Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

sang kien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.59 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
PHÒNG GD YÊN MỸ - TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN PHÚ I

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
TRONG CÁC LỚP HỌC ĐẠI TRÀ Ở TIỂU HỌC

Người thực hiện: Trần Thị Thu Huyền
Ngày sinh : 01 – 3 - 1978
Chức vụ : Giáo viên lớp 3A4
Trường : Tiểu học Yên Phú I


Năm học 2012 – 2013


2


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Từ hơn năm trăm năm trước, danh sĩ Thân Nhân Trung đã có câu nói
nổi tiếng nêu bật được tầm trọng của nhân tài đối với việc hưng thịnh của
đất nước : “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia…”. Hiện bài văn bia có câu
nói này vẫn cịn hiện diện ở văn miếu Quốc Tử Giám - ngôi trường đại
học đầu tiên trên đất nước Việt Nam - một biểu tượng sống động cho
truyền thống hiếu học và trọng dụng nhân tài của dân tộc ta. Thời xưa,
việc đào tạo nhân tài được các bậc đế vương anh minh rất coi trọng, và
lịch sử mấy nghìn năm qua đã chứng minh rằng vị vua nào biết trọng dụng
nhân tài thì vương triều ấy vững mạnh, vị vua ấy được coi là sáng suốt,
được người đời ca tụng. Và ngược lại, khi việc đào tạo và trọng dụng nhân


tài bị lãng quên thì thế nước sẽ suy yếu…Ngày nay trong cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đất nước ta cần lắm những nhân tài có tầm, có
tâm để đưa Việt Nam sánh vai cùng bè bạn năm châu như tâm nguyện của
Bác kính yêu lúc sinh thời.
Tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, các
mơn học ở Tiểu học giúp học sinh có cơ hội bộc lộ những năng khiếu, tài
năng tiềm ẩn của mình. Điều II luật phổ cập giáo dục đã nêu: “ Giáo dục
tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân…”. Bậc Tiểu
học là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục, giúp trẻ hình thành những
cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững về kiến thức và kĩ năng để tiếp tục học
lên các bậc học trên. Các nhà giáo dục học thường ví con đường học vấn
của một con người giống như một tịa nhà trong đó bậc Tiểu học là cái
móng nhà. Móng khơng vững tất nhà sẽ đổ …. Do vậy mà, bậc Tiểu học
nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước. Bậc học này ngoài
nhiệm vụ phổ cập Gd, xóa mù chữ cịn có vai trò quan trọng trong việc
đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Tuy nhiên việc đào tạo nhân tài hay bồi dưỡng học sinh giỏi khơng
hề đơn giản, nó phụ thuộc bởi nhiều yếu tố như phải có quá trình quan sát
để phát hiện học sinh có tố chất, rồi phải tạo môi trường thuận lợi cho học
sinh ấy phát huy tố chất của mình.
1


Một vấn đề mà các nhà lãnh đạo của ngành Giáo dục luôn trăn trở là
phải nâng cao được chất lượng giáo dục đại trà và chất lượng giáo dục
mũi nhọn, đỉnh cao. Đã có rất nhiều chuyên đề về bồi dưỡng học sinh giỏi
nhưng việc áp dụng những kinh nghiệm này vào thực tế không phải lúc
nào cũng thuận lợi bởi mỗi học sinh giỏi là một cá thể với những hồn
cảnh, tính cách khác nhau. Song khơng vì những khó khăn này mà chúng
ta lùi bước trong việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Là một giáo viên tiểu học, tơi thấy mình cũng cần góp sức để cùng
với ngành giáo dục thực hiện trọng trách này. Đây chính là lí do để tơi
chọn đề tài : “ Bồi dưỡng học sinh giỏi trong các lớp học đại trà ở Tiểu
học.”
2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Học sinh Tiểu học cụ thể là học sinh lớp 3A4, trường Tiểu học Yên
Phú I – Yên Mỹ - Hưng Yên.
Thời gian áp dụng: từ 3/9/2012 đến 22/2/2013
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn ở bậc
Tiểu học.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp tổng kết, đánh giá, so sánh, đối chứng
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Học sinh tiểu học suy nghĩ còn rất non nớt, cảm xúc có ảnh hưởng
mạnh đến suy nghĩ của các em. Các nhà tâm lí học đã khẳng định suy nghĩ


dẫn đường cho hành động. Điều này đúng với tất cả mọi người, trong đó
có học sinh Tiểu học. Do đó, để đạt hiệu quả trong giảng dạy nói chung và
trong việc bồi dưỡng hs giỏi nói riêng, giáo viên rất cần hiểu tâm lý học
sinh Tiểu học để vận dụng những hiểu biết đó vào trong q trình giáo
dục.
Chúng ta vốn rất quen với cụm từ “chun mơn hóa”. Cụm từ này
xuất hiện trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Thực tế đã chứng minh
rằng để đạt hiệu quả trong công việc, để tăng năng xuất lao động, để nâng

cao chất lượng sản phẩm thì cần phải “chun mơn hóa”. Giáo dục cũng là
một ngành nghề trong xã hội và tất nhiên rất cần “chun mơn hóa” để
nâng cao chất lượng dạy và học.
Thế nhưng ở các lớp học đại trà, việc bồi dưỡng học sinh Giỏi gặp
khó khăn do lớp có nhiều đối tượng học sinh trong đó có cả học sinh yếu.
Giáo viên phải dành nhiều thời gian cho những học sinh này. Có phần
kiến thức, những học sinh khá giỏi đã hiểu rõ song vì học sinh trung bình
và yếu vẫn chưa hiểu nên giáo viên lại phải giảng giải nhiều lần. Điều này
với học sinh giỏi có thể coi là một sự lãng phí về mặt thời gian. Các em sẽ
ít có cơ hội khám phá những tri thức mới, nâng cao. Vì là lớp đại trà nên
trong lớp sẽ có những em bướng bỉnh luôn gây mất trật tự. Đây lại là một
trở ngại nữa cho giáo viên trong việc nâng cao chất lượng của học sinh
nhất là học sinh giỏi vì thực tế cho thấy học sinh cá biệt càng mất trật tự
nhiều hơn khi giáo viên dành thời gian cho học sinh giỏi vì những nội
dung trao đổi giữa giáo viên và học sinh giỏi khi ấy nằm ngoài sự quan
tâm của những em học sinh bướng bỉnh này.
Chun mơn hóa khơng chỉ cần với học sinh mà người giáo viên
cũng rất cần được chun mơn hóa. Những giáo viên chun dạy ở lớp
chọn, chuyên bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc làm
quen nên hiểu các em hơn và các đồng chí ấy cũng có nhiều tư liệu, kinh
nghiệm cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi hơn.
Chúng ta đều biết cạnh tranh là một động lực của sự phát triển,
những học sinh giỏi ở lớp đại trà sẽ ít có đối thủ cạnh tranh, các em sẽ
thiếu đi động lực để cố gắng.


Một khó khăn nữa cho giáo viên khi tiến hành bồi dưỡng học sinh
giỏi là vì những học sinh có nhận thức nổi trội ở các lớp đại trà dù sao
cũng là những học sinh khơng vượt qua vịng tuyển vào lớp chọn, chắc
chắn trong học tập các em sẽ có những mặt cịn hạn chế so với những bạn

được chọn cho dù vẫn có câu: khơng có gì là tuyệt đối.
Với tất cả những cơ sở về lí luận và thực trạng trên, tôi đã tiến hành
các biện pháp sau:
2. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH
2.1 Phân loại học sinh
Cần có q trình quan sát các hoạt động học tập, vui chơi của học
sinh để biết trình độ học tập, tính cách, sở thích, các mối quan hệ bạn bè
của các em từ đó xếp chỗ ngồi, phân tổ, nhóm học tập cho các em.
Tơi đã phân tổ, nhóm cho các em như sau
+ Phân tổ : Tổ 1, 2 phần lớn là học sinh có trình độ nhận thức ở mức
trung bình khá trở lên hai tổ này gần nhau để tạo động lực cho các em thi
đua nhau trong học tập. Tổ 3 chủ yếu là học sinh trung bình chỉ có hai học
sinh học khá giỏi trong đó một học sinh được chọn làm tổ trưởng.
Riêng tổ 4 gồm những học sinh tiếp thu chậm và một số em có ý
thức học chưa tốt, tổ này do một học sinh vừa học tốt lại có năng lực quản
lí, nhận được sự tín nhiệm, yêu quý của bạn bè làm tổ trưởng. Qua việc
phân tổ này tôi thấy các em đã có nhiều tiến bộ trong học tập.
Với tổ1, 2, tơi cũng xếp những em có cùng sở thích và chơi thân với
nhau ngồi cùng một bàn để các em động viên nhau trong quá trình học tập
và cùng nhau trao đổi, bàn bạc khi thảo luận cặp. Ngồi ra, tơi cịn xếp
những em có sở trường khác nhau ngồi gần nhau, ví dụ : Những em nhút
nhát sẽ ngồi cạnh em mạnh dạn, tự tin. Những em ít nói và nói bé sẽ ngồi
với em hoạt bát, nói năng to tát, rõ ràng, những em viết chữ chưa đẹp sẽ
ngồi cùng em viết đẹp…. Đây là một biện pháp giúp các em khơng những
có tiếng nói chung khi thảo luận nhóm mà cịn giúp các em bổ sung ưu
điểm cho nhau, cùng nhau tiến bộ.


Tổ 3 là tổ có nhiều học sinh trung bình tơi cho hai em khá, giỏi làm
nịng cốt, hai em này sẽ bàn bạc, trao đổi, định hướng cho cả tổ khi thảo

luận nhóm. Tơi hướng cho tổ 3 noi gương tổ 1, 2, phấn đấu có được thành
tích như tổ 1,2 và khơng ngừng hồn thiện mình để khơng bị tổ 4 vượt
qua. Và tổ này sẽ là đối thủ vừa sức với tổ 4, tạo cho tổ 4 có niềm tin vào
chiến thắng trong cuộc đua thứ hạng. Đây là điều kiện thuận lợi để tôi
giao nhiệm vụ phù hợp với trình độ của mọi hs trong lớp. Với tổ 1, 2, tơi
giao nhiệm vụ địi hỏi sự sáng tạo và có độ khó nhất định cịn với tổ 3, 4,
tôi giao việc nhiệm vụ không quá phức tạp và vừa sức với các em.
2.2. Áp dụng phương pháp dạy lồng ghép
Ở các lớp đại trà muốn bồi dưỡng hs giỏi cũng cần áp dụng phương
pháp dạy lồng ghép. Bên cạnh những phần kiến thức cho lớp đại trà, giáo
viên cần bổ sung các kiến thức nâng cao, các câu hỏi có độ khó nhất định
dành cho hs giỏi. Để thực hiện được phương pháp này, giáo viên cần một
sự quan sát tinh tế để lựa chọn đúng thời điểm và cách thức lồng ghép. Ví
dụ:
Khi thấy hs giỏi đã làm xong bài chung với các bạn trong lớp thì gv
có thể giao thêm bài nâng cao cho hs. Lưu ý : ( không nên viết đề bài nên
bảng vì sẽ làm phân tán sự tập trung của những hs chưa hoàn thành bài mà
nên viết vào một tờ giấy đưa cho các em. Và nên tổ chức các em trao đổi
nhóm nhỏ làm bài để giáo viên không phải viết nhiều và giảm thời gian
kiểm tra bài làm của hs. Ngồi ra, hoạt động nhóm nhỏ cịn tăng thêm
hứng thú cho hs mà không khiến cho lớp bị ồn).
Còn khi thấy hs giỏi tỏ ra chủ quan hoặc uể oải trước những câu hỏi
đơn giản thì giáo viên cần lồng ghép những câu hỏi khó, tạo ra một thử
thách nho nhỏ đánh thức sự tư duy của các em, giúp các em lấy lại tâm thế
tích cực trong học tập.
2.3 Áp dụng phương pháp hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm có tác dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội, thực tế cho thấy những nước phát triển đều chú trọng đến hoạt động
này, ví dụ như đất nước Nhật Bản, một nước có sự phát triển “thần kì” sau
thế chiến nhờ nguồn lực con người. Mà người dân Nhật Bản vốn nổi tiếng



là có ý thức cộng đồng rất cao và hoạt động nhóm trong cơng việc và học
tập được họ phát huy rất hiệu quả. Có một câu nói lí giải cho sự thành
công của Nhật Bản đáng để chúng ta học tập là : Một người Việt thì hơn
một người Nhật nhưng phải 30 người Việt mới bằng 3 người Nhật. Vì
rằng kĩ năng hoạt động nhóm của người Nhật hơn hẳn người Việt nên khi
3 người Nhật phối hợp với nhau thì hiệu quả cơng việc được nâng lên rõ
rệt.
Nhận thức được tầm quan trọng như đã nêu của hoạt động nhóm và
thấy được những hạn chế trong kĩ năng hoạt động nhóm của phần đơng
người Việt nói chung và hs Việt nói riêng. Tơi đã chú trọng tìm hiểu và
vận dụng phương pháp này trong dạy học nhất là trong bồi dưỡng hs giỏi.
Đây là một phương pháp đã được ngành giáo dục đề cập đến trong nhiều
chuyên đề, hội thảo. Những ưu điểm của phương pháp này đều được mọi
người ghi nhận song việc áp dụng không phải là khơng gặp khó khăn. Đặc
biệt đối với lớp học đại trà, hs có nhiều trình độ nhận thức khác nhau, có
cả hs yếu, hs cá biệt thì để áp dụng tốt phương pháp này cần tìm ra những
biện pháp riêng phù hợp với tình hình thực tế của lớp. Tôi đã áp dụng
những biện pháp sau:
2.3.1. Phân loại hs
Phần này tôi đã đề cập ở phần đầu, việc phân loại hs cũng góp phần
tạo thuận lợi cho hoạt động nhóm có hiệu quả.
2. 3.2. Linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động nhóm.
Đây là một biện pháp tổng hợp. việc vận dụng linh hoạt phương
pháp hoạt động nhóm thể hiện ở một số biện pháp sau:
a) Giao nhiệm vụ cho các nhóm:
- Có những nhiệm vụ giao chung cho các nhóm cùng hồn thành, có
những nhiệm vụ giao riêng cho từng nhóm. Ví dụ :
+ Ở trang 7, tuần 19 sgk Tiếng việt 3, có bài tập chính tả : Thi tìm

nhanh các từ ngữ chứa tiếng bắt đầu bằng l, n thì giáo viên có thể cho hs
tất cả các nhóm cùng làm vì đây là bài tập có yêu cầu dễ hiểu, mọi hs đều
có thể tham gia tìm từ.


+ Còn với bài tập 1 tiết Luyện từ và câu tuần 23 trang 44, sgk Tiếng
việt 3 thì:
Câu a) Trong bài thơ trên, những sự vật nào được nhân hóa? Đây là
câu hỏi khơng khó, chỉ địi hỏi tái hiện kiến thức cơ bản, giáo viên có thể
giao chung cho các nhóm cùng làm.
Câu b) Những sự vật ấy được nhân hóa bằng cách nào? giáo viên chỉ
giao cho nhóm học sinh giỏi…vì đây là câu hỏi khó địi hỏi sự tổng hợp,
suy luận.
b) Thay đổi sự kết hợp giữa các đối tượng hs trong một nhóm:
- Việc chia nhóm cố định theo đơn vị tổ phát huy nhiều ưu điểm như
đã trình bày ở trên song đơi khi giáo viên cũng cần cho hs trung bình và hs
yếu cùng thảo luận nhóm với hs giỏi để những hs này được hs giỏi truyền
cảm hứng học tập tích cực; để hs giỏi lôi kéo các em vào các hoạt động
học tập; để các phương pháp học tập tích cực thấm dần tới các em; để các
em thấy đủ tự tin rằng mình cũng có thể tham gia học cùng các bạn học
giỏi. Điều này giúp các em có thêm tinh thần phấn đấu vươn lên trong học
tập. Còn hs giỏi thì lại thấy vinh dự và tự hào khi được là người dìu dắt,
giúp đỡ các bạn trong học tập. Các em càng thêm cố gắng phấn đấu để
xứng đáng với trách nhiệm vinh dự đó.
c) Vận dụng thảo luận nhóm trong thi giải các bài tốn khó
Bài tốn khó mà tơi muốn đề cập ở đây khơng phải là các bài ở các
sách nâng cao mà chỉ đơn giản là các bài tốn giải bằng hai phép tính ở
sgk và vở bài tập toán lớp 3. Song đây là những dạng toán mà các em mới
gặp lần đầu. Và một số bài khó trong vở luyện Tốn. Ví dụ:
- Bài 3 trang 76 sgk Toán 3, tiết luyện tập:

“Quãng đường AB dài 172m, quãng đường BC dài gấp 4 lần quãng đường
AB(xem hình vẽ). Hỏi quãng đường AC dài bao nhiêu mét ?”


Đây là bài tốn giải bằng 2 phép tính dạng mới và khá khó với hs lớp 3 vì
để làm được bài này hs phải vận dụng nhiều kiến thức như: Gấp một số
lên nhiều lần; kiến thức tổng hợp về đoạn thẳng, phải biết cách quan
sát….Nếu cho hs làm bài cá nhân sẽ không hiệu quả. Cho hs làm bài theo
nhóm, các em sẽ hỗ trợ nhau, mỗi cá nhân sẽ có ưu thế ở một mảng kiến
thức nào đó như hs quan sát tốt và hs có kiến thức chắc về phần đoạn
thẳng sẽ phối hợp với nhau để thấy rằng độ dài đoạn thẳng AC gồm độ dài
đoạn thẳng AB cộng với độ dài đoạn thẳng BC. Còn học sinh hiểu rõ phần
kiến thức Gấp một số lên nhiều lần sẽ biết ngay rằng độ dài đoạn thẳng
BC bằng độ dài đoạn thẳng AB nhân với 4 (172 × 4 = 688m) Từ đó các hs
này sẽ tìm ra được ra đáp án: Độ dài đoạn thẳng AC là ( 172 + 688 =
860m). Ngoài ra, bài này cịn được giải theo cách khác đó là:
Cách 2:
Nếu coi độ dài đoạn thẳng AB là một phần thì độ dài đoạn thẳng
BC là 4 phần như thế.
Tổng số phần bằng nhau của đoạn thẳng AB và đoạn thẳng BC là:
1 + 4 = 5 (phần)
Độ dài đoạn thẳng AB là:
172 × 5 = 860 (m)
Đáp số: 860m
Với cách này địi hỏi học sinh phải có mắt quan sát, phải có hiểu biết sâu
sắc về mảng kiến thức Gấp một số lên nhiều lần cũng như kiến thức tổng
hợp về đoạn thẳng. Nếu chỉ làm bài cá nhân thì không huy động hết sức
mạnh tổng hợp để giải những bài hàm chứa nhiều kiến thức và có nhiều
hướng giải như bài này.
Ngồi ra nếu hoạt động đơn lẻ thì sẽ khơng có nhiều học sinh tìm ra

đáp án và rất ít hs tìm ra được hai cách giải mà nếu có tìm ra thì cũng rất
mất thời gian.


Hoạt động nhóm đã tháo gỡ hồn tồn bất cập trên và hơn thế giả sử
có nhóm khơng tìm ra dù chỉ một cách giải thì việc những hs trong nhóm
được cùng nhau suy nghĩ tìm cách vượt qua khó khăn, thử thách cũng là
một trải nghiệm khó quên. Nó sẽ tạo ra một dấu ấn khó phai trong tâm trí
các em, khiến các em khao khát đi tới cùng của một vấn đề mà mình đã cố
cơng khám phá nhưng chưa ra. Hay nói chính xác hơn là chúng ta đã đặt
các em vào “tình huống có vấn đề”. Đây chính là bản chất và cũng là động
lực của quá trình giáo dục, quá trình nhận thức.
2.4 Áp dụng phương pháp tâm lý kết hợp với phương pháp thi đua khen
thưởng.
Biện pháp tâm lý được tôi áp dụng ngay trong cách chọn tổ trưởng,
xếp chỗ ngồi cho hs trong từng tổ mà điển hình là tổ 4. Tổ này có một học
sinh khá bướng bỉnh ln bắt nạt bạn bè và tự do làm những gì mình
thích. Tơi đã để cho em đó tự chọn một bạn trong lớp làm tổ trưởng. Tơi
cịn quan sát thấy em này chơi thân và luôn đứng ra bảo vệ một học sinh
trong lớp. Em này lại là một học sinh yếu song khá ngoan. Tơi đã xếp chỗ
cho học sinh yếu đó ngồi gần học sinh cá biệt này, rồi tôi luôn thể hiện sự
quan tâm đặc biệt tới học sinh yếu đó. Ngồi ra, tơi cũng có cách nói để
em hs đó hiểu rằng: nhờ sự giúp đỡ của em mà bạn em đã có nhiều tiến bộ
trong học tập; các bạn trong lớp nhất là bạn em rất cần không gian yên
tĩnh để học. Đây là cách để tôi tạo thiện cảm với học sinh cá biệt bởi thay
vì nhắc nhở em thì tơi lại cho em hiểu rằng việc em giữ trật tự sẽ giúp bạn
em có điều kiện học tập tốt hơn; và tôi rất quan tâm đến người bạn mà em
yêu quý. Với những biện pháp kể trên, hs cá biệt ấy đã có tiến bộ vượt
bậc, em khơng cịn quậy phá làm ảnh hưởng đến trật tự lớp học. Điều này
không chỉ giúp cho chất lượng dạy học đại trà được nâng lên mà còn giúp

cho hs Giỏi có thời gian yên tĩnh tự trau dồi kiến thức. Và ngay cả khi tôi
dành thời gian giảng giải các kiến thức nâng cao cho hs giỏi thì hs đó cũng
khơng cịn phá đám nữa bởi em đó biết những hs như em, như người bạn
yêu quý của em cũng được tôi quan tâm, yêu quý như thế và thậm chí cịn
hơn thế nữa.
Do hầu hết cha mẹ học sinh là những người lao động ngồi cơng
việc đồng áng cực nhọc thì họ cịn phải thức đêm, thức hôm ngược xuôi


chạy chợ kiếm sống. Trong lớp đại trà thường có học sinh chưa chăm và
học sinh cá biệt nên mỗi khi các em lười học hay quậy phá, giáo viên sẽ
dùng biện pháp tác động vào suy nghĩ, cảm xúc của các em qua những câu
nói như :
Các em có biết bây giờ bố mẹ các em đang làm gì và ở đâu khơng?
Các em có biết những đêm trời mưa rét, khi các em đang ngon giấc trong
chăn ấm nệm êm thì bố mẹ các em phải dậy từ mấy giờ để đi chợ khơng?
Sau khi có hs trả lời, gv sẽ nói tiếp : Các em đang được ngồi trong phịng
ấm áp, mưa khơng tới mặt, nắng khơng tới đầu, nóng thì đã có quạt mát.
Trong khi bố mẹ các em phải phơi mặt trong nắng cháy da, trong mưa
phùn gió rét… Bố mẹ phải vất vả như thế là vì ai ? Chính các em là nguồn
vui, là động lực để bố mẹ các em vượt qua mọi khó khăn thử thách của
cuộc sống. Dù cực khổ, mệt nhọc đến đâu nhưng chỉ cần nghĩ rằng mình
vất vả để kiếm ra tiền nuôi cho con ăn học là bố mẹ các em lại có thêm
động lực để vượt qua tất cả những khó khăn đó. Vậy mà các em đền đáp
lại công ơn của bố mẹ bằng cách này ư ? Nếu thấy các em thế này bố mẹ
các em có vui nổi khơng?
Những lời nhắc nhở trên không chỉ thức tỉnh hs quậy phá
, lười học mà cịn tác động đến tâm tư, tình cảm của các hs khác trong đó
có hs giỏi; là động lực cho hs giỏi quyết tâm phấn đấu trong học tập. Vì
cha mẹ các em cũng phải lao động vất vả giống như cha mẹ của các bạn

hs kia.
Hiểu tâm lý thích được khen của hs, các nhà sư phạm đã đưa ra biện
pháp thi đua khen thưởng. Tôi đã vận dụng biện pháp này như sau: Tôi đã
xây dựng câu lạc bộ Hoa điểm 10 và quỹ khen thưởng của lớp. Việc ghi
điểm 10 do nhóm hs khá giỏi thực hiện, điều này đảm bảo tính khách quan
trong việc tính tổng số điểm 10 và cũng tạo thêm động lực thi đua trong hs
bởi vì các em thường ngày được nhẩm tính số điểm của mình, sẽ ln thấy
cần phải cố gắng để giành nhiều hoa điểm 10 hơn. Mặt khác, vì trong lớp
tơi số hs nữ học nổi trội hơn hs nam nên tôi đã chia lớp làm hai nhóm nam
và nữ. Những hs nam thi đua với nhau, những hs nữ thi đua với nhau.
Việc này sẽ khiến cho hs nam có cơ hội được khen thưởng, các em mới có
động lực để cố gắng trong học tập.


Cuối mỗi tháng, tơi cùng với hs tính tổng số điểm 10 mà mỗi hs đạt
được. Tôi sẽ thưởng cho ba hs nữ và hai hs nam đạt nhiều điểm 10 nhất
trong tháng mỗi hs một quyển vở. Và tôi không quên khen những em đạt
nhiều điểm 10 khác song không ở trong tốp được tặng thưởng. Tôi động
viên các em đó cố gắng tháng sau để được đứng trong tốp 2, tốp 3. Thế
nhưng sau vài tháng đầu, các em này vẫn không lọt vào tốp được thưởng
vở, tôi thấy nỗi buồn hiện rõ trên ánh mắt, nét mặt các em. Điều này khiến
tôi rất trăn trở, tôi sợ rằng cứ kéo dài tình trạng này thì các em đó sẽ nản
chí, và phong trào thi đua sẽ bị chùng xuống. Và rồi, tôi cũng nghĩ ra cách
điều chỉnh hình thức khen thưởng. Thay vì chỉ có 3 hs nữ và 2 hs nam đạt
nhiều điểm 10 nhất chắc chắn được thưởng vở thì cơ hội được nhận
thưởng sẽ giành cho 6 hs nữ và 4 hs nam, những hs này sẽ bắt thăm để
nhận phần thưởng. Điều này sẽ không làm vỡ quỹ khen thưởng của lớp
mà vẫn động viên được nhiều hs, khuyến khích được nhiều hs phấn đấu
vươn lên trong học tập. Không những thế, việc thay đổi bằng cách bắt
thăm phần thưởng này cũng trở thành một trò vui nho nhỏ cho lớp trong

các tiết sinh hoạt cuối mỗi tháng. Một lợi ích nữa mà sự thay đổi này
mang lại là tạo ra khơng khí vui vẻ, đoàn kết giữa các hs trong lớp đặc biệt
là giữa những hs giỏi. Các em sẽ được giải thốt khỏi trạng thái mệt mỏi
vì sự đố kị. Khi nhiều hs được khen sẽ đảm bảo nguyên tắc rất khoa học
và là bản chất của thi đua khen thưởng là “thi đua để cùng tiến bộ”.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng, với các biện pháp
này tôi đã thu được kết quả sau:
3. KẾT QUẢ CỦA SKKN
Tôi đã áp dụng SKKN trên từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 2 năm
2013 cho hs lớp 3A4, trường Tiểu học Yên Phú 1 - Yên Mỹ - Hưng Yên.
Để minh chứng cho kết quả thu được, tôi sẽ lập bảng thống kê sau :
Kết quả các đợt thi của lớp 3A4 năm học 2012 - 2013
KẾT QUẢ
ĐỢT

MÔN

TV

1–4

5–6

7–8

SL % Nữ % SL % N % SL % N
3 1 0
0 10 4 4 28 11 4 9

9 – 10

% SL % N
6 1 4 1

%
7


ĐẦU
NĂM

2
4

1

7

1

4

0

0

GIỮA
KÌ I
TỐN 0

0


0

0

1

4

0

0

CUỐI
KÌ I
TỐN 0

0

0

0

TỐN 1
TV

TV

0
3 1

2
10 4
0
3 1
2
6 2
4
1 4

2
3
2
0
1

4
14 13 5
2
21 13 5
2
14 9 3
6
0 10 4
0
7 6 2
4

4
8 5
7

10 7
2
3 2
2
7 5
0
2 1
4

8

3
2
4

3

21

1

7

13 5
2
8 3
2
18 7
2


9

64

7

50

1
1

79

1

Kết quả thi đầu và cuối năm học của lớp 3A3 năm học 2011 – 2012
(Sĩ số đầu năm: 31 – Sĩ số cuối năm: 28)
KẾT QUẢ
ĐỢT

MƠN

1–4
SL %

5–6
SL
%

SL


10

32

17

55

4

13

0

0

TỐN 2

7

6

19

13

42

10


32

TV

1

4

14

50

13

46

0

0

CUỐI TỐN 0
NĂM

0

7

25


13

46

8

29

TV
ĐẦU
NĂM

7–8
%

9 – 10
SL
%

Nhìn vào bảng thống kê thứ nhất , ta thấy: khi áp dụng SKKN, tỷ lệ
học sinh Giỏi ở cả hai mơn có sự tăng lên rõ rệt, so sánh giữa hai thời
điểm đầu năm học và cuối kì I, mơn TV tăng gần 30%, mơn Tốn tăng
40%.


Nhìn vào bảng thống kê thứ hai khi chưa áp dụng SKKN, ta thấy tỷ
lệ hs Giỏi ở cả hai mơn đều khơng tăng, thậm chí cịn giảm (mơn Tốn).
Điều này cho chúng ta thấy hiệu quả bước đầu đầy khả quan của SKKN.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN

Người dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, đặc biệt những
người nông dân họ vất vả lo cho con ăn học chỉ mong con thành tài,
những đứa con chính là niềm tự hào và niềm tin ở tương lai của họ. Bởi
thế, họ rất mong con mình trở thành những học sinh Giỏi. Thực tế cho
thấy, họ tìm nhiều cách xin cho con mình vào lớp chọn, để con họ có cơ
hội trở thành học sinh Giỏi. Nếu những lớp đại trà mà học sinh vẫn được
tạo điều kiện để rèn luyện trở thành học sinh Giỏi, thì chắc chắn sẽ khơng
cịn hiện tượng phụ huynh tìm mọi các xin cho con vào lớp chọn nữa. Và
như vậy, nhà trường sẽ bớt đi một nỗi trăn trở mỗi dịp đầu năm học. Hơn
thế, những gv ở các lớp đại trà sẽ không rơi vào trạng thái bi quan, chán
nản mỗi khi lớp mình có hs xin chuyển đi nữa. Là giáo viên thường có hs
xin chuyển đi tơi hiểu hơn ai hết vấn đề này. Bởi thế, SKKN này mở ra
cho tôi một hướng đi mới trong nghề với một tương lai sáng sủa hơn. Và
tôi biết rằng một mình tơi khơng thể làm nên SKKN này mà đây là những
kinh nghiệm được tôi rút ra từ kho tàng tri thức vơ tận của lồi người và
những kinh nghiệm của tập thể giáo viên trường tôi.
Bởi thế mà, tôi ln thấy mình thật may mắn khi được cơng tác ở
trường Tiểu học Yên Phú I – một ngôi trường giàu truyền thống và có bề
dày thành tích. Đội ngũ lãnh đạo hiện tại của nhà trường từ Hiệu trưởng,
Hiệu phó đến Tổ trưởng, Tổ phó… đều là những người giỏi chuyên môn,
tâm huyết với nghề. Họ là những tấm gương sáng để những giáo viên
chưa có nhiều kinh nghiệm như tôi học tập. Họ luôn trân trọng những
sáng kiến dù là nhỏ của tất cả giáo viên trong và ngồi nhà trường. Với
những kinh nghiệm mà tơi tiếp thu được từ tập thể giáo viên nhà trường
trong suốt hơn 10 năm công tác cộng thêm một chút công sức của mình,
tơi đã viết lên SKKN này. Tơi tin rằng, sáng kiến của mình sẽ góp một
phần nhỏ vào cơng việc thường ngày của mỗi giáo viên trong đó có mảng
bồi dưỡng hs giỏi.



Một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đã được
đưa ra áp dụng ở một số trường trong đó có trường Tiểu học Yên Phú I là
phân lớp theo trình độ hs để tạo điều kiện cho giáo viên dạy học phù hợp
khả năng tiếp thu của từng đối tượng hs. Thế nhưng do tâm lý e ngại khi
dạy đối tượng hs yếu, hs cá biệt nên cuối cùng thì mỗi khối chỉ có một lớp
chọn. Hiện nay, chất lượng giáo dục không ngừng được nâng lên. Do đó,
vẫn cịn một số hs giỏi được phân vào học chung với hs đại trà. Bởi thế,
việc bồi dưỡng hs giỏi trong các lớp học đại trà là một vấn đề cần được
quan tâm nghiên cứu.
Đúng như tên của SKKN, việc bồi dưỡng hs giỏi được lồng ghép
trong các lớp học đại trà nên tơi khơng thể có nhiều thời gian giảng giải cụ
thể về một bài, một dạng bài nào đó riêng cho đối tượng hs giỏi được mà
tôi chỉ đưa ra một số biện pháp chung nhất trong việc tổ chức, quản lí lớp
học làm sao tạo mơi trường thuận lợi nhất có thể để các hs giỏi phát huy
hết khả năng của mình. Cịn về phần phương pháp dạy học một bài một
dạng bài hay một phân mơn cụ thể thì các sách phương pháp, các SKKN
của các thế hệ giáo viên đi trước đã đề cập đến rất nhiều và đã đưa ra
những giải pháp khá toàn diện và đầy đủ. Là người đi sau, tơi thấy mình
cịn cần phải học hỏi nhiều từ kho tri thức quý giá này. Sau khi học hỏi
thêm nhiều kinh nghiệm, tơi sẽ hồn thiện SKKN này. Tơi tin rằng với
nguồn tri thức phong phú ấy cộng với các biện pháp mà SKKN của tôi,
của giới giáo ở khắp nơi đã đang và sẽ đề cập sẽ góp phần vào việc bồi
dưỡng hs giỏi - những tài năng trong tương lai của xã hội.
Với những kết quả bước đầu thu được, tơi thấy SKKN này cịn giúp
tơi có thêm tự tin trong việc bồi dưỡng hs giỏi ở các lớp học đại trà. Đây
cũng là một chủ chương lớn của ngành: Nâng cao chất lượng giáo dục đại
trà song song với nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn, giáo dục đỉnh
cao….
Môn khoa học triết học biện chứng đã chỉ ra rằng : Vật chất luôn vận
động và biến đổi không ngừng. Đối tượng của giáo dục trong đó có hs giỏi

cũng là một dạng vật chất nên cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Và tất
yếu rằng SKKN áp dụng cho đối tượng này cũng phải luôn được cải tiến
để phù hợp với sự vận động không ngừng của đối tượng đặc biệt này. Với


SKKN này, tôi mới chỉ áp dụng trong khoảng thời gian hơn 5 tháng và
cho một đối tượng duy nhất là một lớp ở khối 3. Bởi thế mà SKKN này rất
cần được bổ sung, hoàn thiện trong những năm học tới. Đây là việc mà tôi
sẽ làm và tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phản hồi của bạn bè
đồng nghiệp.
Tơi chưa có thật nhiều thơng tin nhưng với yêu cầu nên có của một
SKKN là phải tìm ra được vấn đề mới. Tơi hi vọng với vấn đề mà tôi chọn
để nghiên cứu trong SKKN: “Bồi dưỡng học sinh giỏi trong các lớp học
đại trà ở Tiểu học”, đúng là vấn đề mới trong thời điểm hiện tại song sẽ là
vấn đề quen thuộc được nhiều người quan tâm, nghiên cứu trong tương lai
bởi tính thiết thực của nó.
Cũng từ q trình áp dụng SKKN này, tôi rút ra những bài học sau
đây:
- Công tác bồi dưỡng hs giỏi tưởng chừng như chỉ đơn thuần là cơng
tác chun mơn, giáo viên chỉ cần một trình độ chuyên môn vững vàng để
trang bị thật nhiều kiến thức chuyên sâu cho hs. Song sự thực thì hs đâu
phải là một cái máy. Hơn tất cả các loại máy móc dù hiện đại nhất thì các
em chính là những “con người” với những tâm tư, tình cảm vơ cùng tinh
tế. Mặt khác như đã trình bày, hs Tiểu học hành động chủ yếu theo cảm
xúc nhất là hs ở các lớp dưới như đối tượng hs lớp 3 mà tôi đang nghiên
cứu. Do vậy, giáo viên không chỉ cần trau dồi kiến thức chun mơn mà
cịn cần trau dồi kiến thức về tâm lý học đặc biệt là tâm lý hs Tiểu học.
- Giáo viên cũng cần linh hoạt trong khi áp dụng các biện pháp tác
động đến đối tượng nghiên cứu (hs nói chung, hs giỏi nói riêng). Từ đó
phải tìm cách thay đổi kịp thời để phù hợp với sự vận động không ngừng

của đối tượng.
- Giáo viên cần tìm kiếm nhiều thơng tin liên quan đến hoạt động
nhóm nhằm nắm bắt những ưu khuyết điểm hoạt động này, để từ đó áp
dụng có hiệu quả phương pháp làm việc nhóm trong q trình giảng dạy
nói chung và trong cơng tác bồi dưỡng hs giỏi nói riêng.
2. NHỮNG ĐỀ XUẤT


Với trách nhiệm là những cấp cơ sở của ngành giáo dục, Trường
Tiểu học Yên Phú I, Phòng Giáo dục Yên Mỹ, Sở Giáo dục và đào tạo
Hưng Yên đã ln đi sâu, đi sát nắm bắt tình hình thực tế, đưa ra những
quyết sách đúng đắn để nâng cao chất lượng hs nói chung và chất lượng
hs giỏi của địa phương nói riêng. Nên những ý kiến mà tơi muốn đề xuất
trong phạm vi SKKN của mình thì đều đã được các cấp đó chỉ đạo thực
hiện thường xuyên trong các năm học.
Nên tơi chỉ có một đề xuất mong muốn được các cấp lãnh đạo trong
tỉnh cùng với lãnh đạo các địa phương khác tham vấn cho Bộ Giáo dục về
việc điều chỉnh công tác biên soạn sách tham khảo dành cho hs Giỏi cấp
Tiểu học.
Hiện nay có rất nhiều đầu sách tham khảo trong đó có cả những
cuốn sách chưa thực sự bổ ích. Cha mẹ hs sẽ rất khó khăn trong việc chọn
mua sách tham khảo tốt cho con. Giáo viên nếu như không phải là giáo
viên có kinh nghiệm bồi dưỡng hs Giỏi và lại khơng có thời gian để đọc
và nghiên cứu kĩ lưỡng thì cũng chưa chắc đã chọn đúng được quyển sách
tham khảo mà mình ưng ý.
Bởi thế, tơi xin đề nghị Bộ Giáo dục hãy tổ chức biên soạn một bộ
sách tham khảo chuẩn dùng chung cho cả nước.
Yên Phú ngày 25 tháng 2 năm 2013
Người viết:


Trần Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
NỘI DUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng áp dụng
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. phương pháp nghiên cứu
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

TRANG
1
2
2
2
2
2


1. Cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề
2
2. Các biện pháp đã tiến hành
4
2.1. Phân loại học sinh
4
2.2. Áp dụng phương pháp dạy lồng ghép
5
2.3. Áp dụng phương pháp hoạt động nhóm
5
2.4. Áp dụng phương pháp tâm lý kết hợp với phương

pháp thi đua khen thưởng
9
3. Kết quả của SKKN
11
III. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
13
1. Kết luận
13
2. những đề xuất
16

Tài liệu tham khảo:
1. Các tài liệu về tâm lý học
2. Sách giáo khoa Toán 3, Tiếng việt 3
3. Mẫu SKKN

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN PHÚ I
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×