Quốc hội đó chính là nhân dân. Tại Khoản 4 Điều 120 Hiến
pháp 2013 quy định rằng: “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng
số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc

6


hội quyết định”. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã mở ra một quy định đó là trong một số

trường hợp khi Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân, thì lúc đó nhân dân sẽ là người
có quyền thơng qua hiến pháp. Bên cạnh việc mở đường cho các chủ thể khác tham gia
vào việc thực hiện quyền lập hiến, thì việc bỏ đi từ “duy nhất” cịn mở đường cho các
chủ thể khác tham gia vào việc thực hiện quyền lập pháp, đó là những chủ thể có
quyền trình sáng kiến lập pháp tại điều 84 Hiến pháp 2013. Tóm lại, ý nghĩa của việc
bỏ đi từ “duy nhất” này là mở đường cho các chủ thể khác tham gia vào quy trình lập
hiến, lập pháp. Ngồi ra, Hiến pháp năm 2013 đã phân biệt rõ giữa quyền lập hiến và
quyền lập pháp, thay thuật ngữ “quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định “quyền lập
hiến, quyền lập pháp”.

2.2. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Thành lập các cơ quan nhà nước ở trung ương: Được trình bày trong Điều 8 và
Điều 9 Luật Tổ chức Quốc hội 2014. Cụ thể là: Điều 8 Luật Tổ chức Quốc hội 2014
quy định về những chức danh Quốc hội được quyền bầu, Điều 9 Luật Tổ chức Quốc
hội 2014 quy định về những chức danh Quốc hội được quyền phê chuẩn.
Quyết định các vấn đề quan trọng khác: Mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách cơ bản
phát triển kinh tế - xã hội; chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; chính sách
dân tộc, tơn giáo; đại xá; quy định hàm, cấp, huân chương…; trưng cầu ý dân, vấn đề
chiến tranh hịa bình; chính sách cơ bản về đối ngoài.
Trong những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của
Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã quy định một cách ngắn gọn và bao quát, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh các vấn đề thuộc về kinh tế - xã hội được quy định tại Khoản 4
Điều 70. Với việc tập trung vào quyết định các chính sách cơ bản, minh bạch, cụ thể
một số nội dung nhất định đã thể hiện thẩm quyền của Quốc hội trong việc bảo đảm
tính thống nhất về mặt nhà nước đối với các vấn đề tài chính, tiền tệ, kinh tế nói riêng
và các vấn đề quan trọng khác của quốc gia nói chung. Đó chính là cơ sở thực hiện
việc phân cấp, phân quyền hợp lý hơn giữa các cơ quan ở trung ương và cơ quan địa
phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong những vấn đề có liên
quan đến kinh tế - xã hội nói chung của quốc gia.
Đối với các vấn đề liên quan tới đối ngoại, chủ quyền quốc gia, Tại Khoản 14

Điều 70 Hiến pháp 2013: bên cạnh việc tiếp tục duy trì thẩm quyền của Quốc hội trong

7


việc quyết định các chính sách cơ bản về đối ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý
hơn thông qua việc quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, quyết
định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan tới chiến tranh,
hịa bình, chủ quyền quốc gia….., quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước
quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội. Sự minh bạch này là nền tảng hiến
định cho việc tạo lập hành lang pháp lý theo hướng chuẩn mực, hoàn thiện hơn cho
việc bảo đảm, thực thi chủ quyền quốc gia, thực thi chính sách đối ngoại trong thời
gian tới.

2.3. Giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước
Về đối tượng giám sát tối cao.
Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc hội giám sát tối cao đối với “toàn
bộ hoạt động của Nhà nước” (đoạn 4 Điều 83) mà thu hẹp phạm vi của quyền giám sát
tối cao của Quốc hội. Theo Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có quyền giám sát bất cứ
hoạt động nào của các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, kể cả cấp cơ
sở. Tại Hiến pháp năm 2013, phạm vi đó đã được giới hạn trong các hoạt động của cơ
quan nhà nước ở cấp cao nhất, những cơ quan do Quốc hội thành lập, phê chuẩn như
Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 70
Hiến pháp năm 2013). Phạm vi này phù hợp với chức năng giám sát tối cao của Quốc
hội, đồng thời phù hợp với thực tiễn thực hiện chức năng giám sát này.Hiến pháp năm
2013 đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và
các cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập.

Khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 quy định về các chủ thể thuộc quyền
giám sát tối cao của Quốc hội bao gồm: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Hiến
pháp năm 2013 đã mở rộng thêm phạm vi thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc
hội đối với các thiết chế như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ
quan khác do Quốc hội thành lập. Quy định này là phù hợp với tính chất hoạt động
giám sát của Quốc hội. Sở dĩ có sự thay đổi này là do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung

8


hai thiết chế hiến định độc lập (cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán
nhà nước (Chương X). Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội
nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Hơn nữa, việc hiến định các cơ
quan độc lập trên góp phần làm rõ chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công,
phối hợp trong việc kiểm sốt quyền lực và hồn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Việc quy định mang tính chất khái quát về những hoạt động của Nhà nước
thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại Khoản 2 Điều 70 Hiến pháp năm
2013 là cơ sở vững chắc để các văn bản pháp luật ban hành sau này được xây dựng có
hệ thống, chi tiết, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các lĩnh vực pháp luật.
Các hoạt động giám sát tối cao: Theo quy định tại điều 11 Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội Đồng Nhân Dân 2015, Quốc hội có những hoạt động
giám sát cơ bản sau: Xem xét báo cáo công tác, xem xét văn bản quy phạm pháp luật,
xem xét việc trả lời chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm…

II. Thực tiễn thực hiện chức năng của Quốc hội ở Việt
Nam hiện nay
Nhìn lại chặng đường hơn 75 năm hình thành và phát triển, kế thừa truyền
thống của những Khóa Quốc hội trước, với tinh thần đồn kết, sáng tạo, hành động vì

lợi ích của Nhân dân, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được
kết quả to lớn trên các lĩnh vực từ lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng
đến ngoại giao nghị viện, đóng góp quan trọng vào những thành tựu lớn có ý nghĩa
lịch sử của đất nước trong gần 35 năm đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, việc thực hiện chức năng Quốc hội còn nhiều vấn đề lớn,
phức tạp, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, tìm ra ngun nhân từ đó đưa ra các
giải pháp để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

1. Thực tiễn thực hiện chức năng thực hiện quyền
lập hiến, lập pháp
Quốc hội Việt Nam cũng như Quốc hội các nước trên thế giới đều coi hoạt động
lập pháp là hoạt động chủ yếu. Hoạt động lập pháp của Quốc hội nước ta trong hơn 75
năm qua đã có bước phát triển đáng kể; Quốc hội đã thông qua 5 bản hiến pháp, đánh

9


dấu những cột mốc pháp lý quan trọng của lịch sử lập hiến nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt nam với hàng trăm luật và bộ luật tạo cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh
các quan hệ xã hội.
Trong Hiến pháp năm 2013, quy định hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày
càng đầy đủ, hoàn thiện: Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
hằng năm và tồn khóa; Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, phân công soạn thảo,
kiểm tra và giám sát việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Hội đồng
dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội tham gia chỉnh lý, hoàn thiện và thẩm tra các dự
án luật; đại biểu Quốc hội có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc thảo luận và thông
qua các dự án luật.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam qua các nhiệm kỳ đã thể hiện rõ sự
tiến bộ. Hiện nay, đã hình thành được một hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh nhằm
điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới,

Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành số lượng luật, pháp lệnh lớn gấp
nhiều lần (từ 1945 đến 1986, nước ta đã ban hành 63 luật và pháp lệnh; từ ngày 1987
đến ngày 2013, đã ban hành 483 luật và pháp lệnh). Chỉ riêng từ tháng 5/2005 đến
tháng 6/2015, Quốc hội đã thông qua 238 luật và pháp lệnh (30 pháp lệnh, 208 luật).
Đặc biệt, trong thời kỳ này, đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, bảo đảm cơ sở
hiến định cho việc đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước và hội nhập quốc
tế.
Trong các dự án luật đã được thơng qua, có nhiều luật mới, lần đầu tiên được
ban hành ở nước ta: trong lĩnh vực kinh tế có Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Quản
lý và sử dụng tài sản nhà nước, Luật Quản lý nợ công; trong lĩnh vực tổ chức bộ máy
nhà nước có Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước; Luật Cán bộ, công chức, Luật
Viên chức; trong lĩnh vực xã hội có Luật Bình đẳng giới; trong lĩnh vực khoa học cơng
nghệ có Luật Năng lượng ngun tử, Luật Cơng nghệ cao, Luật Đa dạng sinh học...
Nội dung của các dự án luật được Quốc hội thông qua khá phong phú, điều
chỉnh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Kịp thời bổ sung và hồn thiện các
luật khơng phù hợp với sự vận động và phát triển của thực tiễn. Bên cạnh đó, kỹ thuật
lập pháp cũng được Quốc hội đặc biệt quan tâm, tình trạng luật chỉ quy định nguyên
tắc chung chung, không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ xã hội mà phải thông qua văn

10


bản dưới luật cụ thể hóa thi hành đã giảm nhiều, hạn chế dần việc luật sau khi ban
hành phải chờ đợi nghị định và thông tư mới đi vào cuộc sống.
Như vậy, hoạt động lập pháp của Quốc hội có những đổi mới đáng ghi nhận,
bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể thấy, hoạt động lập pháp đã
có sự tiến bộ cả về chất lượng và số lượng, góp phần làm cho hệ thống pháp luật được
đồng bộ hóa đầy đủ hơn, đặc biệt là sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành.
Để thực thi Hiến pháp năm 2013, pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền
tự do dân chủ của cơng dân đã thể chế hóa một số giá trị tiến bộ của nhân loại được thể

hiện trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên: bỏ hình phạt tử hình đối với
nhiều tội trong Bộ luật Hình sự, từng bước nâng cao vai trò của luật sư, tranh tụng
trong hoạt động tư pháp. Việc ban hành một số luật như: Luật Quản lý và sử dụng tài
sản nhà nước, Luật Quản lý nợ cơng, Luật Thuế thu nhập cá nhân… đã góp phần hoàn
thiện một bước pháp luật về kinh tế, bảo đảm đủ sức điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực
kinh tế - dân sự của nền kinh tế thị trường. Tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường
lối của Đảng thông qua pháp luật về lao động và an sinh xã hội: Luật Khám, chữa
bệnh, Luật Bảo hiểm y tế, Luật An toàn thực phẩm, Luật Bảo hiểm xã hội,… góp phần
giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giúp pháp luật về các vấn đề xã hội ngày càng
hoàn thiện.
Bên cạnh những thành tựu lớn, hoạt động lập pháp cịn khơng ít hạn chế mà
Quốc hội các khóa nêu ra như bài học kinh nghiệm qua các khóa để khắc phục trong tổ
chức, vận hành, thực hiện chức năng lập pháp ngày càng tốt hơn.
Có thể thấy điều này qua các Báo cáo tổng kết hoạt động Quốc hội qua các
nhiệm kỳ: “Công tác lập pháp của Quốc hội nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu tình hình và nhiệm vụ quản lý xã hội. Luật, pháp lệnh ban hành thiếu đồng bộ,
chậm đi vào cuộc sống, một số chưa phát huy được tác dụng.”- (Quốc hội Khóa
VIII).... “Hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, một số văn bản cịn thiếu thống nhất,
tính khả thi chưa cao, trong đó có cả chương trình xây dựng pháp luât. Chất lượng một
số dự án luật, pháp lệnh còn bất cập. Vấn còn những vấn đề quan trọng, bức xúc cần
được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật hoặc cần thiết sửa đổi bổ sung chưa được kịp
thời chuẩn bị, xem xét, ban hành.”- (Quốc hội Khóa XII). “Việc thường xuyên phải
điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa được khắc phục. Việc chuẩn bị

11


một số dự án luật, pháp lệnh chưa đảm bảo tiến độ và chất lượng trình Quốc hội.
Khơng ít quy định của luật còn nặng về nguyên tắc cung, thiếu ổn định, chưa xác định
được nguồn lực để triển khai. Công tác ban hành văn bản chi tiết hướng dẫn thi hành

vẫn là một khâu yếu, làm cho pháp luật chậm đi vào cuộc sống, chưa phát huy đầy đủ
tác dụng điều chỉnh cá quan hệ kinh tế - xã hội.” (Quốc hội khóa XIII). Nhìn lại đánh
giá tổng kết của Quốc hội những nhiệm kỳ gần đây có thể thấy nổi lên một số tồn tại
sau: Vẫn còn quy định chung chung, thiếu tính khả thi, chất lượng dự án thơng qua
chưa đồng đều; có vấn đề bức xúc chưa tập trung ưu tiên giải quyết kịp thời; chương
trình xây dựng luật thiếu tính ổn định; chưa đảm bảo tiến độ thời gian chuẩn bị dự án.;
văn bản hương dẫn thi hành luật chưa chuẩn bị kịp thời. Đặc biệt chưa thực sự làm rõ
nguồn lực thực thi một số quy định, đạo luật khi ban hành … Đây là những hạn chế
kéo dài qua các nhiệm kỳ, khắc phục chậm là yếu tố cản trở công tác lập pháp; tác
động khơng tốt đến hồn thiện hệ thống pháp luật được hình thành ở nhiều phương
diện như: tính khả thi chưa cao, quy định mau chóng lạc hậu; sự thiếu đồng bộ thống
nhất ở một số khâu, một số lĩnh vực, khả năng tác động, điều chỉnh một số quan hệ
lĩnh vực cịn yếu, khơng kịp thời; cịn có những lỗ hổng trong quy định dẫn đến xung
đột trong thi hành hoặc vận dụng cho lợi ích nhóm, cục bộ… Những tồn tại trên cũng
đã được Quốc hội chỉ ra nguyên nhân như: do đất nước trong quá trình đổi mới, các
quan hệ kinh tế- xã hội mà pháp luật điều chỉnh đang phát triển, tính ổn định chưa cao;
vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình xây dựng văn bản chưa
được phát huy tối đa, nhất là cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia soạn thảo trong việc
chuẩn bị trình, tiếp thu ý kiến, hồn thiện dự thảo trình thơng qua; chưa có cơ chế hiệu
quả thu hút các chuyên gia, nhà khoa học tham gia vào quá trình chuẩn bị văn bản.
Có thể khẳng định, các khóa Quốc hội đã ban hành được một khối lượng luật
rất lớn, hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đã có đạo luật cơ bản điều chỉnh.
Song, các đạo luật đã ban hành có chất lượng chưa cao, chưa dự báo được thực tiễn
vận động phong phú, phức tạp của các quan hệ xã hội.

2. Thực tiễn thực hiện chức năng quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước
Việc Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước đã dần
đi vào nề nếp, nhiều hoạt động quyết định của Quốc hội đã trở thành công việc mang


12


tính định kỳ với quy trình rõ nét; ngày càng có chất lượng, giảm dần tính hình thức,
đáp ứng u cầu của thực tiễn, vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mơ, phát triển kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, nhất
là do ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh trong năm 2020, nhiều quyết định đã
được xem xét, ban hành kịp thời, nhiều chính sách được điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu tại từng thời điểm. Chính sách tiền tệ và tài khóa được xem xét thận trọng,
linh hoạt, bảo đảm ứng phó kịp thời, góp phần hạn chế các tác động bất lợi, duy trì,
phục hồi các hoạt động sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát,
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mơ, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội.
Công tác nhân sự được xem xét, tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng quy trình,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nhận được sự đồng thuận cao. Việc xem xét, quyết định
thành lập, nhập, điều chỉnh địa giới và sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp
xã tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã góp phần triển khai có hiệu quả chủ
trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về tinh gọn tổ chức bộ máy, phát huy tiềm
năng, lợi thế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội ở địa phương.
Tuy vậy, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận việc quyết định các vấn đề quan trọng
cịn những hạn chế như: có vấn đề mang tầm vĩ mô vẫn chưa được thảo luận một cách
thấu đáo; khó đánh giá, xác định trách nhiệm trong trường hợp khơng hồn thành các
chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra... Nguyên nhân là do: Nội dung thảo luận và biểu quyết
thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chủ yếu vẫn
nặng về khía cạnh kinh tế, khía cạnh quốc phòng, an ninh và đối ngoại còn mờ nhạt;
các vấn đề quan trọng của đất nước thường có nội dung phức tạp, nhiều vấn đề liên
quan đến chuyên mơn sâu, mang tính kỹ thuật cao, hàm lượng thơng tin, dữ liệu đồ sộ;
một số nội dung trình Quốc hội có chất lượng chuẩn bị chưa cao; chưa phát huy hết

khả năng và vai trò của từng cơ quan, làm ảnh hưởng tới chất lượng chuẩn bị và hoàn
thiện dự án trước khi trình thơng qua. Cơ chế huy động trí tuệ của nhân dân, xã hội vào
cơng tác quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước cũng như cơ chế bảo đảm

13


sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, xã hội, vai trò giám sát của Quốc hội,chưa phát
huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn...

3. Thực tiễn thực hiện chức năng giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước
Công tác giám sát được chú trọng, nội dung giám sát có trọng tâm, trọng điểm,
bao quát hầu hết các lĩnh vực, ngày càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đạt được nhiều
kết quả quan trọng, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Thông qua hoạt động giám
sát đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách, pháp luật, tiếp tục phát huy những
việc làm tốt, kịp thời phát hiện hạn chế, bất cập, kiến nghị bổ sung, hồn thiện chính
sách, pháp luật, làm cơ sở cho việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp
phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Việc xem xét báo cáo của các cơ quan được thực hiện hiệu quả, thảo luận kỹ
lưỡng, có sự giám sát của cử tri, cơng khai, minh bạch, góp phần bảo đảm tổ chức và
thực hiện đúng quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Giám sát
chuyên đề tiếp tục đi vào chiều sâu, hiệu quả rõ nét với bảy chuyên đề liên quan mật
thiết đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của Nhân dân; cách thức tiến hành
được cải tiến, ngày càng bài bản, chuyên nghiệp.
Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục có nhiều đổi mới, nhất là cách thức “hỏi
nhanh, đáp gọn” đã tạo điều kiện để tăng cả về số đại biểu Quốc hội chất vấn, tranh
luận, cả về nội dung và chất lượng câu hỏi, câu trả lời, tạo khơng khí sôi nổi, thu hút
sự quan tâm đặc biệt của đại biểu Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước. Quốc hội đã
hai lần tiến hành xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát

chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Quốc hội
trong việc đi “đến cùng” vấn đề được giám sát. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người
giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được thực hiện nghiêm túc, góp phần
tiếp tục phát huy dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử cũng như trong đời sống
xã hội.
Hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến rõ rệt, hiệu quả
được nâng cao, nhất là trong việc giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và giải quyết kiến nghị của cử tri. Hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban

14


Thường vụ Quốc hội và hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban được
tăng cường, có nhiều đổi mới, đã kịp thời xem xét, giải quyết những vấn đề “nóng”,
đáp ứng yêu cầu của Nhân dân và xã hội. Các Đoàn, vị đại biểu Quốc hội đã chú trọng
hơn đến việc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật, giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của cơng dân, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội trên địa bàn.
Cùng với những kết quả đạt được, hoạt động giám sát vẫn còn những hạn chế
như: hiệu quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, nhất là
văn bản quy định chi tiết thi hành luật; một số nội dung chất vấn và trả lời chất vấn
còn chưa tập trung vào vấn đề lớn liên quan đến thể chế, chính sách vĩ mơ, trách
nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành hoặc chưa đi vào trọng tâm, mới tập trung
vào báo cáo thực trạng, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân và giải pháp khắc phục;
một số yêu cầu tại các nghị quyết về giám sát chuyên đề, chất vấn, báo cáo giám sát
của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội chưa được triển khai nghiêm
túc, việc theo dõi, đôn đốc thực hiện chưa thực sự quyết liệt... Nguyên nhân là do khối
lượng công việc lớn, nhiều việc phát sinh, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt
động giám sát; một số nội dung có phạm vi rộng, tính chun sâu cao, trong khi thời
gian, nguồn lực thực hiện còn hạn chế... hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội chưa

mạnh, hiệu quả chưa cao; cơ chế bảo vệ Hiến pháp chưa cụ thể.hoạt động thanh tra,
kiểm tra của hệ thống hành pháp còn nhiều hạn chế; hoạt động kiểm sốt quyền lực
của tư pháp cịn yếu.
Bên cạnh những kết quả to lớn đạt được trong các nhiệm kì vừa qua, tuy cịn có
những hạn chế nhất định nhưng Quốc hội cũng đã nhận thấy, chỉ ra được nguyên nhân
và đưa ra các giải pháp khắc phục.

III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay
Để nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội về quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước tại kỳ họp Quốc hội, đòi hỏi một số giải pháp liên quan đến bảo
đảm các điều kiện chung cho hoạt động của Quốc hội như: nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trị của Quốc hội; đề cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trình
Quốc hội các vấn đề quan trọng của quốc gia; kiện toàn tổ chức và nhân sự của Quốc
hội, nâng cao năng lực của đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; năng lực

15


tham mưu của các Vụ trực tiếp tham mưu, phục vụ cho Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội, các Vụ phục vụ chung và văn phòng các Đoàn đại biểu Quốc hội; phát
huy dân chủ, tăng cường sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quá trình quyết định
của Quốc hội... Trong quá trình này, cần chú ý đến tính khả thi và phù hợp với điều
kiện của đất nước. Bên cạnh đó, kiến nghị một số giải pháp cho từng chức năng như
sau:
Về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.
Chú trọng việc nâng cao nhận thức của Quốc hội, đại biểu Quốc hội về trách
nhiệm làm luật của mình. Đảm bảo sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.
Mục đích đề ra phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, bảo
đảm cho việc làm luật được thực hiện trên thực tế. bám sát những đòi hỏi phát sinh

trong thực tiễn cuộc sống, chú trọng chiến lược xây dựng luật trong điều kiện mới gắn
với quá trình hội nhập.
Về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội trong công tác quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước. Hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hoạt động
thẩm tra,cách thức tổ chức, điều hành, thảo luận tại kỳ họp Quốc hội. Nâng cao chất
lượng cơ sở dữ liệu, thông tin phục vụ cho hoạt động của Quốc hội về quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện
các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước
Hoàn thiện cơ chế giám sát của Quốc hội theo hướng bổ sung, quy định rõ và tổ
chức tốt việc thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội. Xử lý nghiêm minh theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý kết quả giám sát nếu phát hiện cơ quan, tổ chức, cá
nhân vi phạm. Tăng cường năng lực tham mưu tư vấn để tạo cơ sở khoa học, cơ sở
thực tiễn trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội cần
được tiến hành có trọng tâm, tránh quy định dàn trải.

16


IV. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện chức
năng của Quốc hội
Từ thực tiễn hoạt động những năm qua, Quốc hội đã khẳng định, bổ sung, làm
sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm quý được rút ra như sau: Một là, quán triệt
sâu sắc, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, vì lợi ích của đất nước, của
Nhân dân là nhân tố quyết định để Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hai
là, kế thừa, phát huy các thành tựu, bài học kinh nghiệm của hơn 70 năm Quốc hội
Việt Nam, tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, tăng cường dân chủ, công khai, minh
bạch, cải tiến, đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong

tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Ba là, quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, gần
dân, hiểu dân, trọng dân; lắng nghe Nhân dân, phục vụ Nhân dân là yêu cầu hoạt động
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội. Bốn là, đại biểu
Quốc hội giữ vai trò trung tâm, là nhân tố then chốt quyết định chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Năm là, coi trọng, phát huy thế mạnh đặc thù hoạt
động đối ngoại của Quốc hội trong tổng thể hoạt động đối ngoại chung của Đảng, Nhà
nước, cùng hướng tới thúc đẩy tiến trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là,
mối quan hệ phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan, tổ
chức hữu quan được coi trọng, tăng cường, tạo sự chủ động, thống nhất, kịp thời trong
triển khai công việc, đạt chất lượng, hiệu quả cao, góp phần giúp Quốc hội hồn thành
tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

C. KẾT LUẬN
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội có ba chức năng cơ bản: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước. Như vậy, Quốc hội là cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra, đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, thay mặt
cho nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước. Là cơ quan được
hình thành đầu tiên bằng con đường bầu cử và từ đó tiếp tục thành lập ra các cơ quan

17


nhà nước khác bằng con đường bầu cử, bổ nhiệm và phê chuẩn. Do vậy, Quốc hội có
vị trí, vai trị quan trọng nhất trong bộ máy nhà nước ta.
Nhìn lại chặng đường vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù trong bất cứ
hồn cảnh khó khăn nào, Quốc hội vẫn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực, cố
gắng cao nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Dù còn những hạn chế nhất định,

nhưng Quốc hội đã thành cơng với những kết quả khá tồn diện trên các lĩnh vực từ
lập pháp, giám sát, quyết định vấn đề quan trọng của đất nước đến ngoại giao nghị
viện đã góp phần đưa đất nước vững bước vượt qua khó khăn, tạo ra những chuyển
biến tích cực, mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
cải thiện và nâng cao đời sống Nhân dân, đóng góp lớn vào những thành tựu vô cùng ý
nghĩa của công cuộc gần 35 năm đổi mới, làm giàu thêm truyền thống 75 năm vẻ vang
của Quốc hội. Thành quả và niềm vinh dự lớn nhất đối là được sự ghi nhận, tin tưởng,
chia sẻ, ủng hộ, đồng hành xuyên suốt của cử tri, Nhân dân trong mọi hoạt động của
Quốc hội thời gian qua. Những thành tựu cùng với truyền thống quý báu sẽ tạo nền
tảng quan trọng, vững chắc để Quốc hội các khóa tiếp theo tiếp tục kế thừa, phát huy,
không ngừng lớn mạnh, có nhiều đổi mới, thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao; xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu
cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]
2021,

Dự thảo Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội, Báo Nhân dân,
/>
xiv-cua-quoc-hoi-639561/

18


[2]


Thái Vĩnh Thắng, Tơ Văn Hịa, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nxb. Tư

pháp, Hà Nội, 2019.
[3]

Vũ Thị Hồng Vân, Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,

2019.

19



×