Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích thủ tục và ý nghĩa kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.26 KB, 17 trang )

Đề tài: Phân tích thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai chứng
cứ và hòa giải vụ án dân sự và ý nghĩa thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp
nhận, công khai chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm.
A.

MỞ ĐẦU

Quá trình giải quyết vụ án dân sự là một quá trình mang tính chất phức
tạp, kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động của các đương sự và chủ thể
có liên quan. Chính vì thế, từ lâu các nhà làm luật đã chú trọng xây dựng các
quy phạm pháp luật điểu chỉnh việc giải quyết các tranh chấp này gọi là hoạt
động tố tụng dân sự. Quy định cụ thể, chặt chẽ và chi tiết trong Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 là các quy trình tiến hành giải quyết một vụ án dân sự. Trong đó,
thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án
dân sự có một ý nghĩa quan trọng. Trong bài tập nhóm lần này, chúng em xin đề
cập làm rõ một số vấn đề liên quan.

1


NỘI DUNG
Thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai chứng cứ
B.

I.

trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
1. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận,
công khai chứng cứ
Theo quy định tại Điều 208 BLTTDS 2015, thẩm phán là người phụ trách
ban hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai


chứng cứ và hòa giải nhằm thông báo cho nguyên đơn biết về những quyền và
nghĩa vụ của mình, thời gian địa điểm và nội cung của phiên họp trước khi tiến
hành.
Trong trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến
hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân
sự thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải.
Thẩm phán, thẩm tra viên được phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ
để xác định nguyên nhân tranh chấp để bảo vệ người chưa thành niên trong vụ
án hơn nhân và gia đình. Bên cạnh đó, để đảm bảo được tính khách quan và
cơng bằng, khi xét thấy cần thiết thì thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của một
số cơ quan có thẩm quyền về nguyên nhân tranh chấp và nguyện vọng của
những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp vụ án tranh chấp về nuôi con khi ly hôn hoặc thay đổi người
nuôi con, thẩm phán phải xem xét ý kiến của người con chưa thành niên từ đủ 7
tuổi trở lên, có thể có đại diện một số cơ quan chức năng chứng kiến. Việc lấy ý
kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác phải đảm bảo phù hợp,
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên.
2.

Thành phần phiên họp
2


Quy định tại điều 209 BLTTDS 2015, thành phần phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ gồm: Thẩm phán chủ trì phiên họp; thư
ký Tòa án ghi biên bản phiên họp; các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
của các đương sự; đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao
động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại
diện tập thể người lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp đại diện tổ chức
đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì phải có ý kiến bằng văn
bản; gười bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người phiên dịch
(nếu có).
Ta có thể thấy để đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của đương sự, thành
phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ ngồi
đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, còn có sự tham gia của
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có). Thẩm phán cũng
có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp, tuy nhiên
nếu cá nhân, tổ chức đó vắng mặt thì phiên họp vẫn được tiến hành.
Trong phiên họp, viện kiểm sát không tham gia nhưng vẫn thực hiện được
chức năng kiểm sát của mình thơng qua biên bản phiên họp được lưu cũng như
chứng cứ đã được thu thập.
3.

Trình tự phiên họp

Theo quy định tại Điều 210 BLTTDS năm 2015, thì trước khi tiến hành
phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thầm phán về sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thơng báo. Thầm phán chủ trì
phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ
biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của
BLTTDS. Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán

3


công bố tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những vấn đề sau
đây:
Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu

cầu khởi kiện, yêu cầu phẩn tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất,
những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;
Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác;
Bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ;
yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố
tụng tại phiên tòa;
Những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết.
Sau khi các đương sự đã trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý kiến,
giải quyết các yêu cầu của đương sự. Trường hợp người được Tòa án triệu tập
vắng mặt thì Tòa án thơng báo kết quả phiên họp cho họ.
4.

Biên bản phiên họp

Điều 211 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định biên bản về kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải có các nội dung: Ngày, tháng, năm
tiến hành phiên họp; Địa điểm tiến hành phiên họp; Thành phần tham gia phiên
họp; Ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự
về các nội dung tại phiên họp; Các nội dung khác;…Biên bản phải có đầy đủ
chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký
Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia
phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu
cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.

4


5.


Ý nghĩa thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm

Kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ là một thủ tục có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, cụ thể:
Đối với việc giải quyết vụ án dân sự: Kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ giúp xác minh tính đúng đắn, hợp pháp của chứng cứ. Qua
việc kiểm tra, có thể đánh giá được q trình thu thập, giao nộp chứng cứ có
hợp pháp hay không, chẳng hạn như việc thu thập, giao nộp chứng cứ có đúng
thẩm quyền khơng, việc thu thập chứng cứ có hợp pháp khơng,.. Bên cạnh đó,
trong q trình diễn ra phiên họp, có thể thẩm định tính đúng đắn của chứng cứ
thông qua công khai chứng cứ và việc tiếp cận chứng cứ của đương sự và những
người tham gia phiên họp khác. Qua đó, có thể loại bỏ những chứng cứ không
hợp pháp, không phù hợp, khơng có ý nghĩa đối với vụ án để giúp cho quá trình
giải quyết của tòa tại phiên tòa diễn ra nhanh gon hơn.
Bên cạnh tính đúng đắn, hợp pháp. Thông qua phiên họp kiểm tra kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ góp phần kiểm tra tính đầy đủ
của chứng cứ, Tòa án có thể biết được các chứng cứ đã được giao nộp đã đầy đủ
hoặc phải thu thập thêm cho quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, kịp thời bổ
sung những chứng cứ thay thế cho chứng cứ không họp pháp, không phù hợp đã
được công khai trong phiên họp.
Kết quả của phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là
cơ sở quan trọng để Tòa án thực hiện các hoạt động tiếp theo của quá trình giải
quyết vụ án, là căn cứ quan trọng cho việc xét xử đưa ra bản án.
Việc quy định về phiên họp chuẩn bị xét xử là một trong những nội dung
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bởi lẽ kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận và công khai chứng cứ là phương thức để các bên trao đổi chứng cứ, bổ
sung tài liệu, chứng cứ (nếu có); trao đổi ý kiến và xác nhận những vấn đề đã
5



thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; trình bày
ý kiến về những vấn đề cần thiết khác....
Đối với các bên tham gia tố tụng: Thông qua phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ tạo điều kiện để các bên giao nộp đầy đủ
những chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án, tiếp cận với những chứng
cứ của các đương sự khác và chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập.
Thông qua thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ,
chứng cứ được công khai, các đương sự đều biết các tài liệu chứng cứ của vụ án
để có thể thực hiện tốt nhất q trình tranh tụng, góp phần hiện thực hóa quyền
của các đương sự trên thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, khi biết
được chứng cứ các bên sẽ được phân tích về những chứng cứ đó tạo điều kiện
để nắm rõ tình hình vụ án, và sẽ chủ động thu thập thêm chứng cứ cần thiết để
có lợi cho mình, đồng thời có được những cách thức để có thể đối đáp và chống
lại chứng cứ của bên kia trong giai đoạn tranh tụng sau này.
Giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đương sự có quyền
được biết về những tài liệu, chứng cứ của vụ án liên quan đến mình, qua đó có
thể kiểm chứng, chứng minh những chứng cứ đó là đúng hay khơng đúng, hợp
pháp hay khơng hợp pháp để bảo vệ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, qua những
chứng cứ được cơng khai, các bên sẽ thấy được những thuận lợi và bất lợi đối
với lợi ích của mình, từ đó đi đến những thỏa thuận và cân nhắc việc tiếp tục vụ
án hay dừng lại vụ án ở phiên họp hòa giải.
Đối với người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng: Chứng cứ là
căn cứ quan trọng để giải quyết vụ án dân sự nên kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, cơng khai chứng cứ góp phần giúp người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến
hành tố tụng hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tố
tụng.

6



Bên cạnh đó, thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
giúp người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng kiểm soát được quá
trình giải quyết vụ án một cách tốt nhất để có những phương hướng cho những
thủ tục, giai đoạn sau, đặc biệt là phiên họp hòa giải để có thể hòa giải thành
trên cơ sở tuân thủ pháp luật và đảm bảo lợi ích cho đương sự.
Kết luận của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi trong q trình xét xử vụ án, thơng thường
Thẩm phán Tòa án phải dựa vào chứng cứ để có thể xét xử một cách công bằng,
hợp lý, hợp pháp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên có chứng cứ có lợi
hơn đối với đối tượng tranh chấp, do đó việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
cơng khai chứng cứ trên cơ sở đã xác minh tính đúng đắn, hợp pháp và đầy đủ
giúp Thẩm phán đưa ra kết luận chính xác nhất, hạn chế có kháng cáo, kháng
nghị cũng như những thủ tục xét lại bản án như giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu
khơng có thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ diễn ra
trước khi mở phiên tòa sẽ là một hạn chế lớn cho qua trình tố tụng giải quyết vụ
án dân sự, có thể làm cho thời gian diễn ra phiên tòa lâu hơn và có thể dẫn đến
sai sót khi chứng cứ khơng đúng, khơng hợp pháp và gây bất lợi cho bên đương
sự đáng lẽ nên được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, từ đó có thể
khiến cho q trình giải quyết vụ án chưa thể kết thúc, gây tồn kém cả về mặt
thời gian lẫn chi phí cho việc tố tụng.
II.

Thủ tục hòa giải trong vụ án dân sự
1. Khái niệm, ngun tắc hịa giải vụ án dân sự

Trong q trình giải quyết vụ án dân sự, hòa giải là thủ tục được Tòa án
chủ động tiến hành vào thời điểm trước phiên tòa sơ thẩm, theo đó, Tòa án giải
thích các quy định pháp luật có liên quan đến vụ án nhằm giúp các đương sự có
thể nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ dân sự, qua đó

giúp họ dễ dàng đạt được thỏa thuận chung về vấn đề tranh chấp.

7


Vì vậy, có thể hiểu hòa giải vụ án dân sự là một thủ tục tố tụng do Tòa án
tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các
vấn đề của vụ án dân sự.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm như: đề
cao quyền tự định đoạt của các đương sự, rút ngắn quá trình tố tụng, giảm thiểu
chi phí tố tụng, đồng thời cũng mang nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tuy nhiên,
hoạt động này chỉ được tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự,
ở các thời điểm khác Tòa án khơng tiến hành hòa giải mà có thể cơng nhận sự
thỏa thuận của các đương sự theo điều 246, 300 BLTTDS 2015. Vì vậy, hòa giải
ở thời điểm trước khi mở phiên tòa sơ thẩm là bắt buộc, trừ trường hợp không
tiến hành hòa giải được hoặc không được hòa giải theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 205, BLTTDS 2015, khi tiến hành hòa
giải cần tuân thủ các nguyên tắc:
Thứ nhất, tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không
được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa
thuận không phù hợp với ý chí của mình.
Thứ hai, nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
2.

Phạm vi hòa giải

Khoản 1 Điều 205 BLTTDS 2015, việc hòa giải được tiến hành với hầu
hết các vụ án dân sự (quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS 2015), trừ
những trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải, không tiến hành hòa

giải được hoặc những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Thứ nhất, những vụ án dân sự không được hòa giải:
Theo Điều 206 BLTTDS 2015, những vụ án dân sự khơng được hòa giải
gồm có:
8


Trường hợp yêu cầu đòi bồi thường vì lý do thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước. Theo đó, bất cứ hành vi gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều là trái
pháp luật và buộc phải bồi thường mà khơng có quyền thương lượng hoặc thỏa
thuận với Nhà nước về mức độ bồi thường và bồi thường như thế nào.
Trường hợp những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm
của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Những trường hợp giao dịch dân sự vi phạm
điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch dân sự vô hiệu.
Tòa án không được hòa giải những vụ án phát sinh từ những giao dịch dân sự
vô hiệu này để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch dân sự vô hiệu này.
Thứ hai, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được:
Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 207
BLTTDS 2015, đây là những vụ án mà pháp luật quy định phải hòa giải nhưng
vì những lý do khách quan nên không tiến hành hòa giải được, bao gồm:
Một là, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. Trên thực tế, quy định này
lại chưa thật sự hợp lý, bởi lẽ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án dân sự bao gồm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập. Đối với người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có yêu cầu độc lập, nếu Tòa án triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì thuộc trường hợp vụ án
khơng tiến hành hòa giải được là hợp lý. Nhưng đối với người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của chính mình, họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị

đơn) nếu Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt thì
phải coi như họ đã từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải
quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề

9


nghị xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia, cho nên ở đây
đã có sự đồng nhất không hợp lý.
Hai là, đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính
đáng.
Ba là, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng
lực hành vi dân sự. Bởi hòa giải là sự thỏa thuận của chính các đương sự cho
nên khi một bên đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà ly hôn là quan hệ
gắn liền với nhân thân của đương sự đó thì sẽ không thể hòa giải được. Tuy
nhiên, cần quy định thêm đối với trường hợp người có khó khăn trong nhận thức
và làm chủ hành vi theo BLDS 2015.
Bốn là, một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải. Đây là
điểm mới trong BLTTDS 2015, việc bổ sung trường hợp không hòa giải được
này là hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế, hạn chế việc kéo dài thời gian
giải quyết vụ án.
3.

Thành phần phiên hòa giải

Theo quy định tại Điều 209 BLTTDS 2015, thành phần phiên hòa giải
bao gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải; Thư ký Toà án ghi biên bản hoà
giải; Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Trong một vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt trong
phiên hòa giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc

hòa giải đó khơng ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì
thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề
nghị hoãn phiên tòa hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm
phán hỗn phiên hòa giải.
Ngồi ra, phiên hòa giải có sự tham dự của đại diện tổ chức đại diện tập
thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động (trừ vụ
10


án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động). Trường hợp đại diện
tổ chức đại diện tập thể lao động khơng tham gia hòa giải thì phải có ý kiến
bằng văn bản; người phiên dịch (nếu có).
Ngồi ra, đối với vụ án hơn nhân gia đình, Thẩm phán có thể yêu cầu đại
diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp. Nếu tranh chấp liên quan
đến quyền sử dụng đất, thẩm phán có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân nơi có đất
tham gia phiên họp.
BLTTDS 2015 quy định rất rõ là người tiến hành hòa giải là thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án, còn thư ký chỉ là người giúp việc và phải có
mặt trong phiên hòa giải để ghi biên bản hòa giải.
4.

Phiên hòa giải và ra quyết định đối với phiên hòa giải
4.1.
Phiên hòa giải

Trước khi tiến hành hòa giải, Tòa án cần xem xét các đương sự yêu cầu
Tòa án giải quyết các vấn đề gì để xác định các vấn đề mà Tòa án phải tiến hành
hòa giải.

Trước khi tiến hành phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự
có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông
báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những
người tham gia, phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo
quy định của BLTTDS 2015.
Tại phiên họp, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về các quy định
của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các đương sự liên hệ đến
quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để
họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

11


Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày; Bị
đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý kiến của mình
đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có); Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trình bày ý
kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn, trình bày u cầu độc
lập của mình (nếu có); Người khác tham gia phiên họp hòa giải (nếu có) phát
biểu ý kiến.
Sau khi các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các đương sự
đã thống nhất, chưa thống nhất và yêu cầu các đương sự trình bày bổ sung về
những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất.
4.2.

Ra quyết định với việc hòa giải

Thẩm phán kết luận về những vấn đề các đương sự đã thống nhất, chưa
thống nhất. Theo đó, cần phân biệt hai tình huống sau:

Một là, trường hợp đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án (thỏa thuận được cả về việc người
phải nộp án phí sơ thẩm và mức nộp) thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành,
trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa
thuận. Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà khơng
có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Tòa án ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trong thời hạn 05 ngày làm việc,
Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật
ngay sau khi được ban hành, đương sự khơng có quyền kháng cáo, Viện kiểm
sát khơng có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định này, tuy nhiên,
vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

12


Hai là, trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết các vấn đề của vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải và quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, các
đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp nhưng nếu thỏa thuận của họ
có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này
chỉ có giá trị pháp lý và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được
đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản (Khoản 3 Điều 212
BLTTDS 2015).
5.

Vai trò, ý nghĩa của việc hòa giải trong giải quyết vụ án dân
sự


Hòa giải là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự mang lại nhiều ý
nghĩa to lớn cho quá trình giải quyết các vụ án dân sự.
Thứ nhất, hòa giả giúp nâng cao hiểu biết pháp luật và hàn gắn mối quan
hệ giữa các bên đương sự. Việc các bên kiện cáo nhau tại Tòa án phần nhiều là
do họ cảm thấy lợi ích của mình bị xâm phạm dứt khoát muốn nhờ cơ quan
chức năng giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì Tòa án tiến
hành việc giải thích các quy định pháp luật có liên quan đến vụ án nhằm giúp đỡ
các đương sự nhận biết về quyền và nghĩa vụ của mình để giúp họ thương
lương, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề có tranh chấp. Qua đó
sẽ khiến đương sự hiểu thêm về luật pháp đồng thời điều này cũng mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương thân, tương ái, giữ gìn khối
đồn kết cơng đồng.
Thứ hai, việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng vừa đảm bảo tiết
kiệm chi phí và tiền của cho Nhà nước, cho người dân, giảm bớt giai đoạn tố
tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa các đương sự, góp phần tích
cực trong công cuộc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Cơ sở của
13


hòa giải là quyền tự định đoạt của đương sự. Tòa án có trách nhiệm hòa giải và
tạo điều kiện thuận lợi để đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án
dân sự, tòa án phải chủ động trong việc hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa
thuận với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ sau khi thụ lý vụ án, tòa án chủ động
triệu tập các đương sự đến để hòa giải, tòa án giữ vai trò trung gian khơng có
quyền thương lượng điều đình mà để đương sự tự thỏa thuận với nhau về giải
quyết vụ án. Trong trường hợp Tòa án hoà giải thành cơng vụ án dân sự thì
khơng cần mở phiên tòa xét xử vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và
cực kỳ phức tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của cho Nhà nước và cho nhân
dân. Hòa giải thành vụ án dân sự giúp Tòa án giải quyết được tranh chấp, mâu
thuẫn giữa các đương sự, góp phần xây dựng khối đồn kết trong nhân dân.

Như vậy, có thể thấy, việc có chế định công nhận hòa giải thành là rất cần
thiết cho quy trình giải quyết các vụ án dân sự, các tranh chấp phát sinh trong
cuộc sống, hạn chế các quá trình tố tụng dân sự kéo dài, gây mệt mỏi, tốn kém
cho người tham gia tố tụng.
III.

Bình luận, nhận xét một số vấn đề thực tiễn

Qua thực tiễn áp dụng cho thấy quy định về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải còn một số vướng mắc, bất cập,
khiến cho ý nghĩa của quy định này chưa được đảm bảo và phát huy triệt để. Cụ
thể là:

- Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành chưa quy định cụ thể khi nào thì thẩm
phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ
nên thực tiễn có nhiều trường hợp sau khi thụ lý vụ án một thời gian ngắn, thẩm
phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, cơng khai chứng cứ.
Sau đó Thẩm phán tiếp tục thu thập chứng cứ hoặc các đương sự tiếp tục giao
nộp chứng cứ khác nhưng thẩm phán không mở phiên họp để tiếp cận công khai
14


những chứng cứ mới này nên đương sự không biết được. Điều đó đã phần nào
ảnh hưởng đến việc tranh luận của đương sự tại phiên tòa. Trong trường hợp
này liệu Viện kiểm sát có thể xác định thẩm phán đã vi phạm tố tụng không
trong khi điều luật chưa có quy định cụ thể?

- Nếu như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011
quy định đương sự có quyền yêu cầu đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc
lập trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì Bộ luật tố tụng dân

sự 2015 lại có sự điều chỉnh trong quy định này. Tại Điều 200 và 201 Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 quy định đương sự có quyền đưa ra yêu cầu phản tố hoặc yêu
cầu độc lập trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận công khai chứng cứ và hòa giải. Vấn đề đặt ra là: nếu sau khi thụ lý vụ án
một thời gian ngắn, thẩm phán mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và chỉ mở phiên họp một lần như nêu ở trên thì thời gian để
đương sự cân nhắc, thực hiện quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập sẽ bị hạn
chế rất nhiều. Trong khi đó, thực tế giải quyết các tranh chấp dân sự cho thấy
chỉ sau khi tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải các đương sự mới có đủ
thơng tin để quyết định việc có đưa ra yêu cầu phản tố hay u cầu độc lập
khơng. Vì vậy quy định này vơ hình chung đã phần nào cản trở đương sự đưa ra
yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích của mình

- Theo quy định tại Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm
phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ,
sau đó mới tiến hành hòa giải. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều vụ án phức tạp,
thẩm phán có thể tiến hành hòa giải nhiều lần trong quá trình giải quyết vụ án và
giữa các lần hòa giải này không tiếp nhận, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ
mới. Trong trường hợp này có nhất thiết mỗi lần tiến hành hòa giải thẩm phán
15


đều phải mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
trước không? Nếu Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần và đến lần hòa giải cuối
cùng mới lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ thì
có bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không?

- Theo quy định tại khoản 5, Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự thì khi giao
nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, đương sự phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó
cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác. Điểm b,

khoản 2, Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự quy định tại phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán phải hỏi đượng sự về việc
gửi chứng cứ cho đương sự khác. Đây là quy định có ý nghĩa góp phần bảo đảm
thực hiện tốt nhất sự bình đẳng và quyền tranh tụng của đương sự trong tố tụng
dân sự. Tuy nhiên nếu đương sự không thực hiện việc sao gửi tài liệu cho đương
sự khác (do khơng biết hoặc cố tình khơng thực hiện) thì chế tài như thế nào?
Trường hợp đương sự khơng sao gửi tài liệu cho đương sự khác do không biết
nhưng Thẩm phán khơng thơng báo, giải thích khi đương sự đến giao nộp chứng
cứ thì có thể xác định Thẩm phán vi phạm Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự
không? Nếu tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ,
đương sự có ý kiến về việc chưa được sao gửi tài liệu chứng cứ thì Tòa án có
tiếp tục tiến hành hòa giải không?

16


C.

KẾT LUẬN

Như vậy, qua việc nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến thủ tục kiểm
tra, tiếp nhận, giao nộp chứng cứ và thủ tục hòa giải trong giải quyết vụ án dân
sự với tư cách là một giai đoạn trong q trình chuẩn bị xét xử nói chung và
trong q trình giải quyết vụ án dân sự nói chung giúp chúng ta có cái nhìn tổng
qt hơn, từ đó tạo dựng cơ sở pháp lý để áp dụng vào thực tiễn công tác nghề
nghiệp sau này, đảm bảo hoạt động tố tụng dân sự diễn ra có hiệu quả. Đồng
thời, nhìn nhận một số vấn đề thực tiễn, cũng như những khó khăn, vướng mắc
liên quan đến vấn đề này, định hướng, đưa ra một số kiến nghị mang tính chất
xây dựng và hồn thiện trong thời gian tới.


17



×