TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
MÔN HỌC LUẬT DÂN SỰ
BÀI THẢO LUẬN LỚN HỌC KỲ
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ
DANH SÁCH NHÓM 9
STT
HỌ VÀ TÊN
MSSV
1
Lê Thị Hoàng Anh
2053801012013
2
Trần Phượng Anh
2053801012024
3
Trịnh Thị Thục Anh
2053801012029
4
Nguyễn Phan Khánh Châu (Nhóm
trưởng)
2053801012039
Sđt: 0969079451
Gmail:
5
Nguyễn Hạ Xuân Diễm
2053801012053
6
Bùi Thị Thanh Diệu
2053801012055
7
Lê Đặng Mỹ Duyên
2053801012063
8
Phùng Ngọc Mỹ Duyên
2053801012064
9
Nguyễn Hương Giang
2053801012070
Bài tập 1
Phần 1: Trường hợp đại diện hợp pháp
*Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel.
Bị đơn: Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (HYM).
Ngày 16/01/2017, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (bên A) kí kết hợp đồng
mua bán phôi thép với Công ty liên doanh sản xuất thép VINASTEEL (bên B).
Ngay sau khi hợp đồng được kí kết, Công ty Vinasteel đã chuyển khoản đầy đủ
số tiền cần giao dịch cho bên B nhưng bên B thường xuyên không tuân thủ nghĩa
vụ giao hàng. Nay Công ty Vinasteel kiện Công ty kim khí Hưng Yên bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng với tổng số tiền tạm tính là 8.681.106.883 đồng.
Tuy nhiên phát sinh vấn đề là Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên cho rằng ơng
Mạnh- Phó Tởng giám đốc Cơng ty cở phần kim khí Hưng Yên đã kí kết hợp
đồng giao dịch với bên Công ty Vinasteel bên Công ty không biết nên khơng có
trách nhiệm bồi thường và đó hồn tồn là do ông Mạnh phải chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên ông Mạnh kí kết hợp đồng là có sự ủy quyền của bà Lê Thị Ngọc Lan
– tổng giám đốc công ty kim khí Hưng Yên nên công ty kim khí Hưng Yên phải
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cơng ty Vinasteel và thanh tốn các
khoản nợ.
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại
diện.
-
Thứ nhất, pháp nhân có thể là người đại diện
Tại khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 quy định: “Đại diện là việc cá
nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi
ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được
đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Với quy định này khơng chỉ
có cá nhân mà pháp nhân cũng có thể là người đại cho cá nhân hay một
pháp nhân. Một pháp nhân hồn tồn có thể ủy quyền cho một pháp nhân
khác nhân danh mình tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định mà
hợp đồng ủy quyền đó là hợp pháp. Đây là một điểm mới về người đại
diện so với BLDS 2005. Theo Điều 139 BLDS 2005 thì người được đại
diện chỉ có thể là cá nhân mà khơng thể là pháp nhân, theo đó cá nhân chỉ
có thể ủy quyền cho cá nhân và pháp nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá
nhân mà không cho phép pháp nhân ủy quyền cho một pháp nhân khác
đại diện mình tham gia một quan hệ pháp luật.
Tại khoản 2 Điều 134 BLDS 2015 đã quy định: “Cá nhân, pháp nhân có
thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện”. Như
vậy, BLDS 2015 đã bãi bỏ cụm từ “chủ thể khác” trong BLDS 2005. Việc
xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện chỉ có cá
nhân và pháp nhân mới được xác lập giao dịch thông qua người đại diện
còn các chủ thế khác theo quy định của BLDS thì khơng có quyền này.
-
Thứ hai, pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật:
Tại BLDS 2015 đã tách riêng quy định về đại diện theo pháp luật của cá
nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân, quy định tại 2 khoản của
một điều luật. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định
tại Điều 137 BLDS năm 2015 gồm: Người được pháp nhân chỉ định theo
điều lệ; Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; Người
do Tịa án chỉ định trong q trình tố tụng tại Tịa án. Theo đó, quy định
cụ thể và rõ ràng hơn trong từng trường hợp so với quy định trước đây của
BLDS 2005.
Tại khoản 2 Điều 137 quy định: “Một pháp nhân có thể có nhiều người
đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp
nhân theo quy định tại Điều 140, Điều 141 của Bộ luật này”. Việc quy
định cho phép một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp
luật của BLDS 2015 đã bảo đảm sự tương thích với quy định của Luật
doanh nghiệp 2014 trong việc quy định Công ty trách nhiệm hữu hạn và
Công ty cổ phần “có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp
luật”.
-
Thứ ba, quy định cụ thể về thời hạn đại diện:
Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung quy định về thời hạn đại diện mà Bộ luật
dân sự 2005 không quy định. Cụ thể khoản 1 Điều 140 BLDS 2015 quy
định: “Thời hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo
quy định của pháp luật”.
BLDS 2015 bổ sung quy định về việc xác định thời hạn đại diện trong
trường hợp không xác định được thời hạn đại diện theo văn bản ủy quyền;
quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân hoặc theo
quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 140 BLDS 2015). Cụ thể: Nếu
quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại
diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó. Nếu quyền
đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại
diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
Với những quy định trên giúp người đại diện biết rõ được thời hạn đại
diện của mình khi tham gia đại diện cho bên ủy quyền hay bên được đại
diện kí kết và thực hiện các giao dịch.
-
Thứ tư, bổ sung quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người khơng
có quyền đại diện thực hiện và do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện:
2
BLDS 2015 đã bổ sung điều khoản loại trừ đối với trường hợp giao dịch
dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện khơng làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ các trường hợp
được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 (đó là:
Người được đại diện đã công nhận giao dịch; người được đại diện biết mà
không phản đối trong một thời hạn hợp lý; người được đại diện có lỗi dẫn
đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người
đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình khơng có quyền đại diện),
đồng thời quy định: “Trường hợp người khơng có quyền đại diện và người
đã giao dịch cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho
người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt
hại”.
BLDS 2015 cũng bổ sung điều khoản loại trừ trong trường hợp giao dịch
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với
phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ các trường
hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 143 (như đã viện dẫn ở trên);
đồng thời bổ sung quy định về giao dịch dân sự do người đại diện xác lập,
thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối
với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại
diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt
quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho
Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?
-
Đoạn “Ngày 16/01/2007, Công ty kim khí Hưng Yên ký kết hợp đồng
mua bán với Công ty Vinausteel là do ông Mạnh Phó giám đốc ký theo sự
ủy quyền số 1296/UQ/HYM ngày 20/11/2006 của bà Lê Thị Ngọc Lan”
cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với
Vinausteel.
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với
Vinausteel khơng?
-
Theo Hội đồng thẩm phán, việc ơng Mạnh có Bản cam kết vào ngày
01/04/2007 “xin chịu trách nhiệm trước pháp luật và xin cam kết nhận
trách nhiệm trả cho Công ty và các bên thứ ba (trong đó có Cơng ty liên
doanh sản x́t sắt thép Vinausteel) tất cả các khoản nợ và bồi thường
thiệt hại phát sinh từ các giao dịch, hợp đồng” mà ông Mạnh đã ký hoặc
từ các giao dịch, hợp đồng của Cơng ty được ký kết trước đó. Tuy nhiên,
Cơng ty Vinausteel không tham gia ký kết, không đồng ý nên không thuộc
trường hợp chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều
315 BLDS 2005. Vậy nên, ông Mạnh không phải chịu trách nhiệm với
Vinausteel.
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào về chủ đề này? Có thút
phục khơng?)
-
Hướng giải quyết trên của Tịa giám đốc thẩm liên quan đến ơng Mạnh thì
ơng Mạnh khơng phải là cá nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với
Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel mà là cả Công ty kim khí
Hưng Yên phải chịu trách nhiệm vì đã vi phạm hợp đồng mua bán. Việc
ơng Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty liên
doanh sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng
Yên.
-
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm rất thuyết phục. Cụ thể trong
phần xét thấy:
Bởi lẽ, ngày 20/11/2006 bà Lê Thị Ngọc Lan có Giấy ủy quyền cho ơng
Lê Văn Mạnh – Phó Tổng giám đốc Công ty kim khí Hưng Yên được thay
mặt Công ty thực hiện các giao dịch kinh tế trong phạm vi ngành nghề
kinh doanh(trong thời gian này bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện
theo pháp luật của Công ty kim khí Hưng Yên), nên ngày 16/01/2007, ông
Mạnh đã đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký hợp đồng mua bán
phôi thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Cơng ty Vinausteel. Q trình
thực hiện hợp đồng trên, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng
là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng Yên.
Câu 5: Theo Hợi đờng thẩm phán, Hưng n có trách nhiệm gì với
Vinausteel khơng?
-
Theo Hội đồng thẩm phán, Cơng ty cở phần kim khí Hưng Yên phải có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Công ty liên doanh sản xuất thép
Vinausteel số tiền là: 6.584.272.000 đồng, tiền phạt là 1.880.326.225
đồng, tiền lãi 370.000.000 đồng. Tổng cộng là 8.834.958.225 đồng.
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.
-
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng n là
Cơng ty Hưng n phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi
thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải là ông Mạnh, ông
Dũng. Vì Công ty Hưng Yên đã vi phạm hợp đồng mua bán là giao không
đủ hàng. Hướng giải quyết của Tịa giám đốc thẩm vơ cùng hợp lý vì căn
cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng
dân sự (đã được sửa đổi và bổ sung năm 2011).
Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo hợp pháp của Hưng Yên và trong
hợp đờng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng ḅc
Hưng n khơng? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp
liên quan đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện
theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án.
4
-
Nếu ông Mạnh là đại diện hợp pháp của Hưng n và trong hợp đồng có
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này Hưng Yên vẫn sẽ bị ràng
buộc. Bởi vì, ơng Mạnh là đại diện theo hợp pháp của Hưng Yên và thỏa
thuận trọng tài là hai bên đều đồng ý đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã
hoặc có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng
trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
Phần 2: Trường hợp đại diện không hợp lệ
*Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao :
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Bị đơn: Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex.
Ngày 14/5/2001 Ngân hàng TMCP Công thương đã cho Xí nghiệp xây dựng 4Công ty Xây dựng số II nay là Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex vay 2 tỷ
đồng. Nay Xí nghiệp xây dựng 4 khơng có khả năng trả nợ nên Ngân hàng đã xử
lý phát mại một phần tài sản thế chấp. Do xí nghiệp xây dựng 4 thuộc Công ty cổ
phần xây dựng 16-Vinaconex nên Ngân hàng yêu cầu cơng ty này phải có trách
nhiệm thanh tốn khoản nợ nêu trên và xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh để thu hồi
nợ.
Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng
với Ngân hàng khơng được Vinaconex ủy quyền (khơng có thẩm quyền đại
diện để xác lập)?
-
Trích bản án: “Công ty xây dựng số II Nghệ An có cơng văn số
064CV/XDII.TCKT gửi chi nhánh Ngân hàng Cơng thương Nghệ An
trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công thương Nghệ An không
cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An vay vốn khi
chưa có bảo lãnh vay vốn của côn gty kể từ ngày 06/4/2001…” và “các
văn bản của Công ty liên quan đến vay vốn tại Ngân hàng Công thương
Nghệ An trước ngày 06/4/2011 đề bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân
hàng vẫn kí hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4
vay tiền”.
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách
nhiệm với Ngân hàng về hợp đờng trên khơng?
-
Theo Tồ giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với Ngân hàng
về hợp đồng trên.
-
Điều này được thể hiện qua đoạn: “Sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền
Ngân hàng, Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty cổ phần xây
dựng 16 – Vinaconex) phải chịu trách nhiệ m trả khoản nợ này.”
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm?
-
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lí vì:
Thứ nhất, Cơng ty Vinaconex đã đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực
thuộc Công Ty Vinaconex vay vốn từ Ngân hàng thông qua việc Tổng
giám đốc Vinaconex có văn bản số 23 CV/TCT thơng báo cho Ngân hàng
biết việc Vinaconex đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay vốn
tại chi nhánh Ngân hàng. Căn cứ theo Điểm c Khoản 1 Điều 142 BLDS
2015, Cơng ty Vinaconex có lỗi dẫn đến việc Ngân hàng khơng thể biết
được Xí nghiệp xây dựng 4 khơng có quyền đại diện nên giao dịch dân sự
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Công ty Vinaconex.
Thứ hai, có căn cứ để cho rằng Vinaconex biết được việc Xí nghiệp xây
dựng 4 vay vốn ngân hàng và không phản đối. Điều này được thể hiện qua
hàng loạt các sự kiện như Xí nghiệp xây dựng 4 dùng tiền vay Ngân hàng
để mua máy móc và có thực hiện báo cáo tài chính định kỳ cho Công ty
Vinaconex, Cơng ty Vinaconex sử dụng những máy móc trên để phục vụ
Cơng trình thi cơng,… Dựa trên điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 thì
Vinaconex biết mà khơng phản đối trong thời hạn hợp lí nên hợp đồng
trong bản án vẫn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Vinaconex.
Câu 4: Nếu hoàn cảnh như trong Quyết định sớ 10 nhưng chỉ phía Ngân
hàng phản đới hợp đồng ( yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện
Vinaconex khơng có quyền đại diện) thì phải xử lí như thế nào trên cơ sở
BLDS 2015? Vì sao?
-
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 142 BLDS 2015 thì Ngân hàng hồn tồn
khơng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng
do bên khơng có quyền đại diện xác lập vì:
Thứ nhất, Ngân hàng hồn tồn khơng có căn cứ để biết được Xí nghiệp 4
khơng có quyền đại diện. Cơng ty Vinaconex khơng chứng minh được
rằng Ngân hàng đã nhận được công văn số 064CV/XDII.TCKT bãi bỏ
những văn bản đồng ý cho các Xí nghiệp trực thuộc vay vốn được bảo
lãnh.
Thứ hai, người được đại diện Công ty Vinaconex đã biết và không phản
đối hợp đồng như đã chứng minh ở trên nên thỏa mãn Điểm a Khoản 1
Điều 142.
Bài tập 2
*Tóm tắt bản án sớ 377/2008/DS – GĐT: Ơng Võ Văn Lưu và bà Cao Thị
Thẩm là vợ chồng hợp pháp có 1 con chung là chị Võ Thị Thu Hương. Sau khi
miền Nam giải phóng, ơng Lưu chuyển cơng tác vào miền Nam và nhận chuyển
nhượng 101m2 đất của bà Nguyễn Thị Bướm cất nhà để ở sau đó đăng kí kết hôn
với bà Cao Thị Xê. Năm 2003 ông Lưu chết để lại di chúc cho bà Xê hưởng tồn
bộ tài sản nhưng chị Hương và chồng khơng đồng ý vì cho rằng hơn nhân giữa
ơng Lưu và bà Xê là không hợp pháp. Nay bà Xê đâm đơn kiện 2 vợ chồng chị
cho rằng bà Xê là vợ hợp pháp và có quyền hưởng tồn bộ tài sản. Tòa sơ thẩm
6
và Tòa phúc thẩm cho rằng bà Xê được hưởng tồn bộ di sản của ơng Lưu là
khơng đúng, làm thiệt hại đến quyền lợi của bà Thẩm.
*Tóm tắt Quyết định số 2493/2019/DS – ST: Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An
Văn Lầm có 2 người con là bà Nguyễn Thị Khót và ơng An Văn Tâm. Cụ Khánh
và cụ Nguyễn Tài Ngọt có 1 người con là ơng Nguyễn Tài Nhật. Trước khi chết
cụ Khánh để lại di chúc là cho ơng Nhật hưởng tồn bộ di sản của mình gồm căn
nhà 83 Lương Định Của quận 2 với hỗ trợ thiệt hại với tổng số tiền là
1.847.491.000 đồng. Nay các nguyên đơn đâm đơn kiện yêu cầu cho ông Tâm,
bà Khót được hưởng thừa kế di sản của cụ Khánh theo diện những người thừa kế
không phụ thuộc vào di chúc vì vào thời điểm mở thừa kế ( khi cụ Khánh chết)
thì bà Khót đã 71 t̉i lại mang nhiều bệnh, khơng có khả năng lao động. Bên
cạnh đó là ơng Tâm khi ấy là thương binh loại 2/4 mất 72% sức lao động.
*Tóm tắt Quyết định sớ 08/2013/DS-GDT: Cụ Huệ có tạo lập được một căn
nhà, có giấy chứng nhận của Sở xây dựng tỉnh Tiền Giang cấp. Trước khi chết,
cụ Huệ để lại di chúc cho ơng Hà (con cụ Huệ). Ơng Hà chết, khơng để lại di
chúc. Theo thỏa thuận (bà Ơn vợ ông Hà) được thừa kế toàn bộ tài sản này.
Nhưng thực tế, bà Chắc cùng cụ Thiệu (mẹ đẻ cụ Huệ) đã sống rất lâu trong ngôi
nhà này nên bà Chắc không đồng ý trả lại nhà đất cho bà Ơn và yêu cầu được
công nhận đây là tài sản của bà.
Phần 1: Hình thức sở hữu tài sản
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ
hữu tài sản.
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài sản:
1. Từ 6 hình thức sỡ hữu tài sản (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội, sở hữu của tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp),
BLDS 2015 rút lại còn 3 hình thức sở hữu tài sản (sở hữu tồn dân, sở hữu riêng,
sở hữu chung).
Viêc rút gọn này thực chất là gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở
hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
Điều này giúp giản lược bộ luật và tránh sự trùng lặp một phần ý của ba loại sở
hữu này.
2. Sở hữu toàn dân
- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu toàn dân là tên tiểu mục này. Từ
“sở hữu nhà nước” (BLDS 2005) đởi thành “sở hữu tồn dân” (BLDS 2015).
Điều này phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 là tôn trọng người dân của
đất nước (ví dụ: tất cả chữ “Nhân dân” đều được viết hoa chữ “N”).
- Sở hữu toàn dân: Điều 197 của BLDS 2015 thay đổi định nghĩa về tài sản thuộc
sở hữu toàn dân so với Điều 200 BLDS 2005 theo Hiến pháp 2013: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý”.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp:
Điều 200 BLDS 2015 bỏ đi giới hạn quyền sở hữu của Nhà nước là chỉ trong
“doanh nghiệp nhà nước” của Điều 203 BLDS 2015 thành “doanh nghiệp”: “Khi
tài sản thuộc sở hữu tồn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực
hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
- Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở
hữu toàn dân: Điều 203 BLDS 2015 bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật
có quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206
BLDS 2005. Đồng thời, cũng không quy định thêm điều kiện nào trong việc sử
dụng, khai thác này: “Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi
thủy sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng
mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy
định của pháp luật”.
8
3. Sỡ hữu riêng
- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu riêng là tên tiểu mục này. Từ “sở
hữu tư nhân” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu riêng” (BLDS 2015).
- Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng: được gộp Điều 211 về sở hữu tư
nhân và Điều 212 về tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân của BLDS 2005
thành Điều 205 của BLDS 2015.
4. Sở hữu chung
- Là sở hữu được gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu của tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
- Sở hữu chung của cộng đồng: xác định rõ tài sản chung của công đồng là tài
sản chung hợp nhất không phân chia (Điều 211 BLDS 2015)
- Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình: được BLDS 2015 thêm như
một điều luật mới (Điều 212 BLDS 2015) so với BLDS 2005.
- Sở hữu chung của vợ chồng: Tại Điều 213 BLDS 2015 được thêm một khoản
mới so với BLDS 2005 như sau: “Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản
theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản
chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
- Định đoạt tài sản chung: Điều 218 BLDS 2015 có một số thay đổi so với Điều
223 BLDS 2005 như sau:
o Bỏ “theo quy định của pháp luật” đối với quyền định đoạt của mỗi chủ sở hữu:
“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của
mình” (khoản 1 Điều 218 BLDS 2015).
o Ở khoản 3 điều này, thêm ý: “Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản
và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán
cho người không phải là chủ sở hữu chung”.
o Thêm hai trường hợp từ bỏ quyền sở hữu thành hai khoản mới:
5. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ
phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà khơng có người
thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu
còn lại.
6. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với
tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định
tại Điều 228 của Bộ luật này.
- Chia tài sản thuộc sở hữu chung: Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 thêm ý “trừ
trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác” so với Điều 224 BLDS
2005: “Trường hợp sỡ hữu chung…bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác”.
Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với các chủ thể.
Câu 2: Căn nhà sớ 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau
đây viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?
-
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm.
-
Phần Xét thấy của Quyết định 377 nói rõ: “Như vậy, quan hệ hôn nhân
giữa ông Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn
tại theo quy định của pháp luật, cịn quan hệ hơn nhân giữa ông Lưu và bà
Xê là vi phạm pháp luật. Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6,
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm”.
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sỡ hữu chung của vợ chông bà
hay sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả
lời?
-
Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, không
phải sở hữu riêng của ông Lưu.
-
Trích từ phần Nhận thấy của bản án: “Còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số
150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101 m2 đất là tài sản chung vợ
chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải
quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu cùng
với chị Hương”.
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu
chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn
nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
-
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên không thuộc sở
hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm mà chỉ thuộc sở hữu riêng của ông Lưu.
-
Theo như Tòa: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
giữa ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào
miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của
ơng; bà Thẩm khơng có đóng góp về kinh tế cũng như cơng sức để cùng
ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với
căn nhà nêu trên.”
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao?
-
Theo em, giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là chưa
hợp lý. Vì:
10
Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài
sản chung của vợ chồng:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Ở đây, Tịa khơng cơng nhận căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản
chung do căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông Lưu khi ông
vào miền Nam đi công tác và bà Thẩm khơng góp cơng sức, kinh tế cùng
với ông Lưu. Tuy nhiên, thứ nhất, ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp
pháp(Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964
trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hơn tịa Ủy ban nhân dân xa Kinh Kệ,
huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ). Thứ hai, theo như điều luật đã nêu trên,
tài sản chung của vợ chồng có bao gồm thu nhập hợp pháp. Do đó, mặc
dù thu nhập đó là do ơng Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai
vợ chồng ông Lưu bà Thẩm về mặt pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là
phần tiền dùng để tạo lập căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt cũng là tài
sản chung của vợ chồng ơng Lưu, bà Thẩm. Vì vậy, cũng theo điều luật
trích dẫn phía trên, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết
hơn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng
tài sản riêng, căn nhà là của chung vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm.
Ngồi ra, trong Luật Hơn nhân và gia đình cũng có nói: “vợ, chồng bình
đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và
lao động có thu nhập”. Nghĩa là, mặc dù tiền do ông Lưu làm ra nhưng
vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm, khơng cần biết
bà Thẩm có hay khơng làm ra tiền và góp vốn xây dựng nhà.
Như vậy, căn nhà trên không phải là tài sản riêng của ông Lưu và việc Tòa
xác định căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản riêng của ơng Lưu là
khơng có căn cứ hợp lý, không đúng theo quy định của pháp luật.
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ơng Lưu, bà Thẩm thì ơng
Lưu có thể di chúc định đoạt tồn bợ căn nhà này khơng? Nêu căn cứ pháp
lý khi trả lời.
-
Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ơng Lưu, bà Thẩm thì ơng Lưu
khơng thể di chúc định đoạt tồn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt.
-
Theo luật, vợ chồng có quyền định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung
của vợ chồng. Căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 về sở hữu
chung của vợ chồng: “Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung”. Do đó trong trường hợp này, ơng Lưu chỉ có quyền di chúc
định đoạt ½ căn nhà trên thơi, ½ cịn lại của căn nhà là thuộc về bà Thẩm.
Phần 2: Diện thừa kế
Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Lưu hay không? Vì sao?
- Chỉ có bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ơng Lưu,
cịn bà Xê thì khơng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ơng Lưu. Vì:
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết”.
Đối với người vợ, để được hưởng thừa kế của nhau, thì quan hệ hơn nhân
giữa vợ và chồng ở đây phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân
đấy phải được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế. Do bà Thẩm là vợ
hợp pháp của ơng Lưu (Ơng Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn
ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hơn tịa Ủy ban
nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ), nên bà thuộc hàng
thừa kế thứ nhất. Còn đối với bà Xê, mặc dù ơng Lưu và bà Xê có làm thủ
tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố Mỹ Tho,
tỉnh Tiền Giang tuy nhiên vì ơng Lưu chưa ly hơn với bà Thẩm nên việc
ông kết hôn với bà Xê là bất hợp pháp. Do đó, để biết bà có thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của ông Lưu hay không, ta xét coi quan hệ giữa bà Xê và
ơng Lưu có phải hay khơng phải hôn nhân thực tế.
Do ông Lưu thuộc trường hợp người có nhiều chồng hoặc vợ, ta căn cứ
vào điểm a khoảng 4 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày
19/10/1990 có quy định:
Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày
công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước
ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng
thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có
vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau
không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người
vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại,
người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
Ở đây, ông Lưu và bà Xê làm thủ tục đăng ký kết hôn và chung sống với
bà Xê từ năm 1996 và đến năm 2003 thì ơng Lưu chết. Như vậy, thời
điểm mà hai ông bà chung sống với nhau là sau ngày 25-3-1997, là ngày
cuối cùng công nhận hơn nhân thực tế ở miền Nam. Do đó, quan hệ giữa
hai người không phải là hôn nhân thực tế, và bà Xê đương nhiên cũng
không nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo trích dẫn từ
Nghị quyết số 02 đã nêu trên.
12
Về phần chị Hương, chị là con đẻ của ông Lưu (Ông Võ Văn Lưu và bà
Nguyễn Thị Thẩm kết hơn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú
thọ và có một con chung là chị Võ Thị Thu Hương) nên đương nhiên
thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 đã
nêu trên.
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hơn với bà Xê vào ći năm 1976 thì câu trả lời cho
câu hỏi trên có khác khơng? Vì sao?
- Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976, thì hơn nhân của hai
người vẫn khơng được cơng nhận là hơn nhân hợp pháp, vì ở thời kỳ đó,
Luật Hơn nhân và Gia đình 1959 đã có quy định “Cấm lấy vợ lẽ”. Tuy
nhiên, quan hệ giữa hai người được công nhận là hôn nhân thực tế. Cũng
vì thế, bà Xê nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
- Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định:
Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày
công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước
ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng
thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có
vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau
không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người
vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại,
người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
- Do ông Lưu và bà Xê kết hôn và chung sống với nhau ở miền Nam (Tiền
Giang) vào cuối 1976, trước thời hạn cuối cùng công nhận hơn nhận thực
tế ở miền Nam (ngày 25-3-1977). Theo đó, bà Xê là vợ thực tế của ông
Lưu, nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo Nghị quyết 02 đã
nêu trên.
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ơng Lưu
khơng? Vì sao?
- Trong vụ việc trên, chị Hương không được chia di sản của ơng Lưu. Vì:
Ơng Lưu đã viết di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà Xê. Do đó, theo di
chúc, chị Hương khơng được hưởng phần nào từ di sản của ông Lưu. Tuy
nhiên, ta xét thêm chị Hương có hay khơng thuộc trường hợp được thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
Ở đây, chị Hương là người đã thành niên (chị sinh năm 1965, nghĩa là đến
ngày ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên), chị cũng
không bị mất khả năng lao động. Như vậy, chị Hương không thuộc trường
hợp nào trong hai trường hợp đã nêu phía trên, và theo đó chị không là
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.
Như vậy, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu trong vụ việc
trên.
Câu 4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền
sở hữu đới với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
- Theo pháp luật hiện hành, thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối
với tài sản là di sản do người quá cố để lại là thời điểm người thừa kế
nhận di sản đó.
- Tuy nhiên, trong BLDS 2015 thì khơng có điều luật nào nói cụ thể thời
điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối tài sản, chỉ xác định rằng tại thời
điểm mở thừa kế, người thừa kế có các quyền tài sản do người chết để lại,
quy định trong Điều 614 BLDS 2015.
- Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang có
nhận định:
Nếu cho rằng người thừa kế đương nhiên là chủ sở hữu đối với di sản thừa
kế tại thời điểm mở thừa kế thì về logic, họ sẽ khơng có quyền từ chối
nhận di sản. Di sản đã thuộc sở hữu của họ nên việc từ chối đó trở thành
việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản, và như vậy sẽ phát sinh một hậu
quả pháp lý hoàn toàn khác. Bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 228
BLDS 2015 thì tài sản đã bị chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu sẽ trở thành
tài sản vơ chủ, nếu tài sản đó là động sản thì sẽ thuộc sở hữu của người
phát hiện được; nếu tài sản đó là bất động sản thì thuộc sở hữu của Nhà
nước.
Tóm lại, chúng tơi cho rằng, thời điểm mở thừa kế chỉ là thời điểm làm
phát sinh quyền của người thừa kế mà chưa xác lập quyền sở hữu đối với
di sản, quyền sở hữu đối với di sản thừa kế chỉ xác lập ở người thừa kế kể
từ thời điểm họ nhận di sản đó bởi nếu người thừa kế khơng nhận di sản
thì đương nhiên sẽ khơng phát sinh quyền sở hữu của họ đối với di sản
thừa kế.
- Trong trường hợp người thừa kế di sản được định đoạt bằng di chúc, thì di
chúc này là ý chí của riêng người lập di chúc, là hành vi pháp lý đơn
phương từ người lập di chúc. Và việc có hay khơng đồng ý với việc định
đoạt này là quyền của người thừa kế theo di chúc. Nếu người thừa kế
khơng đồng ý nhận di sản thì sẽ không xảy ra vấn đề quyền sở hữu ở
người thừa kế này. Cũng tương tự đối với trường hợp thừa kế theo pháp
luật hay không phụ thuộc vào nội dung di chúc, người thừa kế cũng hồn
tồn có quyền từ chối tiếp nhận di sản theo Điều 620 BLDS 2015. Và như
vậy, người thừa kế đó sẽ khơng có quyền sở hữu đối với di sản đó.
Như vậy, thời điểm một người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản do
người chết để lại là khi người đó nhận di sản đó. Trong thực tế, người thừa
kế được coi là đã nhận di sản đó từ thời điểm hoàn tất thủ tục khai nhận di
sản tại cơ quan cơng chứng (trong trường hợp khơng có tranh chấp) hoặc
bản án có hiệu lực của Tịa án (trong trường hợp có tranh chấp về thừa
kế).
Câu 5: Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào
người thừa kế của ơng Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì
sao?
14
-
-
Trích bản án: “Ơng Hà chết ngày 12/5/2008 thì bà Lý Thị Ơn là vợ và các
con ông Hà được thừa kế và nhà đất này đã chuyển dịch quyền sở hữu nhà
ở và quyền sử dụng đất ở sang cho bà Lý Thị Ơn; ngày 04/3/2011 bà Ơn
đã đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất”.
Theo đó, ta thấy được, thời điểm mà người thừa kế của ơng Hà (là bà Ơn)
có quyền sở hữu nhà ở và đất tranh chấp là sau khi ông Hà chết vào ngày
12/5/2008.
Việc Tòa xác định như vậy là hợp lý, bởi theo luật, kể từ thời điểm mở
thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại.
Phần 3: thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di
chúc tồn bợ tài sản của ơng Lưu cho bà Xê?
Phần Xét thấy của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
cho thấy việc ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho
bà Xê như sau: “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 27-7-2002 là thể
hiện ý chí của ông Lưu để lại tài sản của ơng cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với
quy định của pháp luật”.
Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có tḥc diện được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đới với di sản của ơng Lưu
khơng? Vì sao?
-
Trong trường hợp này, chỉ có bà Thẩm là người thuộc diện được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ơng Lưu,
cịn bà Xê và chị Hương thì khơng thuộc vào diện này.
-
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia
theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho
hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
-
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
Ở đây, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nên việc bà là người thừa kế
khơng phụ thuộc nội dung di chúc là hồn tồn tất nhiên.
-
Về phía chị Hương không phải là con chưa thành niên(chị sinh năm 1965,
nghĩa là đến ngày ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên),
cũng không phải là người thành niên mà khơng có khả năng lao động, nên
chị không phải là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
-
Về phía bà Xê, thứ nhất, bà không phải là vợ hợp pháp, cũng không phải
vợ thực tế của ông Lưu. Theo nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày
19/10/1990 có quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước
ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn
bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam
và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy
thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực
pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của
người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất
của tất cả các người vợ”.
Như vậy, trong ba người là bà Xê, bà Thẩm và chị Hương thì chỉ có bà
Thẩm là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông
Lưu.
Câu 3: Theo Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tới cao, vì sao bà Thẩm được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông
Lưu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời.
‾
Theo Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ơng Lưu vì bà
là vợ hợp pháp, đã già yếu khơng cịn sức lao động. Điều đó được thể hiện
trong Quyết định như sau: “Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp
của ông Lưu đã già yếu, khơng cịn khả năng lao động, theo quy định tại
điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế tài sản của ông Lưu mà
không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu”.
Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao đợng thì có được hưởng
thừa kế khơng phụ tḥc vào nợi dung của di chúc đới với di sản của ơng
Lưu? Vì sao?
-
Căn cứ theo khoản 1 Điều 669 BLDS 20051, bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu vì
bà là vợ hợp pháp của ơng.
Câu 5: Nếu di sản của ơng Lưu có giá trị 600 triệu đờng thì bà Thẩm sẽ
được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
-
Căn cứ theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc, bà Thẩm là vợ của ông Lưu nên bà được
hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp
luật. Cụ thể là :
1) Di sản của ông Lưu: 600 triệu
1 Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế
theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập
di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ
là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người khơng
có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
16
2) Thực hiện theo di chúc: bà Xê = 600 triệu
3) Chia thừa kế bắt buộc: bà Thẩm (vợ)
Giả sử di sản chia theo pháp luật: 600/2 = 300 triệu
2/3 x 300 = 200 triệu
Như vậy, số tiền bà Thẩm được hưởng thừa kế là 200 triệu.
Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì u cầu của
bà Thẩm có được chấp nhận khơng? Vì sao?
-
Căn cứ theo khoản 2 Điều 685 BLDS 2005 2, bà Thẩm là diện thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của ông Lưu nên bà có thể
nhận được di sản bằng hiện vật nếu bà Xê đồng ý.
Câu 7: Trong bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản
án cho thấy bà Khót, ơng Tâm và ơng Nhật là con của cụ Khánh?
-
Đoạn của bản án cho thấy bà Khót, ơng Tâm và ơng Nhật là con của cụ
Khánh nằm ở phần xét thấy: “Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lầm
(chết năm 1938) có 02 con là bà Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ơng An
Văn Tâm sinh năm 1932. Cụ Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt (chết năm
1973) có 01 con là ơng Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930”.3
Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng tồn bợ tài sản có tranh chấp?
-
Ơng Nhật được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh
chấp.
Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ơng Tâm có là con đã
thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
I/Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ơng Tâm là con đã thành niên của cụ
Khánh.
II/Đoạn trong bản án cho câu trả lời: "Xét yêu cầu của ơng Tâm, bà Khót về việc
được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do khơng có khả
năng lao động vì tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đa 71 tuối, ơng Tâm 68 tuổi
lại là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 145 của Bộ luật lao động năm 1994 quy
định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam
và từ 15 tuổi đến 56 tuổi đối với nữ..."
2 Điều 685. Phân chia di sản theo pháp luật
2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu khơng thể chia
đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thoả thuận về việc định giá hiện vật và thoả
thuận về người nhận hiện vật; nếu khơng thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia.
3 Bản án số: 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
tr.2.
=>Theo bản án tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đa 71 tuối, ơng Tâm 68 t̉i.
Do đó bà Khót và ơng Tâm là con đã thành niên của cụ Khánh.
III/Cơ sở pháp lý: Điều 20 BLDS 2015 4
Câu 10: Bà Khót và ơng Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho
câu trả lời?
I/Bà Khót và ơng Tâm khơng được Tịa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
II/Đoạn trong bản án cho câu trả lời:
Xét u cầu của ơng Tâm, bà Khót về việc được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc do khơng có khả năng lao động vì tại thời
điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh
2/4, thấy tại Điều 140, 146 của Bộ luật lao động năm 1994 quy định độ
tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và
từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ. Bên cạnh đó, tại chương lao động là
người cao t̉i của Bộ luật lao động cịn có các quy định về chế độ đối với
người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với
nam. Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia
các quan hệ lao động mà việc tham gia quan hệ lao động tùy thuộc vào thể
lực, trí lực và tinh thần của từng người. Do đó, độ t̉i lao động là cơ sở
xác định người hết tuổi lao động để được hưởng các chế độ đãi ngộ chứ
không phải là căn cứ để xác định một người khơng cịn khả năng lao
động. Các ngun đơn cũng khơng x́t trình được chứng cứ chứng minh
tại thời điểm mở thừa kế họ là những người khơng có khả năng lao động.
Hơn nữa, từ trước đến nay ơng Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập,
khơng phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản
thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo
diện người có cơng với cách mạng khoảng 400.000 đồng, cịn ơng Tâm
tuy là thương binh 2/4, theo quy định thì ơng bị suy giảm khả năng lao
động là 62% nhưng ông cũng đã
được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn
2.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử nhận thấy khơng có cơ sở để chấp
nhận u cầu của bà Khót, ơng Tâm về người được hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung đi chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là
400.000.000 đồng.
4 Người thành niên
1. Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
18
=>Theo bản án, do khơng có căn cứ để xác nhận mình là người khơng có khả
năng lao động nên bà Khót và ơng Tâm khơng được tồ án cơng nhận được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
III/Tìm hiểu thêm một số quan điểm về quy định "Con thành niên mà khơng có
khả năng lao động":
A/Có ý kiến cho rằng, vì chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng trực tiếp quy phạm
“con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động” nên chúng ta có thể áp dụng
tương tự pháp luật, cụ thể tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, có quy định về bồi
thường thiệt hại trong trường hợp “mất khả năng lao động” theo đó, “người bị
thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xun chăm sóc (người
bị thiệt hại khơng còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai
chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên..”. Do
vậy, nếu như người thành niên, mà thường xuyên cần phải có người chăm sóc và
rơi vào những trường hợp như Nghị quyết số 03/2006 đã liệt kê ở trên thì mới
xác định họ “khơng cịn khả năng lao động”.
B/Ý kiến khác lại cho rằng, ngoài Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, cịn có một văn bản khác
cũng điều chỉnh tương tự, đó chính là Thơng tư số 84/2008/TT-BTC ngày
30/9/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành 1 số điểm của Luật thuế thu nhập
cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008
của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân có
quy định về khái niệm “người tàn tật khơng có khả năng lao động”. Cụ thể tại
Mục 3.1.6 của Thông tư số 84 có khái niệm người tàn tật khơng có khả năng lao
động để xét giảm trừ gia cảnh về thuế thu nhập như sau: “Người tàn tật, khơng
có khả năng lao động là người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực
tiếp sản xuất, kinh doanh hoặc người bị khuyết tật bẩm sinhkhơng có khả năng tự
phục vụ bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc tự bản
thân khai có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật khơng có
khả năng lao động”.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu
hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu
hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc. Ví dụ: Xác nhận người phụ thuộc
bị cụt tay, cụt chân, mù mắt, mắc bệnh thiếu năng trí tuệ, bị di chứng chất độc
màu da cam...
Trường hợp người phụ thuộc mắc bệnh mà khơng có khả năng lao động (như
bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn...) có bệnh án của cơ quan y tế từ cấp huyện
trở lên thì chỉ cần bản sao bệnh án mà khơng cần phải có xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nhằm phân biệt về người tàn tật khơng có khả năng
lao động với người tàn tật nhưng vẫn có khả năng lao động. Theo tác giả, việc
viện dẫn cả hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên (Nghị quyết số 03 và Thông
tư số 84 là chưa chính xác và không hợp lý).5
IV/Cơ sở pháp lý: Khoản 1 điều 644 BLDS 20156
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
I/Trong phần xét xử của toà án về vấn đề “con thành niên mà khơng có khả năng
lao động”. Tồ nhận định."Xét u cầu của ơng Tâm, bà Khót về việc được
hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc do khơng có khả năng
lao động vì tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi lại là
thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 146 của Bộ luật lao động năm 1994 quy định
độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và từ
15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ. Bên cạnh đó, tại chương lao động là người cao
t̉i của Bộ luật lao động cịn có các quy định về chế độ đối với người lao động
từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy, pháp luật
không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc
tham gia quan hệ lao động tùy thuộc vào thể lực, trí lực và tinh thần của từng
người. Do đó, độ t̉i lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được
hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định một người khơng
cịn khả năng lao động. Các ngun đơn cũng khơng x́t trình được chứng cứ
chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người khơng có khả năng lao
động. Hơn nữa, từ trước đến nay ơng Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập,
không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản thân
bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của nhà nước theo diện người
có cơng với cách mạng khoảng 400.000 đồng, cịn ơng Tâm tuy là thương binh
2/4, theo quy định thì ơng bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông
cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn
2.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử nhận thấy khơng có cơ sở để chấp nhận u
cầu của bà Khót, ơng Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung đi chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng."
5 Ths. Nguyễn Nam Hưng, “Hiểu thế nào là "con đã thành niên mà khơng có khả năng lao
động"?”, Hiểu thế nào là "con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động"? - Kiểm Sát
Online (kiemsat.vn), truy cập ngày 9/5/2021.
6 1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
20
II/Tìm hiểu một số quan điểm khác liên quan đến vấn đề "Con thành niên mà
khơng có khả năng lao động."
-
-
-
-
Có ý kiến cho rằng, vì chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng trực tiếp quy
phạm “con đã thành niên mà khơng có khả năng lao động” nên chúng ta
có thể áp dụng tương tự pháp luật, cụ thể tại Nghị quyết số 03/2006/NQHĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng, có quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp
“mất khả năng lao động” theo đó, “người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại khơng
cịn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm
thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên…”. Do
vậy, nếu như người thành niên, mà thường xuyên cần phải có người chăm
sóc và rơi vào những trường hợp như Nghị quyết số 03/2006 đã liệt kê ở
trên thì mới xác định họ “khơng cịn khả năng lao động”.
Ý kiến khác lại cho rằng, ngoài Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, cịn có một văn bản
khác cũng điều chỉnh tương tự, đó chính là Thơng tư số 84/2008/TT-BTC
ngày 30/9/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành 1 số điểm của Luật
thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐCP ngày 08/09/2008 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của
Luật thuế thu nhập cá nhân có quy định về khái niệm “người tàn tật khơng
có khả năng lao động”. Cụ thể tại Mục 3.1.6 của Thông tư số 84 có khái
niệm người tàn tật khơng có khả năng lao động để xét giảm trừ gia cảnh
về thuế thu nhập như sau: “Người tàn tật, khơng có khả năng lao động là
người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực tiếp sản xuất, kinh
doanh hoặc người bị khuyết tật bẩm sinh khơng có khả năng tự phục vụ
bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc tự bản thân
khai có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật khơng có
khả năng lao động”.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận những
biều hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc đang sống xác nhận
những biểu hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc. Ví dụ: Xác nhận
người phụ thuộc bị cụt tay, cụt chân, mù mắt, mắc bệnh thiểu năng trí tuệ,
bị di chứng chất độc màu da cam…
Trường hợp người phụ thuộc mắc bệnh mà khơng có khả năng lao động
(như bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn…) có bệnh án của cơ quan y tế từ
cấp huyện trở lên thì chỉ cần bản sao bệnh án mà khơng cần phải có xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã7.
7 Ths. Nguyễn Nam Hưng, tlđd (2)
-
-
Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nhằm phân biệt về người tàn tật khơng có
khả năng lao động với người tàn tật nhưng vẫn có khả năng lao động.
Theo tác giả, việc viện dẫn cả hai văn bản quy phạm pháp luật nêu trên
(Nghị quyết số 03 và Thông tư số 84 là chưa chính xác và không hợp lý).
Do vậy, trong quá trình kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án liên quan
đến phần di sản của những người không phụ thuộc vào nội dung di chúc,
Kiểm sát viên cần phải hết sức thận trọng, đánh giá toàn diện, khách quan
mối quan hệ giữa người để lại di sản với người thụ hưởng; giá trị đạo đức,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chuẩn mực đạo lý của xã hội nhằm
làm rõ và phân biệt trường hợp nào “con đã thành niên mà khơng có khả
năng lao động” để đánh giá chính xác có cho hay khơng cho hưởng 2/3
của một suất thừa kế theo pháp luật, làm căn cứ cho việc kiến nghị, kháng
nghị các bản án, quyết định của Tòa án một cách chính xác, tồn diện, hợp
lý, hợp tình.
Câu 12: Hướng giải qút có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85%
sức lao đợng? Vì sao?
-
-
Hướng giải quyết có thể sẽ khác đi khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức
lao động. Do quy định về "Con thành niên mà không có khả năng lao
động" chưa được quy định cụ thể trong luật nên chúng ta có thể "áp dụng
một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng, có quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp “mất khả năng
lao động” theo đó, “người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có
người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại khơng cịn khả năng lao
động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các
trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy
giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên…”. Do vậy, nếu như
người thành niên, mà thường xuyên cần phải có người chăm sóc và rơi
vào những trường hợp như Nghị quyết số 03/2006 đã liệt kê ở trên thì mới
xác định họ “khơng cịn khả năng lao động”8."
Theo như ý kiến về hướng giải quyết áp dụng tương tự pháp luật một số
quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, có
quy định về bồi thường thiệt hại trong trường hợp “mất khả năng lao
động”. Rất có thể tồ án sẽ xem xét cộng nhận ơng Tâm rơi vào trường
hợp "con thành niên mà khơng có khả năng lao động" được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào di chúc. Cụ thể theo khoản 1 điều 644 BLDS 2015.
Câu 13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài
sản.
I/Di chúc và tặng cho tài sản đều là sự chuyển giao tài sản hoặc quyền tài sản
trên tinh thần tự nguyện giữa các bên.
8 Ths. Nguyễn Nam Hưng, tlđd (2)
22
II/Sự khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản về căn cứ pháp lý, khái niệm,
đối tượng, hình thức, thời điểm nhận được tài sản, thực hiện nghĩa vụ tài sản.
a/Về căn cứ pháp lý
Di chúc được quy định tại Chương XXII Bộ luật dân sự năm 2015 còn tặng cho
tài sản được quy định tại Mục 3 Chương XVI của Bộ luật dân sự năm 2015
b/Về khái niệm
- Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển quyền tài sản của mình
cho người khác sau khi chết
- Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho
giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không
yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
c/Về đối tượng
- Tuy đối tượng của di chúc và tặng cho đều là tài sản.
- Tuy nhiên, đối với tặng cho tài sản phải là tài sản đang có, đang tồn tại chứ
khơng phải tài sản hình thành trong tương lai.
d/Bản chất
- Đối với di chúc là thể hiện tâm nguyện, mong muốn chủ quan của người để lại
di sản.
- Còn với tặng cho thực chất là sự thỏa thuận giữa bên được tặng cho với bên
tặng cho.
e/Về hình thức
- Đối với di chúc phải được lập thành văn bản:
+ Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng;
+ Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
+ Di chúc bằng văn bản có cơng chứng;
+ Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Nếu khơng thể lập bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
+ Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn
bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
+ Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực.
- Với tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có cơng chứng, chứng
thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy
định của Luật Dân sự.
f/Về thời điểm nhận được tài sản
- Đối với di chúc phải được thể hiện rõ trong di chúc, người thừa kế chỉ được
nhận di sản sau khi người lập di chúc chết.
- Đối với tặng cho:
+ Nếu hợp đồng tặng cho là động sản: có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng
cho nhận được tài sản.
+ Nếu đối tượng của hợp đồng là bất động sản: phải lập thành văn bản có cơng
chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
g/ Về thực hiện nghĩa vụ tài sản
- Người thừa kế được quyền nhưng đồng thời phải có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Người thừa kế khơng phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
- Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng khơng có đền bù. Do đó, người được
tặng cho khơng phải hồn trả một lợi ích hay thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào.
=>Như vậy, về bản chất, để lại di chúc và tặng cho tài sản khác nhau hoàn toàn.
=>Tùy vào mục đích, khả năng và mong muốn của người có tài sản mà quyết
định nên chọn hình thức nào trong hai hình thức đó. Nếu một người muốn để lại
tài sản của mình cho người khác sau khi bản thân chết thì lựa chọn hình thức lập
di chúc. Nếu muốn tặng cho, chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người
khác ngay khi đang cịn sống thì lựa chọn hình thức lập hợp đồng tặng cho.
h/ Về các chủ thể
- Đối với di chúc:
Người để lại di sản phải là người thành niên, minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người được hưởng thừa kế theo di chúc:
Nếu là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Bên cạnh đó người
được nhận di sản phải được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trường hợp người hưởng thừa kế theo di chúc khơng là cá nhân thì phải phải tồn
tại vào thời điểm mở thừa kế.
24