Mở đầu
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ “TỰ DO BÁO CHÍ”
1.1. Khái niệm “tự do”, “tự do báo chí”
1.1.1. Khái niệm “tự do”
Khái niệm “tự do” trong tiếng Nga cũng như trong nhiều ngơn ngữ
khác có rất nhiều nghĩa. Chẳng hạn, trong cuộc sống thường ngày, nó có thể
được sử dụng theo nghĩa phóng khống, khơng có trở ngại, khơng có sự
chèn ép, khơng lệ thuộc, khơng phải chịu trách nhiệm… Trong đời sống xã
hội, đó là khơng bị giam giữ, không bị lệ thuộc kiểu nô lệ, không có bất kể
áp lực nào. Trong khoa học, đó là khả năng bày tỏ quan điểm cá nhân, nắm
vững tri thức và các kỹ năng cho phép giải quyết được các nhiệm vụ… Tổng
hợp tất cả các ý nghĩa đó, có thể nói rằng bộ phận cấu thành chính của tự do
là khơng bị chèn ép – là khơng có sự giới hạn bởi bên trong và bên ngoài,
về thể lực và tâm lý, về tri thức và ngôn ngữ, và những cái khác, có nghĩa là
khơng có bất kỳ cản trở nào đối với hoạt động sống của cá nhân, tập đồn và
xã hội nói chung.
Tự do là nhu cầu và khát vọng cho mọi sự sống trên đời. Con người mối tổng hoà của các quan hệ xã hội lại càng cần tự do. Nó cần thiết như cơm
ăn, nước uống và khơng khí để thở. Tuy nhiên, hiểu tự do như thế nào, trong
mối quan hệ gì là điều cần làm rõ.
Các nhà tư tưởng tư sản cho rằng tự do là hành động như người ta
muốn. Đây là luận điểm cơ bản của họ về tự do. Họ cho bất kỳ một hành động
nào phù hợp với quyền lợi của họ là tự do, còn tất cả những gì khơng có lợi
cho họ thì bị coi là vi phạm tự do và vi phạm nhân quyền. Cách giải thích “tự
do” chủ quan, ích kỷ như vậy và việc dùng cách giải thích này để bào chữa
cho những hành động độc đoán đã gây nên sự phản đối rộng rãi của của dư
luận xã hội. Nếu chấp nhận học thuyết tự do là hành động như người ta muốn
thì cũng phải chấp nhận mọi hậu quả do hành động đó gây ra. Theo khái niệm
1
tự do trên thì việc một nước dùng quân đội để thiết lập trật tự ở một nước
khác có chủ quyền cũng được coi là tự do, tội phạm hình sự cũng được coi là
tự do. Như vậy, các nhà lý luận tư sản buộc phải bảo vệ cho xã hội khơng bị
chủ nghĩa cá nhân hồnh hành một cách quá trớn bằng cách đưa ra những hạn
chế, những điều kiện đặc biệt nhằm che đậy quan niệm, ý đồ của họ.
Theo quan điểm Mác - Ăngghen, tự do hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực
nào, trong đó có báo chí, chỉ có thể đạt được khi con người đặt ra mục đích
nhất định và đấu tranh để đạt mục đích đó. Đấu tranh để có tự do là mục đích
và khát vọng mn đời của con người. Để có tự do đích thực, phải có hàng
loạt điều kiện đi kèm:
Thứ nhất là mức độ nhận thức, hiểu biết của con người về các quy luật
của tự nhiên, xã hội và khả năng vận dụng các quy luật đó vào trong hoạt
động hàng ngày.
Thứ hai là năng lực tìm kiếm giải pháp và con đường tốt nhất để đạt mục
đích đề ra trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo kiến thức và kinh nghiệm đã
tích luỹ được. Người tự do nhất là người trong khn khổ của tính tất yếu tạo
ra được những giá trị tinh thần và vật chất cho mình và cho nhân loại.
Thứ ba là mức độ tự do còn phụ thuộc vào địa vị trong xã hội, tính chất
và mục đích của con người tự đặt ra cho mình. Các giai cấp, đảng phái, tầng
lớp xã hội, báo chí… được coi là tự do và tiến bộ khi hoạt động của chúng
phù hợp với quy luật của lịch sử, với tư tưởng tiến bộ xã hội và phục vụ cho
sự tiến bộ xã hội đó. Báo chí của giai cấp cơng nhân là báo chí tự do, nó thể
hiện đầy đủ các quy luật và tư tưởng tiến bộ trên. Báo chí của giai cấp tư sản
khơng phải báo chí tự do bởi vì quyền lợi giai cấp buộc báo chí phải đi ngược
lại các quy luật của lịch sử hoặc ít ra cũng tìm mọi cách để bảo vệ thể chế đó.
Thứ tư là khía cạnh pháp lý và kinh tế của tự do. Thực tế xã hội, giai
cấp, nhà nước nào cũng quy định mức độ tự do và quyền hạn chính trị - xã
hội, văn hố - lịch sử trong khn khổ pháp luật, hiến pháp và các quy định
khác. Trong hiến pháp, luật pháp mỗi nhà nước đều quy định khuôn khổ
2
pháp lý cho hoạt động báo chí. Còn thực hiện quyền đó đến mức độ nào còn
phụ thuộc và khả năng kinh tế, tài chính, vật chất, kỹ thuật mà nền báo chí
đó có được.
Tóm lại, tự do là quyền lợi chính đáng của mỗi con người. Tuy nhiên,
khơng thể có tự do tuyệt đối, tự do vơ tổ chức, vô kỷ luật, tự do vô hạn độ. Tự
do phải được hiểu trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với quy luật phát triển
của tự nhiên và xã hội. Tự do là nhận thức được tính tất yếu và gắn với trách
nhiệm của con người trước xã hội.
1.1.2. Khái niệm “Tự do báo chí”
Tự do báo chí, tự do ngơn luận là một trong những vấn đề được trình
bày sớm nhất và nổi bật nhất trong hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về báo
chí. Người cho rằng tự do báo chí là quyền lợi tinh thần to lớn của một dân
tộc, một đất nước. Bởi vì báo chí là hoạt động tinh thần quan trọng của một xã
hội. Đó chính là diễn đàn để nhân dân thể hiện ý chí và nguyện vọng của
mình, là thước đo tinh thần dân chủ có được của một xã hội, là gương mặt rõ
nét về một trình độ văn hóa và khoa học. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc
lập, Hồ Chí Minh đòi cho dân tộc Việt Nam, và tất cả những dân tộc bị áp bức
nói chung quyền lợi tinh thần to lớn là quyền tự do báo chí. Điều thứ ba trong
tám điều Yêu sách của nhân dân An Nam mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt nhân
dân Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây đòi: Tự do báo chí và ngơn luận. Hồ
Chí Minh ln cho rằng, trong những quyền tự do dân chủ của mỗi người
dân, tự do báo chí, tự do ngơn luận là một trong những quyền lợi tinh thần mà
mỗi người dân, mỗi người làm báo phải được hưởng.
Tự do báo chí là mục tiêu phấn đấu của con người nhằm giành cho
mình quyền được thơng tin, trao đổi, giao tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng
của con người một cách công khai qua các phương tiện truyền thông đại
chúng, không hề bị một sự lệ thuộc, một sự hạn chế nào.
Tự do báo chí là một khái niệm mang tính lịch sử, được thực hiện và lý
giải trong những hoàn cảnh cụ thể, gắn liền với những điều kiện xã hội lịch sử
3
của mỗi quốc gia, dân tộc, trong đó trước hết là gắn liền với luật pháp mỗi
quốc gia. Theo quan niệm của PGS,TS. Phạm Thành Hưng, tự do là khái
niệm có tính tương đối, những nhà báo chân chính thường ý thức được sự tự
do tuyệt đối của mình khi họ tự nguyện đấu tranh cho chân lý, vì tự do, hạnh
phúc của nhân dân.
Về bản chất của tự do báo chí, Mác viết: “Báo chí nói chung là sự thực
hiện tự do của con người. Do đó ở đâu có báo chí ở đó có tự do báo chí. Bản
chất của báo chí tự do – đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo đức của
tự do.” Ơng nêu cái đối lập của báo chí tự do (tức là báo chí bị kiểm duyệt)
“là cái quái dị khơng có tính cách”, “là con qi vật được văn minh hóa, cái
qi thai được tắm nước hoa”.
Ơng khơng phủ nhận sự kiểm duyệt. Nhưng cho rằng “kiểm duyệt chân
chính bắt rễ từ chính bản chất của tự do báo chí, là sự phê bình. Phê bình là
một sự xét xử mà tự do báo chí sản sinh ra từ bản thân mình”. Còn “kiểm
duyệt là sự phê bình với tư cách là độc quyền của chính phủ”. Ơng nói một
cách gay gắt: “Khi sự phê bình tác động khơng phải bằng lưỡi dao sắc bén
của lý tính mà bằng cái kéo cùn của sự tùy tiện, khi sự phê bình coi việc dùng
sức mạnh thơ bạo là luận cứ mạnh mẽ - khi đó lẽ nào sự phê bình lại khơng
mấy tính chất hợp lý của mình.”
Để hiểu “tự do” và “tất yếu” một cách khoa học, chúng ta phải dựa vào
sự thừa nhận mối quan hệ qua lại một cách hữu cơ giữa chúng với nhau. Một
trong những người đầu tiên xác định mối liên hệ giữa khái niệm “tự do” và
“tất yếu” là Spinoza, nhà toán học, triết học, thần học Hà Lan. Ông cho rằng:
“Tự do là sự nhận thức được tính tất yếu”. Nhà triết học Hêghen người
Đức đưa ra quan niệm về thống nhất biện chứng giữa tự do và tất yếu nhưng
lại theo quan niệm duy tâm.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh yêu cầu phải hiểu
biết đầy đủ phạm trù “tự do - tất yếu” trong mối quan hệ của con người với
quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, và còn phải bổ sung thêm phần
4
“trách nhiệm” của con người trong mối quan hệ đó. Theo Ph.Ăngghen, tự do
có thể là cái tất yếu, song cũng có thể là cái có thể. Tự do là cái tất yếu, hợp
qui luật, là tự do theo đúng nghĩa của nó khi và chỉ khi người ta nhận thức
được cái tất yếu (qui luật) và hành động theo cái tất yếu đó. Còn nếu thiếu
một trong hai điều kiện đó thì tự do chỉ là cái có thể, là cái khả năng và người
ta chỉ được hưởng tự do trong tiềm năng mà thơi. Chính từ đây, Ph.Ăngghen
đã triệt để phê phán quan điểm có tính chất duy tâm, tư biện của Đuyrinh về
tự do và tất yếu khi Đuyrinh cho rằng tự do là cái trung bình giữa phán đoán
và bản năng, giữa cái hợp lý và cái phi lý. Trên cơ sở sự phê phán này,
Ph.Ăngghen đã trình bày rõ ràng tự do là tất yếu đã được nhận thức. Tự do có
nghĩa là đã nhận được và hành động tuân theo các qui luật của hiện thực
khách quan. Ở đây Ph.Ăngghen đã dùng phương pháp luận của cái tất yếu và
cái có thể để trực tiếp phê phán Đuyrinh và gián tiếp phê phán tất cả những
người nào chỉ muốn coi tự do là cái có thể, nghĩa là đã là tự do thì có thể làm
được tất cả, hành động hoàn toàn tuỳ ý muốn chủ quan. Như vậy, con người
càng nhận thức được tính tất yếu thì càng có tự do, và khi có tự do phải gắn
liền với trách nhiệm. Đó là mối quan hệ thống nhất và biện chứng với nhau.
Không có cái được gọi là tự do tuyệt đối. Điều 29, Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với
cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những
hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và
tơn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những địi
hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã
hội dân chủ” . Như vậy, quyền tự do của người này không được làm tổn hại
đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của dân tộc; báo chí chỉ có được
tự do khi chấp hành đúng và đầy đủ pháp luật, hoạt động vì độc lập dân tộc,
tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Tự do báo chí là tự do được trình bày, phát biểu, bày tỏ ý kiến, quan
điểm, chính kiến của mình đúng pháp luật. Mác cho rằng báo chí tự do phải
5
có luật báo chí bảo đảm. "Luật báo chí là luật thật sự bởi vì nó biểu hiện sự
tồn tại khẳng định của tự do. Nó coi tự do là tình trạng bình thường của báo
chí, coi báo chí tồn tại của tự do. Vì thế, luật này chỉ xung đột với những tội
lỗi của báo chí với tư cách là một ngoại lệ đang chống lại tiêu chuẩn của
chính mình?”
Chỉ ra ngun tắc tính Đảng của báo chí, Lênin cũng kịch liệt phản đối
các quan điểm tự do ngôn luận tư sản. Người chỉ rõ: Mỗi cá nhân có quyền tự
do viết và nói tất cả những gì họ muốn, khơng có một chút hạn chế nào.
Nhưng mỗi đồn thể tự do (trong số đó kể cả Đảng) cũng được tự do đuổi
những phần tử lợi dụng chiêu bài Đảng để tuyên truyền chống Đảng... Đảng
là một khối tự nguyện, nếu như nó khơng tẩy sạch khỏi bản thân nó những
đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng, thì nó khơng thể tránh khỏi
tan rã. Trong điều kiện có chính quyền, nếu tự do báo chí khơng xuất phát từ
tính Đảng cộng sản thì chỉ đưa đến các hệ quả là “tăng cường lực lượng của
giai cấp tư sản thế giới”, không những không giúp loại trừ khỏi Đảng các
nhược điểm, các sai lầm, các tai hoạ, các bệnh tật; trái lại “trở thành một vũ
khí trong tay giai cấp tư sản”.
Về cái gọi là “tự do tuyệt đối” mà giai cấp tư sản thường rêu rao lừa
bịp dư luận, Lênin đã chỉ rõ bản chất: “Thưa các ngài cá nhân chủ nghĩa tư
sản,chúng tơi phải nói cho các ngài biết rằng, những lời nói của các ngài về
tự do tuyệt đối chẳng qua chỉ là một thứ giả dối mà thôi. Trong xã hội xây
dựng trên quyền lực của đồng tiền, trong xã hội mà quần chúng lao động
phải ăn xin và một nhúm ít người giàu có thì ăn bám, quyết khơng thể có "tự
do" thật sự và chân chính”. Với báo chí, Lênin cũng chỉ rõ: “Trong xã hội
tư sản, "tự do báo chí" tức là tự do cho bọn giàu có dùng mỗi ngày hàng
triệu bản báo chí để lừa bịp, làm đồi trụy và phỉnh phờ một cách có hệ
thống và khơng ngừng những quần chúng nhân dân bị bóc lột, bị áp bức,
những người nghèo khổ”.
6
1.2. Một số vấn đề về tự do báo chí ở các nước tư sản
Trong xã hội còn hiện tượng đấu tranh giai cấp, người bóc lột người,
chiến tranh, tranh giành quyền lợi giữa các quốc gia, các tập đoàn thì tự do
báo chí ở nước này hay nước khác, chế độ này hay chế độ khác có mức độ
khác nhau, thậm chí còn bị hạn chế hoặc bị vi phạm. Trong giai đoạn đấu
tranh chống lại sự kìm hãm của trật tự xã hội phong kiến, báo chí đã thực sự
góp phần vào sự phát triển xã hội, bảo vệ quyền dân chủ và bình đẳng. Nhưng
khi giai cấp tư sản đã nắm chính quyền thì lại trở lại kìm hãm sự phát triển
của báo chí. Một mặt chúng dùng mọi thủ đoạn để cắt xén, xuyên tạc, đàn áp
tiếng nói của báo chí chân chính, một mặt chúng dùng thuật ngữ tự do báo chí
để nguỵ trang che đậy cho nền báo chí tư sản, xem đó là ưu thế tuyệt đối của
báo chí tư sản. Lênin đã từng chỉ ra tính chất phức tạp của quan niệm gọi là tự
do báo chí. Tự do báo chí là những từ ngữ đẹp, phản ánh xu thế thuận lợi nhất
của hoạt động báo chí theo những lý tưởng xã hội tốt đẹp mà khơng bị ràng
buộc, kiềm chế. Đó cũng là nguyện vọng và khát khao của các nhà báo thuộc
nhiều thời đại khác nhau trong hoạt động của mình. Tự do báo chí khơng phải
là trạng thái vốn có của sinh hoạt báo chí ở mọi thời đại, mọi chế độ xã hội.
Thuật ngữ này cũng nhiều khi bị lạm dụng cho những mục đích chính
trị của xã hội tư sản.
* Thực trạng của báo chí tư sản là tình trạng phát triển không đồng đều
và không công bằng giữa các khuynh hướng báo chí khác nhau. Những tờ báo
lớn của giai cấp tư sản đã thu hút về mình quyền lực tập trung với số vốn đầu
tư lớn, những phương tiện máy móc hiện đại nhất, những liên kết chính trị
chặt chẽ của tư bản trong và ngồi nước. Lênin đã nói về thực chất của tự do
báo chí tư sản: “Tự do báo chí cũng là điều dối trá. Chừng nào những nhà in
tốt nhất và những kho giấy to nhất còn nằm trong tay bọn tư bản thì chừng ấy
cịn tồn tại quyền lực của giai cấp tư sản đối với báo chí trên thế giới. Bọn tư
bản gọi tự do báo chí là quyền tự do mua chuộc báo chí của bọn nhà giàu, tự
do dùng tiền tài của chúng để tạo ra và giả mạo cái gọi là dư luận”
7
Để đánh lạc hướng quần chúng, báo chí tư sản đã lợi dụng và sử dụng
nhiều thủ đoạn tinh vi để che đậy sự thật, bóp méo hoặc làm nhiễu thông tin,
nhất là những vấn đề động chạm tới quyền lợi của giai cấp tư sản. Tự do báo
chí ở đây là “tự do của phú ông làm nhân dân say mềm bởi một thứ rượu vốt
- ka hổ lốn của sự giả dối của báo chí tư sản”. Với thứ báo chí chỉ tun
truyền những tư tưởng có lợi cho giai cấp tư sản để bảo vệ quyền thống trị của
mình, giai cấp tư sản buộc phải chống lại những ai đưa ra những thông tin
chân thực, khách quan nhưng bất lợi cho họ. Quan điểm độc đoán đối với báo
chí - quan điểm của mọi thế lực phản động đã trở nên phù hợp với quyền lợi
của giai cấp tư sản. Dần dần do sự lớn mạnh của cuộc đấu tranh trong lòng xã
hội tư sản, sự phát triển của mâu thuẫn đối kháng nội tại đã buộc nhà nước tư
sản phải kiểm soát hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng bằng
pháp lý tưởng với cả chế độ kiểm duyệt khắt khe, các lệnh cấm đốn, đình
bản báo chí. Nhiều nhà báo bị tù tội, lưu đày vì đã dám công khai biểu dương
những tư tưởng tiến bộ, nói lên bộ mặt thật xấu xa của chế độ thực dân. GS.
Hà Minh Đức khẳng định: “... khơng thể có báo chí tự do trong một đất nước
mất tự do, khơng thể có báo chí tự do trong một xã hội đối kháng giai cấp và
những bất cơng chi phối đến tồn bộ hoạt động tinh thần. Đối với người cầm
bút thì điều thiêng liêng nhất là được nói lên những lý tưởng cao đẹp về tự
do, bình đẳng, nhân ái, ngịi bút được phê phán những xấu xa của xã hội cũ,
góp phần xây dựng cuộc đời mới, con người mới. Giai cấp tư sản đã tạo nên
một bộ mặt báo chí hơn hẳn những giai đoạn lịch sử trước kia với khơng khí
ganh đua sôi nổi, với nhiều cách tuyên truyền quảng cáo, nhiều loại hình báo
chí, nhiều hình thức thơng tin, nhưng khơng có được nhiều tờ báo có tiếng nói
chính nghĩa, trung thực, bênh vực quyền lợi của những con người đau khổ và
rộng ra là quyền bình đẳng, bác ái của con người.”
* Những hạn chế về quyền tự do báo chí được ghi ngay trong những
đạo luật đầu tiên của nhà nước tư bản. Luật về tội phỉ báng xem xét các loại
hành động theo 2 loại tính chất: Dân sự và hình sự. Những bài báo làm tổn hại
8
thanh danh và nghề nghiệp cá nhân thuộc loại thứ nhất; tổn hại đến các chính
sách và các cơ quan nhà nước, đến luật pháp và tôn giáo, đạo đức bị coi là
thuộc loại thứ hai. Đạo luật này ở Anh đóng thành tập dày tới 960 trang, gồm
67 điều và dẫn ra 3980 trường hợp áp dụng cụ thể.
Đạo luật về tội khơng tơn trọng tồ án càng hạn chế việc cơng bố tài
liệu. Báo chí bị cấm bình luận về cơng việc của tồ án khi chưa kết thúc bản
án, cũng như về việc chống án khi chưa có trả lời của tồ án cấp trên. Những
tài liệu công bố trước khi khởi tố vụ án mà ảnh hưởng tới tồ án và cản trở
cơng việc của tồ án cũng bị trừng phạt. Theo đạo luật này ở Anh, Mỹ, Đức,
báo chí phải thơng báo nguồn cung cấp thơng tin cho tồ biết. Ở Anh, Mỹ còn
cấm đăng ảnh hay phát thanh, truyền hình trực tiếp từ phòng xử án.
Đặc biệt, báo chí phải chấp hành những đạo luật liên quan đến bí mật
quốc gia. Năm 1917, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật về tội do thám và năm
sau là đạo luật về tội bạo động. Theo các luật này, người bị coi là tội phạm
nếu có ý thức viết và truyền đi “các phóng sự và ý kiến không đúng, cản trở
hoạt động và thành công của các lực lượng vũ trang hoặc hỗ trợ cho đối
phương”. Theo đạo luật về an ninh đối nội được thông qua năm 1950, thượng
viện Mỹ đã thành lập Ủy ban McCarthy - một cơ quan điều tra các hoạt động
bị coi là chống Mỹ, trong đó có thơng tin trên báo chí. Năm 1953, Bộ luật
hình sự của Mỹ được bổ sung thêm điều cho phép xét xử việc đăng các tài
liệu mà chính phủ coi là bí mật.
Ở Anh đã ban hành các đạo luật về bảo vệ bí mật quốc gia và các năm
1889, 1911, 1920, 1939. Theo luật năm 1911, bức ảnh hoặc bài viết nào về đề
tài quân sự có thể bị đối phương sử dụng đều bị coi là phạm tội. Trên thực tế
đạo luật này còn được áp dụng vào cả các đề tài liên quan đến quan hệ quốc
tế, ngân hàng, hoạt động của chính phủ.
Cùng với hạn chế quyền cơng bố thông tin, các đạo luật về bảo vệ an
ninh cũng hạn chế quyền nhận thông tin. Ở Anh, đạo luật này hạn chế cả
quyền thu nhận và phổ biến thông tin về những vấn đề không liên quan đến an
9
ninh quan sự. Các đạo luật của Anh về thị trường nông nghiệp (năm 1931), về
ngân hàng (năm 1946), về thống kê thương mại (năm 1949) cấm viên chức
thông báo những tin tức nhất định cho báo chí.
Ở nhiều nước, cơ quan bưu điện được phép quyết định không phổ biến
những báo chí nào bị liệt vào loại “có tính bạo động, kích động”. Năm 1918,
Quốc hội Mỹ đã thơng qua đạo luật cấm phổ biến bất kỳ loại ấn phẩm nào phê
phán hình thức lãnh đạo của nước Mỹ. Ở Anh, Bộ trưởng Bộ Bưu điện “có
quyền cấm phát hành bất kỳ tài liệu nào và bất kỳ lúc nào cũng có thể thu hồi
giấy phép hoạt động của BBC hay IBA”. Năm 1958, Chính phủ Pháp ra sắc
lệnh về việc các cơ quan bưu điện không được quyền gửi đi những số báo
khơng có lợi cho chính phủ.
Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787 không bao gồm điều khoản về
tự do báo chí. Năm 1791, Quốc hội Mỹ ban hành “Đạo luật về quyền con
người” (Bill of Rights) bao gồm 10 điều khoản bổ sung, sửa đổi của Hiến
pháp 1787 (còn gọi là 10 Tu chính án). Trong 10 điều khoản bổ sung đó, Tu
chính án thứ nhất quy định quyền tự do báo chí của người dân Mỹ như sau:
“Quốc hội sẽ không ban hành một luật nào giới hạn quyền tự do ngôn luận
hay quyền tự do báo chí của cơng dân…”. Mỹ là quốc gia khơng có luật báo
chí, những gì liên quan đến báo chí chỉ vẻn vẹn được ghi một câu trong Tu
chính án lần thứ nhất (Điều bổ sung, sửa đổi) như vậy. Cho nên, khơng ít
người cứ viện dẫn vào điều bổ sung này mà nói rằng, tự do báo chí ở Mỹ là
khơng giới hạn. Thế nhưng lịch sử và hiện tại của nước Mỹ đã chứng minh
rằng, nội dung điều bổ sung Hiến pháp Mỹ về tự do báo chí được hiểu rất
khác nhau và ngày càng xa thực tế đời sống báo chí.
Có hai lỗ đen lớn trong thế giới thông tin Mỹ: những đề tài đụng chạm
tới quân đội theo nghĩa rộng; tới các thế lực kinh tế lớn. Do đó, những bài
điều tra về mối quan hệ mật thiết giữa CIA và những tên trùm buôn lậu ma
tuý Nam Mỹ, về những tù binh Mỹ bị bỏ rơi ở Việt Nam, những vụ lính Mỹ
tàn sát dân lành trong cuộc chiến Triều Tiên đều bị “chiếu tướng”. Năm 1998,
10
April Oliver (nữ nhà báo trẻ làm cho CNN) bắt đầu điều tra “chiến dịch
Tailwind” của Mỹ ở Việt Nam và đưa ra bài báo gây chấn động dư luận.
Tailwind là mật mã dùng để chỉ việc quân đội Mỹ sử dụng khí độc sarin để
trừ khử lính đào ngũ Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam. Kết quả, bài viết của cô
bị Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ William Cohen phủ nhận, cơ bị sa thải. Mặc
dù vậy, tiếng nói của sự thật cũng đã đến được với công chúng.
Năm 2003, nhiều tờ báo, đài phát thanh, truyền hình ở Hoa Kỳ phát
băng hình, phóng sự, phỏng vấn việc lính đặc nhiệm Mỹ giải cứu thành công
binh nhì Jessica Lynch tại một bệnh viện dã chiến ở Baghdad. Họ vẽ lên hình
ảnh những lính Mỹ quả cảm và đáng yêu đến Iraq để xóa bỏ chế độ độc tài,
đem tự do đến cho người dân Iraq. Nhưng khi về nước, "người hùng" Jessica
Lynch đã kể lại câu chuyện của mình. Và hàng chục triệu người Mỹ đã bị
"sốc” khi biết câu chuyện của chị lại khơng giống như báo chí Mỹ đã đưa tin.
Còn Peter Arnett, người mới vừa cho ra mắt độc giả Việt Nam cuốn Từ chiến
trường khốc liệt (NXB Thơng tấn), là phóng viên “ruột" của truyền hình
CNN, bỗng dưng bị sa thải vì đưa thông tin không phù hợp với quan điểm
của Nhàtrắng và Lầu năm góc. R.Mc Arthur - Tổng Biên tập Tạp chí Harper
phải chua chát nhận xét: “Các hãng tin Mỹ như FOX, CNN, ABC, CBS, NBC
ít khi đưa được tin chính xác về diễn biến thực tế các trận đánh, vì hầu hết các
bài và hình ảnh đều được biên soạn tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở Qatar và
Kuwait. Các phóng viên hầu hết đều ở phía sau chiến tuyến viết bài, đưa tin
dựa vào các tin và tài liệu do quân đội Mỹ cung cấp". Chính trong những
ngày đó xe tăng Mỹ đã nã đạn vào một khách sạn ở Thủ đơ Baghdad, nơi có
hơn 100 nhà báo đang trú ngụ, làm 11 người chết, hàng chục người khác bị
thương.
Gần đây, lợi dụng khó khăn kinh tế - xã hội của một số nước ở Trung
Đông, Bắc Phi, không ai khác, những người thường rêu rao, vu cáo nước này,
nước kia “vi phạm tự do báo chí”, “ngăn chặn, kiểm duyệt Internet”… đã sử
dụng hết công suất hệ thống báo chí hùng hậu của họ cùng các mạng xã hội
11
như Facebook, các mạng Twitter, các mạng Wikileaks, You Tube… để “vẽ lối,
bày đường” cho công chúng, nhất là bộ phận quá khích, gây bạo loạn, lật đổ
chính quyền.
Đáng chú ý, trong những biến động chính trị, xã hội to lớn vừa diễn ra,
nền báo chí tư sản khơng hề đứng ngoài cuộc. CNN, CBS, VOA, BBC, AP,
Reuter, RFI… liên tục cập nhật tình hình Tuynidi, Ai Cập, Libya… với cách
thơng tin, bình luận rất có dụng ý. Các đài truyền hình như Al Jazira và Al
Arapiya liên tục đưa tin, bài khích lệ tinh thần đấu tranh của người dân Ả rập. Hình ảnh người biểu tình bị đàn áp, bị bắn chết, đặc biệt là hình ảnh các
vụ tự thiêu đã thổi bùng lên những đám lửa đấu tranh không thể dập tắt. Ở
Đông Lybia, Đài truyền hình AlJamahiriya và Đài phát thanh Al Shababia
thân chính phủ bị chiếm giữ và phá hoại. Thông tin về cuộc chiến trên mạng
cũng đã được báo chí, truyền thơng cập nhật nóng hổi giống như thơng tin
trên chính trường khốc liệt.
Đài RFA ngày 2/2/2011, Đài BBC ngày 12/2/2011 đưa tin về việc
Chính phủ Trung quốc hạn chế, cấm đốn tin, bài, hình ảnh về Tuy-ni-di, Ai
Cập và các nước MENA; liên hệ với sự biến Thiên An Môn năm 1989 với lời
lẽ kích động. RFA ngày 2/2/2011 viết: “Dù cấm cửa thế nào chăng nữa thì
Trung Quốc sẽ không bao giờ đủ khả năng bịt miệng Facebook và Twitter
cũng như các trang mạng xã hội khác. Trí thức Trung Quốc một lúc nào đó sẽ
tập hợp lại với nhau qua đường kết nối đầy sức mạnh này”.
Vậy là ở những nước vẫn thường tự rêu rao về thứ gọi là “tự do tuyệt
đối”, tự do báo chí còn đang bị vi phạm nghiêm trọng.
* Khác với nền tự do báo chí của giai cấp tư sản, nền tự do báo chí mà
giai cấp vô sản xây dựng, vun đắp trong đấu tranh gian khổ hàng trăm năm
qua là nền báo chí đề cao tính trung thực, tiến bộ, cách mạng, nhân văn, phục
vụ lợi ích của giai cấp vơ sản và đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động.
Những người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ln nhiệt thành đấu tranh cho tự do
12
báo chí, tự do ngơn luận, sự bình đẳng trên báo chí của nhân dân.
Là người sáng lập báo chí cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin về báo chí, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò to
lớn của báo chí. Người coi báo chí là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng,
Đảng phải sử dụng nó như thứ vũ khí sắc bén giành độc lập dân tộc và xây
dựng cuộc sống mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Báo chí của ta
cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ
chođất tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hồ bình thế giới”
Trong điều kiện xã hội có giai cấp, bất luận ở thời đại nào, báo chí cũng
đều có tính Đảng. Tính Đảng của báo chí cách mạng được thể hiện ở chỗ, nó
phải đi tiên phong trong việc thực hiện mục tiêu, lý tưởng và nhiệm vụ của
Đảng trong từng thời kỳ cụ thể, nói tiếng nói trung thành của Đảng và của
quần chúng đi theo Đảng đối với sự nghiệp cách mạng. Báo chí cách mạng
khơng chỉ là cơng cụ tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng mà còn
phải bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng; đấu tranh không khoan
nhượng chống cái ác, cái xấu, bảo vệ, phát huy các thiện, cái tốt. Báo chí,
xuất bản phải đứng về phía người lao động, ủng hộ người lao động, định
hướng cho hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội.
Tiểu kết chương I
Như vậy, tự do báo chí là quyền của con người được thơng tin, trao đổi,
giao tiếp, bộc lộ chính kiến, quan điểm cơng khai về sự thật đời sống con
người trên các phương tiện thông tin đại chúng trên cơ sở đảm bảo lợi ích cho
dân tộc, nhân loại. Khơng có tự do tuyệt đối. Tự do báo chí được thực hiện
gắn với pháp luật và trách nhiệm xã hội của báo chí. Quan niệm về tự do báo
chí tuỳ thuộc vào thể chế chính trị hay giai cấp cầm quyền, mức độ tự do còn
phụ thuộc vào hệ thống luật pháp và điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ thể
của từng đất nước.
Trong xã hội còn hiện tượng đấu tranh giai cấp, người bóc lột người,
chiến tranh, tranh giành quyền lợi giữa các quốc gia, các tập đoàn, thì tự do
13
báo chí ở nước này hay nước khác, chế độ này hay chế độ khác có mức độ
khác nhau, thậm chí còn bị hạn chế hoặc bị vi phạm. Ở những nước tư sản
vẫn tự rêu rao rằng mình là nước đảm bảo nhất về tự do báo chí, vẫn tồn tại
nhiều hình thức khác nhau để ràng buộc, hạn chế, thậm chí là bóp nghẹt thơng
tin trên báo chí. Khơng thể có tự do thực sự và chân chính trong một xã hội
còn phân chia giai cấp, một xã hội xây dựng trên quyền lực của đồng tiền.
Khác với tự do báo chí của giai cấp tư sản, nền tự do báo chí mà giai
cấp vơ sản xây dựng là tự do vì sự tiến bộ của xã hội, đó là quyền tự do tiếp
nhận và truyền bá thơng tin theo hướng tiến bộ, tích cực và lành mạnh cho
mọi thành viên trong xã hội, là tự do cho một người, cho mọi người.
14
CHƯƠNG 2: BÁO CHÍ VIỆT NAM VÀ TỰ DO BÁO CHÍ Ở
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ đổi mới
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới (từ 1986 - 2011), Việt Nam
đã đạt được những thành tựu toàn diện to lớn và hết sức quan trọng. Nhờ đổi
mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng
trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân
dân không ngừng được cải thiện. Đổi mới đã làm thay đổi gần như tất cả mọi
mặt đời sống kinh tế đất nước.
Xét riêng về kinh tế, thứ nhất, đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó,
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân… đều
được khuyến khích phát triển không hạn chế. Thứ hai, đổi mới đã chuyển một
nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ
động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu. Thứ ba, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt
Nam, trong đó, xóa đói giảm nghèo và giải quyết cơng ăn việc làm là hai ưu
tiên trọng tâm. Thứ tư, cùng với đổi mới kinh tế đã từng bước đổi mới hệ
thống chính trị với trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc đến lĩnh vực thông tin, đưa thế
giới từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế
tri thức. Sự hội tụ giữa thông tin, viễn thông, tin học là một xu hướng quan
trọng trong xu thế phát triển thơng tin trên phạm vi tồn cầu. Đầu tư cho
thông tin từ chỗ được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội chuyển thành đầu tư
15
cho sự phát triển.
Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống báo chí, truyền thơng đại chúng Việt
Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về hình thức, chất lượng và số
lượng, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm
trọng. Những biến đổi mạnh mẽ cơ cấu giai cấp - xã hội ngày càng đa dạng,
phức tạp hơn: Sự đa dạng về lợi ích kinh tế, sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng, phân hoá giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư... Lực
lượng thù địch trong, ngồi nước ln coi báo chí, xuất bản là những trận địa
đột phá, tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật
đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta. Cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt, tinh vi
hơn, tạo ra những khó khăn và thách thức lớn đối với sự ổn định, phát triển
đất nước và đối với báo chí, xuất bản.
2.2. Chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động tự do ngơn luận, tự do báo chí tại Việt Nam
2.2.1. Chủ trương của Đảng về báo chí
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Báo chí là tiếng nói của Đảng, của
Nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Báo
chí là tiếng nói tự do của Nhà nước, của quần chúng cách mạng và nhà báo là
người chiến sĩ trên mặt trận văn hố tư tưởng. Đảng cổ vũ, khích lệ báo chí
phát triển theo định hướng trên. Nền báo chí xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền
tự do thực sự cho mọi công dân trong khuôn khổ hiến pháp, luật pháp, bình
đẳng và dân chủ vì sự nghiệp chung. Những ai vi phạm hiến pháp, luật báo
chí, luật xuất bản và các quy định khác, cũng như lợi dụng tự do báo chí và
16
báo chí để đi ngược với lợi ích của nhân dân đều bị xử lý nghiêm minh.
Thực tế đối với chủ nghĩa xã hội, tự do báo chí là một mục tiêu phấn
đấu để làm cho mọi thành viên trong xã hội có những điều kiện thoả mãn
ngày càng cao các nhu cầu viết báo, đọc báo, mua báo, tức là sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng một cách tự do nhất, được luật pháp và dư
luận xã hội bảo đảm. Trong các quyền con người, quyền tự do báo chí, ngơn
luận được Đảng và Nhà nước ta chú trọng.
Văn kiện các Đại hội của Đảng từ trước đến nay đều xác định vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, đồng thời quy
định trách nhiệm của cơ quan, cán bộ báo chí và quyền tham gia hoạt động
báo chí của cơng dân.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, quyết định, thông
báo, thông tri, kế hoạch nhằm chỉ đạo tăng cường công tác quản lý báo chí,
xuất bản, với các nguyên tắc: Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước với cơng tác báo chí, xuất bản; phát triển đi đơi với
quản lý tốt; nâng cao vai trò của cấp uỷ đảng, cơ quan tham mưu của Đảng,
các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chủ quản
trong việc lãnh đạo, chỉ đạo quản lý báo chí, xuất bản; xử lý nghiêm minh các
sai phạm; rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật về báo chí,
xuất bản, bảo đảm khơng có báo chí tư nhân, làm tốt cơng tác tư tưởng và giữ
vững trận địa tư tưởng trong bối cảnh tình hình bên ngồi và trong nước có
những diễn biến mới, phức tạp.
Nghị quyết và những văn bản chỉ đạo của Đảng đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về báo
chí, xuất bản. Có thể nêu một số văn bản quan trọng gần đây như: Chỉ thị số
52-CT/TW ngày 22-7-2005 của Ban Bí thư về phát triển và quản lý báo điện
tử ở nước ta hiện nay; Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của
Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí;
Thơng báo kết luận số 68-TB/TW ngày 30-3-2007 của Bộ Chính trị về tiếp
17
tục thực hiện Thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị về
một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí; Quyết định số 75QĐ/TW ngày 21-8-2007 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm,
miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; Quyết
định số 155-QĐ/TW ngày 23-4-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy
định về sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ
Thông tin và Truyền thông, Đảng đoàn Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan
Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí; Quyết định số 157QĐ/TW ngày 29-4-2008 của Ban Bí thư về việc ban hành Quy định về chỉ
đạo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với các vấn đề quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thơng tin của báo chí; Chỉ thị số 25CT/TW ngày 31-7-2008 của Ban Bí thư về tăng cường cơng tác xây dựng
Đảng trong các cơ quan báo chí; Quyết định số 202-QĐ/TW ngày 11-12-2008
của Ban Bí thư về việc ban hành Quy chế phối hợp và gắn kết công tác tư
tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận báo chí.
Đề cao trách nhiệm xã hội của báo chí, Đảng ta cũng khơng hạn chế sự
hoạt động của báo chí. Trong hoạt động của mình, thái độ có tính ngun tắc
của Đảng là đấu tranh không khoan nhượng với những hành vi, hiện tượng
tiêu cực, trái với đạo đức cộng sản như bảo thủ, trì trệ, tham nhũng, lãng phí,
lợi dụng chức quyền, ức hiếp dân chúng... “Cần đưa công khai trên báo, đài
hoặc qua các sinh hoạt của các tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng những
vụ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp mắc sai lầm nghiêm trọng về
phẩm chất"
2.2.2. Pháp luật của Nhà nước về báo chí
Vấn đề tự do ngơn luận trên báo chí khơng chỉ được khẳng định về tư
tưởng, quan điểm của Đảng mà còn được luật pháp của Nhà nước quy định và
bảo hộ. Các văn bản Luật Báo chí, các nghị định, chỉ thị, thơng tư hướng dẫn
thi hành Luật Báo chí đã cụ thể hóa các chính sách, chế độ, quyền tự do báo
18
chí và trách nhiệm xã hội của cơ quan báo chí và người làm báo. Đây là tiền
đề, là điều kiện cần thiết để đảm bảo quyền tự do ngôn luận trên báo chí trong
tồn xã hội.
Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời đã ghi nhận
quyền tự do ngôn luận của công dân ở Điều 10: “Cơng dân Việt Nam có
quyền tự do ngơn luận; tự do xuất bản”. Hiến pháp năm 1959 quy định một
cách cụ thể hơn về quyền tự do ngôn luận của công dân. Điều 25 xác định rõ:
“Công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hồ có các quyền tự do ngơn luận,
tự do báo chí... Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công
dân được hưởng các quyền đó”. Điều 67 của Hiến pháp 1980 còn quy định
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí của công dân và xác định giới hạn thực
hiện quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận của cơng dân, cụ thể là việc thực
hiện các quyền đó phải “phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của
nhân dân”. Điều 69 trong Hiến pháp năm 1992 quy định: "Cơng dân có
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có quyền được thơng tin...".
Luật Báo chí Việt Nam khẳng định báo chí khơng chỉ là cơ quan của
Đảng, Nhà nước, đồn thể chính trị và tổ chức xã hội, nghề nghiệp,... mà còn
là diễn đàn tin cậy của người dân. Nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình
qua các phương tiện báo chí. Hàng triệu bài, tin gửi cho các báo về nhiều chủ
đề liên quan đến các mặt thiết thực của đời sống nhân dân; thông qua chuyên
mục “Ý kiến bạn đọc”, nhiều ý kiến rất phong phú của các tầng lớp nhân dân
được phản ánh trên nhiều tờ báo, là sự thể hiện sinh động quyền tự do ngôn
luận của mỗi người dân.
Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề mà pháp luật
không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, kích
dục, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc. Đây là điều
cần thiết với tất cả các nước tiến bộ trên thế giới, mong muốn xây dựng một
xã hội hòa bình, ổn định, vì hạnh phúc của nhân dân.
Thực tế quản lý hoạt động báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam đã thể
19
hiện tự do báo chí của Việt Nam. Trong một xã hội dân chủ, tự do của người
này không thể làm mất tự do của người khác. Những hành động liên kết với
nhau để vụ lợi, trái với quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí, đều bị xử lý, dù
người đó đang giữ trọng trách cao trong cơ quan của Đảng, Nhà nước. Những
tờ báo hoạt động xâm hại tơn chỉ, mục đích, gây tác động xấu đối với xã hội
đều bị xử phạt theo các quy định của pháp luật.
chủ thể đặc biệt. Mặt khác, bảo vệ nhà báo, phóng viên cũng là bảo vệ quyền
được thơng tin của công dân. Những trường hợp cản trở, hành hung nhà báo
nếu vượt quá phạm vi hành chính, cần phải khởi tố về tội chống người thi
hành công vụ.
Vậy là, sự quản lý báo chí bằng pháp luật ở Việt Nam không phải là sự
cản trở quyền tự do báo chí của người dân cũng như những hoạt động báo chí
của các nhà báo. Việt Nam đã mở cửa trong hoạt động báo chí với bên ngồi
để góp phần nâng cao trình độ báo chí của mình, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập, giao lưu kinh tế,
văn hóa với bầu bạn bốn phương.
Có ý kiến cho rằng, có báo tư nhân mới là biểu hiện cụ thể của tự do
báo chí. Phải khẳng định rằng khơng có báo chí tư nhân thì khơng thể quy
chụp là khơng có “tự do báo chí”. Những người làm báo Việt Nam đã và
đang phấn đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Những tờ báo hiện nay của các cơ quan Đảng, nhà nước, đồn thể chính
trị, xã hội, tổ chức nghề nghiệp đã phản ánh đầy đủ những ý kiến, nguyện
vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Những kiến nghị của họ đã
được công luận phản ánh đầy đủ và được Đảng, Nhà nước tiếp thu, trả lời
qua báo, đài. Đó là sự thể hiện quyền được thông tin cũng như quyền ngôn
luận của nhân dân.
Mặt khác, thực tiễn việc ra đời báo tư nhân gây nhiễu thơng tin, thậm
chí làm vơ hiệu hóa sự lãnh đạo của chính quyền, dẫn đến sự rối loạn chính
trị-xã hội ở nhiều nước vốn quảng cáo rầm rộ cho cái gọi là “tự do báo chí” đã
20
là bài học thấm thía cho nhân dân ta.
TS. Hồng Vinh trong bài viết “Tự do báo chí ở Việt Nam” đăng trên
báo Sài Gòn giải phóng đã lý giải: Sở dĩ có đòi hỏi vơ lý trên (đòi hỏi có báo
chí tư nhân tại Việt Nam), có ngun nhân từ nhận thức mơ hồ về quyền tự do
báo chí và nhiệm vụ của báo chí Việt Nam. Do hiểu phiến diện hoặc cố tình
hiểu sai về tự do báo chí, họ đã ra cơng cổ súy, đấu tranh đòi “tự do báo chí”
theo kiểu phương Tây, coi đó là biểu hiện của “tinh thần dân chủ”, tự phong
cho mình là “người hăng hái đấu tranh cho dân chủ”. Song, họ không hiểu
rằng dân chủ là một thể chế, trong đó quyền tự do báo chí của người này
khơng được làm tổn hại đến quyền tự do của người khác, đến lợi ích của tồn
dân tộc. Sự sụp đổ mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đơng Âu
có sự góp phần của những tờ báo theo khuynh hướng “tự do báo chí” kiểu
phương Tây đó. Mặt khác, trong một số ít người, tư tưởng nêu trên xuất phát
từ những toan tính liên quan đến lợi ích, quyền lực, động cơ cá nhân; từ sự bất
mãn của họ với Đảng và Nhà nước. Họ luôn luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên
lợi ích của đất nước; chính vì thế, họ có những ý kiến lạc lõng, cực đoan,
phản lại quyền lợi của dân tộc. Trong số những người cơ hội chính trị, có
người đã thực sự đối lập với lợi ích Tổ quốc, liên kết những phần tử bất mãn
ở bên trong cùng với thế lực xấu ở bên ngồi để dùng báo chí chống phá sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Họ quay lưng lại với quá
khứ vẻ vang, hào hùng của tồn dân tộc, trong đó có sự đóng góp nào đó của
gia đình và bản thân họ. Những bài báo, những hồi ký của họ đầy rẫy sự
xuyên tạc, vu cáo hèn hạ, bêu riếu những người dân nước Việt đang ngày đêm
cần cù lao động sáng tạo, chắt chiu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Tự do báo
chí cho ai, vì ai? Câu hỏi lớn đó đã được thực tiễn đổi mới đất nước nói chung
và thực tiễn đổi mới báo chí nói riêng trong 25 năm qua cùng thực tiễn trên
thế giới ngày nay cho ta câu trả lời rành rọt.
Vậy mà năm 2011, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) vẫn xếp
21
Việt Nam vào nhóm 38 nước khơng có tự do báo chí. Một trong những lý do
mà RSF nêu ra là: Việt Nam dùng “luật hình sự trấn áp tự do báo chí” và hiện
vẫn có “17 nhà báo mạng đang bị giam giữ”.
Thực tế cho thấy Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện thuận lợi để
công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí
và để báo chí phát huy cao nhất vai trò của mình vào sự phát triển của xã hội.
Các cơ quan báo chí và những người làm báo ở Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân
nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm
dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí để xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân. Báo chí Việt Nam hồn tồn được
tự do theo khuôn khổ pháp luật Việt Nam…
Nhà nước Việt Nam chỉ ngăn cấm, xử lý những tổ chức và cá nhân cố
tình lợi dụng tự do báo chí, tự do internet để chống phá nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; gây rối
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; vi phạm đạo đức, đi ngược lại thuần
phong mỹ tục và các vi phạm pháp luật khác. Những đối tượng mà RSF gọi là
“nhà báo mạng” đang bị giam giữ, thực chất là những người lợi dụng tự do
báo chí để đưa tin, viết bài tuyên truyền, kích động chống phá Nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước; cấu kết
với nhóm phản động lưu vong nước ngồi để tìm cách lật đổ chính quyền
nhân dân… Hành vi của họ đã đi ngược lại lợi ích của dân tộc Việt Nam vốn
yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.
Trong khi tung hô về tự do báo chí, đặt báo chí trên pháp luật… RSF cố
tình lờ đi trách nhiệm xã hội của các cơ quan báo chí và những người hoạt
động trong lĩnh vực báo chí. Đa số nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đều
hiểu rõ và ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và tự do báo chí ở Việt
Nam, những quyền cơ bản của cơng dân được quy định trong đạo luật cơ bản
của Nhà nước, được cụ thể hố trong Luật Báo chí và các văn bản pháp luật
22
có liên quan. Chỉ trên cơ sở pháp luật, quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận
trên báo chí của công dân mới được đảm bảo một cách đầy đủ.
Nhờ chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam, trong thời kỳ
đổi mới, cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước, hệ thống báo chí,
truyền thơng đại chúng Việt Nam đã có những bước trưởng thành vượt bậc cả
về hình thức, chất lượng và số lượng. Báo chí cách mạng Việt Nam đã đóng
góp tích cực và phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước. Đội quân báo
chí ở Trung ương cũng như địa phương ln đồn kết, giương cao ngọn cờ tư
tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm của các thế lực phản động
thù địch. Nhiều nhà báo đã được đào tạo về chun mơn tốt, đang góp phần
đưa nền báo chí Việt Nam ngày càng tiếp cận với những chuẩn mực của nền
báo chí chuyện nghiệp và hiện đại.
Báo chí cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng
trong thơng tin hai chiều, góp phần tích cực giúp Chính phủ điều hành đất
nước, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; đã có nhiều cố gắng trong
việc cổ vũ các nhân tố mới trong lao động, sản xuất, kinh doanh, góp phần
tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn, tìm hướng đi thích hợp, hướng làm ăn có
hiệu quả.
Báo chí hoạt động tự do trên cơ sở đảm bảo lợi ích của đất nước, dân
tộc, trong khn khổ của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
một số biểu hiện lạm dụng quyền tự do báo chí nhằm vào những mục đích
trục lợi hoặc mưu đồ cá nhân, ảnh hưởng tới lợi ích của dân tộc, đất nước và
một số tổ chức, cá nhân còn có những hành vi cản trở quyền tự do báo chí của
cơng dân. Những hành vi này đều trái pháp luật và đều bị xử lý nghiêm minh
theo đúng pháp luật của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, báo chí Việt Nam có điều kiện để phát
triển tồn diện. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện để phát huy tối đa quyền tự
do ngơn luận, tự do báo chí của công dân. Riêng những trường hợp lợi dụng
23
tự do báo chí để trục lợi, gây tổn hại cho quốc gia, dân tộc thì đều bị xử lý
nghiêm minh theo pháp luật.
Nam. Ý kiến của RSF cho rằng, Việt Nam khơng có tự do báo chí,
khơng có gì khác hơn là sự đơm đặt thiếu thiện chí.
Tiểu kết chƣơng II
Ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, vấn đề tự do báo chí khơng chỉ được
khẳng định về tư tưởng, quan điểm của Đảng mà còn được pháp luật của Nhà
nước quy định và bảo hộ. Báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của
các tổ chức chính trị xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Báo chí là tiếng nói
tự do của Nhà nước, của quần chúng cách mạng và nhà báo là người chiến sĩ
trên mặt trận văn hố tư tưởng. Khơng có một hạn chế, một ràng buộc nào
ngoài sự cổ vũ khích lệ báo chí phát triển theo định hướng trên.
Pháp luật về báo chí tại Việt Nam đã tạo mơi trường pháp lý thuận lợi
để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí.
Quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí và quyền được thơng tin là
những quyền cơ bản của công dân được quy định trong đạo luật cơ bản của
Nhà nước, được cụ thể hoá trong Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có
liên quan. Chỉ trên cơ sở pháp luật, quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên
báo chí của cơng dân mới được đảm bảo một cách đầy đủ.
Nhờ chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam, trong thời kỳ
đổi mới, cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước, hệ thống báo chí,
truyền thơng đại chúng Việt Nam đã có những bước trưởng thành vượt bậc cả
về hình thức, chất lượng và số lượng. Báo chí cách mạng Việt Nam đã đóng
góp tích cực và phục vụ đắc lực cơng cuộc đổi mới đất nước. Đội quân báo
chí ở Trung ương cũng như địa phương ln đồn kết, giương cao ngọn cờ tư
tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm của các thế lực phản động
thù địch. Nhiều nhà báo đã được đào tạo về chuyên môn tốt, đang góp phần
24
đưa nền báo chí Việt Nam ngày càng tiếp cận với những chuẩn mực của nền
báo chí chuyện nghiệp và hiện đại.
Báo chí cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng
trong thơng tin hai chiều, góp phần tích cực giúp Chính phủ điều hành đất
nước, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; đã có nhiều cố gắng trong
việc cổ vũ các nhân tố mới trong lao động, sản xuất, kinh doanh, góp phần
tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn, tìm hướng đi thích hợp, hướng làm ăn có
hiệu quả.
Báo chí hoạt động tự do trên cơ sở đảm bảo lợi ích của đất nước, dân
tộc, trong khuôn khổ của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
một số biểu hiện lạm dụng quyền tự do báo chí nhằm vào những mục đích
trục lợi hoặc mưu đồ cá nhân, ảnh hưởng tới lợi ích của dân tộc, đất nước và
một số tổ chức, cá nhân còn có những hành vi cản trở quyền tự do báo chí của
25