*****
BÀI TẬP LỚN
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN
Đề bài: Phân tích vai trị thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Lựa
chọn một tác phẩm hay để phân tích
Hà Nội 2021
I. LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú, đa dạng.
Nhưng đa dạng và phong phú đến đâu cũng chỉ nằm trong thế giới quan. Con người
để tồn tại được thì cần phải có mối quan hệ với thế giới xung quanh, phải thích nghi
với thế giới tự nhiên. Tuy nhiên có một điểm đặc biệt là con người khơng thích
nghi dạng thụ động như động vật mà ln biết tìm cách biến đổi thế giới để phù
hợp với nhu cầu cuộc sống của mình. Chẳng hạn như biết tạo ra lửa để sưởi ấm,
xây nhà để tránh nắng mưa, thú dữ hay phát minh ra công cụ lao động,... Để tìm
hiểu hơn về quan điểm của con người với thế giới, em đã chọn đề tài: “Phân tích
vai trị thế giới quan và phương pháp luận của triết học”
II. LÝ LUẬN CHUNG
1. Các loại hình thế giới quan trong lịch sử
Chúng ta ln có nhu cầu từ sâu trong tiềm thức là muốn hiểu biết đến tận cùng,
sâu sắc và tồn diện về hiện tượng, sự vật, q trình. Mong muốn tìm hiểu vơ hạn
là thế nhưng khả năng của con người thì lại có hạn, đó ln là tình huống có vấn đề
của mọi tranh luận triết học và tơn giáo. Bằng trí tuệ duy lý trí, kinh nghiệm và sự
mẫn cảm của mình, con người buộc phải xác định quan điểm về toàn bộ thế giới
làm cơ sở định hướng cho nhận thức và hành động của mình. Đó chính là thế giới
quan. Nguồn gốc của thế giới quan ra đời từ cuộc sống. Tất cả hoạt động của con
người đều bị chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Những yếu tố chính cấu
thành nên thế giới quan đó là tri thức, lý trí, niềm tin và tình cảm. Chúng liên kết
với nhau thành một thể thống nhất và chi phối đến cả nhận thức lẫn hành động thực
tiễn của con người.
Khái niệm thế giới quan hiểu một cách ngắn gọn là hệ thống quan điểm của con
người về thế giới. Có thể định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ
thống các tri thức, quan điểm, niềm tin, lí tưởng xác định về thế giới và về vị trí của
con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới
quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt
động nhận thức của con người.
Trong lịch sử phát triển của tư duy, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình
thức đa dạng khác nhau, nên cũng được phân loại theo nhiều cách khác nhau.
Chẳng hạn như thế giới quan tôn giáo, thế giới quan khoa học, thế giới quan triết
học và thế giới quan huyền thoại.
Trong đó, thế giới quan khoa học là một thế giới khách quan, hiện hữu độc lập
với con người, thế giới đó sẽ biến đổi chuyển theo quy luật nhân quả mà con người
có tiền năng hiểu được. Thế giới quan đó khơng trực tiếp hay gián tiếp mà nằm
trong tất cả tư duy, cảm quan và xử thế của con người.
2
Thế giới quan tôn giáo phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, ra đời
trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người còn hạn chế. Thế giới quan tơn
giáo giải thích dựa trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo của một loại năng lực thần bí,
siêu nhiên. Đặc trưng cơ bản của thế giới quan này đó chính là niềm tin dựa vào sự
tồn tại và sức mạnh của lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người hoàn toàn
bất lực và hoàn toàn phụ thuộc vào thế giới siêu nhiên đó. Trong thế giới quan tôn
giáo, con người là kẻ cầu xin và phục tùng. Ở một khía cạnh nào đó, thế giới quan
tơn giáo thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, hướng đến cuộc sống
hạnh phúc. Bởi vậy, đã giúp cho thế giới quan tôn giáo luôn tồn tại trong đời sống
tinh thần ngày nay.
Còn thế giới quan huyền thoại xuất có nguồn gốc xã hội nguyên thủy trong
giai đoạn sơ khai lịch sử bằng cách xây dựng nên các huyền thoại nhằm phản ánh
các kết quả cảm nhận ban đầu của người nguyên thủy về nhận thức khách quan tự
nhiên, đời sống xã hội. Ví dụ như dân tộc Việt Nam có truyền thuyết Lạc Long
Quân- Âu Cơ để giải thích về nguồn gốc của dân tộc… Đặc điểm của thế giới quan
huyền thoại là yếu tố thực và ảo, cái thần và cái người, lý trí và tín ngưỡng hịa
quyện với nhau. Do con người khơng giải thích được các hiện tượng đặc trưng
trong xã hội nên thường đưa ra các yếu tố tưởng tượng có tính huyền bí để giải
thích. Thế giới quan huyền thoại khơng phản ánh hiện thực một cách khách quan.
Thế giới quan triết học ra đời trong trình độ tư duy và thực tiễn của con người
và có bước phát triển cao hơn so với thế giới quan khoa học của tôn giáo và huyền
thoại. Điều đó làm cho tính tích cực trong tư duy của con người có bước thay đổi
về chất. Thế giới quan triết học được xây dựng dựa trên hệ thống lý luận, phạm trù
quy luận. Không đơn giản chỉ là khái niệm, phạm trù, quy luật; thế giới quan triết
học cịn nỗ lực tìm cách giải thích, chứng minh tính đúng đắn của các quan điểm
bằng lý luận, logic.
Bên cạnh đó, theo những căn cứ phân chia khác, thế giới quan còn được phân
loại theo các thời đại, các dân tộc, các tộc người hoặc thế giới quan kinh nghiệm,
thế giới quan thông thường…Nhưng thế giới quan chung, phổ biến nhất, được sử
dụng (một cách ý thức hoặc không ý thức) trong mọi ngành khoa học và trong toàn
bộ đời sống xã hội là thế giới quan triết học. Trong thế giới quan ln tồn tại hai
hình thức, đó là thế giới quan duy vật và duy tâm. Tuy nhiên cả hai hình thức này
lại ẩn chứa những đặc điểm cũng như cách nhìn nhận khác nhau.
Thế giới quan duy tâm thừa nhận rằng bản chất của thế giới chính là tinh thần.
Nó là cái cơ trước và cũng là cái có quyết định đối với thế giới của con người và
vật chất. Trong thế giới quan duy tâm lại tồn tại cả thế giới quan duy tâm khách
quan và thế giới quan duy tâm chủ quan. Hai hình thức này lại khác nhau trong
quan niệm về tinh thần. Chủ quan coi tinh thần là ý chí, tình cảm, tư tưởng còn
khách quan lại coi tinh thần là ý niệm, một ý niệm tuyệt đối. Có thể nói sự hình
3
thành và phát triển của thế giới quan duy tâm thường gắn liền với cả lịch sử hình
thành và phát triển của chủ nghĩa duy tâm trong triết học. Về cơ bản thì nó phủ
nhận tính khách quan và quy luật khách quan của thế giới vật chất và con người.
Đồng thời thừa nhận ý thức, tư tưởng, ý niệm, ý niệm tuyệt đối là cái có trước, cái
sẽ quyết định đến thế giới vật chất, con người. Chủ nghĩa duy tâm gồm hai phái:
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Ngược lại, thế giới quan duy vật lại thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
Vật chất là cái có trước, nó quyết định ý thức cũng như thừa nhận vai trò của con
người ở trong cuộc sống hiện tại. Đồng thời thế giới quan duy vật còn khẳng định
sự thống nhất ở tính vật chất. Cụ thể là hồn tồn khơng do lực lượng siêu nhiên
hay tinh thần của con người sinh ra. Vì vậy nó khơng tự mất đi mà tồn tại vĩnh
viễn, vô tận và vô hạn. Thêm vào đó thế giới quan duy vật cịn khẳng định được sự
hình thành, phát triển và vận động của xã hội đều phụ thuộc vào quy luật khách
quan. Chính ý thức và tinh thần sẽ phản ánh bộ não của con người về hiện thực
khách quan, ý thức, tinh thần có nguồn gốc vật chất, bị vật chất quyết định nhưng
nó chứa tính sáng tạo và năng động. Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể
hiện dưới 3 hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2. Điều kiện và nguồn gốc ra đời của triết học
Và hạt nhân lý luận của thế giới quan chính là triết học. Bởi thứ nhất, bản thân
triết học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới
quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc, hay các thời đại… triết
học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trị là nhân tố cốt lõi. Thứ ba,
với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan
thông thường…, triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù khơng thể
khơng có tự giác. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế
giới quan và các quan niệm khác như thế. Triết học là loại hình nhận thức đặc thù
của con người, triết học ra đời cả ở phương Đông và phương Tây cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN) tại các trung tâm văn minh lớn
của nhân loại thời Cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện khơng ngẫu nhiên mà có
nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của sự phát triển văn
minh, văn hoá và khoa học. Bởi mong muốn có thể đáp ứng nhu cầu về nhận thức
và hoạt động thực tiễn mà con người đã sáng tạo ra những lý luận chung nhất có
tính hệ thống phản ánh thế giới xung quanh. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất
hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại. Với tính cách là một
hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Nói
đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển của tư
duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. Tri thức cụ
thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp, trừu tượng
4
hoá, khái quát hoá thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, lý
thuyết… đủ sức phổ quát, giải thích thế giới. Triết học ra đời đáp ứng nhu cầu đó
của nhận thức. Do nhu cầu của sự tồn tại, con người không thoả mãn với các tri
thức riêng lẻ, cục bộ về thế giới, càng không thoả mãn với cách giải thích của các
tín điều và các giáo lý tôn giáo. Tư duy triết học bắt đầu từ các triết lý, từ sự khơn
ngoan, từ tình u, sự thơng thái, dần hình thành những hệ thống những tri thức
chung nhất về thế giới. Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của lồi người
đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định trên cơ sở đó, tư duy của con người
cũng đã đạt đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những
sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Triết học cịn có nguồn gốc xã hội bởi triết học chỉ ra
đời khi lồi người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản xuất xã hội, phân
công lao động của xã hội hình thành, của cải tương đối dư thừa, tư hữu hoá tư liệu
sản xuất được luật định, giai cấp phân hoá rõ và mạnh, nhà nước ra đời. Trong một
xã hội như vậy, tầng lớp trí thức xuất hiện, giáo dục và nhà trường hình thành và
phát triển, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy để trừu tượng hoá, khái quát
hoá, hệ thống hố tồn bộ tri thức thời đại và các hiện tượng của tồn tại xã hội để
xây dựng lên các học thuyết, các lý luận và các triết thuyết.Với sự tồn tại mang tính
pháp lý của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất , của trật tự giai cấp và của bộ
máy nhà nước, triết học, tự nó đã mang trong mình tính giai cấp sâu sắc, nó cơng
khai tính đảng là phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội
nhất định.
3. Vai trị của thế giới quan và từ đó xây dựng phương pháp luận với tư cách là
những nguyên tắc trong hành động và nhận thức.
Vậy thế giới quan có vai trị gì ? Thế giới quan là tồn bộ những quan niệm của
con người về thế giới, bản thân, con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Nó đóng vai trị định hướng đối với toàn bộ cuộc sống của con người, từ thực tiễn
cho đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận thức bản thân, xác định lý
tưởng, hệ giá lối sống cũng như nếp sống của mình. Khái niệm thế giới quan thể
hiện cái nhìn bao quát về thế giới trong ý thức của mỗi chủ thể bao gồm thế giới
bên ngoài, con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới đó. Đây chính là
kim chỉ nam cho thái độ, hành vi của con người đối với thế giới bên ngoài. Nguồn
gốc của thế giới quan ra đời từ sự sống. Tất cả các hoạt động của con người đều bị
chi phối bởi thế giới quan nhất định. Yếu tố cấu thành nên thế giới quan đó chính là
tri thức, lý chí, tình cảm và niềm tin; chúng sẽ liên kết với nhau tạo thành một thể
thống nhất, chi phối đến nhận thức và hành động thực tiễn của con người. Thế giới
quan đóng vai trị đặc biệt trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Bởi
lẽ, thứ nhất, những vấn dề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là
những vấn đề thuộc thế giới quan. Thứ hai, thế giới quan đúng đắn là tiền đề quan
trọng để xác lập phương thức tư duy hợp lý và nhân sinh quan tích cực trong khám
phá và chinh phục thế giới. Thế giới quan đúng đắn, chuẩn chỉ cũng sẽ là la bàn để
5
hướng con người đến với những hoạt động tích cực, lành mạnh. Khơng ngoa để nói
rằng, thế giới quan là trụ cột trong tư tưởng của đạo đức, hình thành nhân cách,
hành vi của mỗi con người. Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan
trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi công đồng xã
hội nhất định. Thế giới quan đúng sẽ giúp nhận thức đúng các quy luật vận động
của sự vật, hiện tượng. Từ đó, giúp việc xác định mục tiêu, phương hướng hoạt
động của con người trở nên chuẩn xác hơn. Khi con người bị ảnh hưởng bởi thế
giới quan khơng chính xác sẽ dẫn đến khơng thể xác định đúng những mối quan hệ
xã hội và các quy luật của đối tượng. Kết quả là không xác định được mục tiêu,
cách thức hay phương hướng hoạt động nên kết quả thực hiện sẽ không được như
mong muốn. Thế giới quan có vai trị quan trọng, triết học là hạt nhân của thế giới
quan và thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế giới
quan đã từng có trong lịch sử. Vì thế giới quan này địi hỏi thế giới phải được xem
xét trong dựa trên những nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển. Từ đây, thế giới và con người được nhận thức và theo quan điểm toàn diện,
lịch sử, cụ thể và phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm tri thức
khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm, các
nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương
pháp trong nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ; trong đó,
phuơng pháp luận triết học là phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận có
hai dạng phương pháp luận biện chứng và phương pháp luận siêu hình.
Phương pháp luận siêu hình nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời ra
khỏi các quan hệ được xem xét và coi các mặt đối lập với nhau có một ranh giới
tuyệt đối. Đối tượng còn được nhận thức ở trạng thái tĩnh, đồng nhất đối tượng với
trạng thái tĩnh nhất thời đó. Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng,
về các hiện tượng bề ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi coi là nằm ngồi đối
tượng.
Cịn phương pháp luận biện chứng nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ
phổ biến vốn có của nó. Đối tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự
lệ thuộc ảnh hưởng nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau. Đối tượng được nhận thức
ở trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ quát là phát
triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và cả về chất của các sự vật,
hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh của các mặt
đối lập của mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật. Thế giới quan và phương pháp
luận triết học là lý luận nền tảng cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin: là sự kế thừa,
phát triển tinh hóa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử tư tưởng của
nhân loại. Chủ nghĩa duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin là chủ nghĩa duy vật biện
chứng với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Các quan điểm duy vật
6
biện chứng về nguồn gốc, động lực và những quy luật chung nhất chi phối sự vận
động, phát triển của con người.
III. VẬN DỤNG
“Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ
giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như
Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu khơng
phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có
cái bút lực ấy” đó là lời nhận xét của Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân về
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển.
Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào
cõi vĩnh hằng. Nhưng những là nghệ thuật đích thực…thì vẫn cịn mãi mãi với thời
gian. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế. Truyện
Kiều được sáng tác trên cơ sở cốt truyện của cuốn tiểu thuyết Trung Quốc là Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo
thể lục bát, gồm 3254 câu. Qua tác phẩm, Nguyễn Du đã thể hiện niềm thương cảm
sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng
thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng cơng lí,
chính nghĩa. Hơn cả giá trị nhân văn, Truyện Kiều còn mang nhiều tư tưởng triết
học, để lại nhiều giá trị bất hủ cho tới ngày nay.
Truyện Kiều kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều,
một người con gái trẻ xinh đẹp và tài năng, nàng có mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng
một thanh niên hào hoa phong nhã. Hai người yêu nhau và cùng nhau thề nguyền
thủy chung. Nhưng tai họa bất ngờ ập đến với Kiều. Gia đình bị nạn. Kiều tự
nguyện bán mình chuộc cha. Cơ bán mình kết hơn với một người đàn ơng trung
niên, khơng biết rằng anh ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu
xanh. Từ ấy cuộc đời Kiểu gặp bao nhiêu trắc trở. Nhưng sau mười lăm năm trời
lưu lạc, Kiều trở lại sum họp với gia đình. Nàng từ chối khơng chắp nối mối dun
xưa cùng Kim Trọng mà họ trở thành bạn bè để giữ tình cảm cho được trong sáng
và đẹp đẽ. Truyện Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt
tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức,
đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó đề cao tình u tự do, khát vọng cơng
lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người.
Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo và hiện thực cùng nhiều ý nghĩa triết
học bởi thời đại Nguyễn Du khi ấy là thời đại đau khổ và oanh liệt bậc nhất trong
lịch sử Việt Nam, thời đại của chế độ phong kiến mục nát , thời đại của nhiều cuộc
khởi nghĩa nông dân liên tiếp, nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại đã lật đổ vua
chúa trong nước và chiến thắng hai mươi vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Nhưng
rốt cuộc xã hội Việt Nam thời ấy vẫn khơng thốt khỏi chế độ phong kiến. Với lời
khẳng định trên, tác giả đã cung cấp cho chúng ta thấy tình hình chính trị xã hội
7
thời đại Nguyễn Du đầy bất ổn và hôn loạn trong dân chúng cùng sự nổi dậy chưa
từng có của các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại giai cấp phong kiến. Xã hội
loạn lạc ấy là nguồn gốc của những suy tư văn học và sáng tác văn học. Bởi vậy mà
Truyện Kiều mới phản ánh được cảnh ngộ éo le của con người, thể hiện nhiều khát
vọng về tình yêu và lẽ sống, về đạo làm người, đồng thời đề cập đến nhiều phương
hướng giải quyết các vấn đề nhân sinh và xã hội góp phần hình thành nên tư tưởng
triết học trong tác phẩm.
Quan niệm của Nguyễn Du về cuộc đời chịu nhiều ảnh hưởng của nhân sinh
quan Phật giáo và Lão giáo. Trải qua nhiều biến cố dồn dập của cuộc sống, cuộc
đời trôi dạt nhiều nơi, tận mắt chứng kiến những sự kiện vật đổi sao dời, những
cảnh đời thương tâm, ngang trái…, Nguyễn Du thấm thía triết lý của đạo Phật coi
cuộc đời là vô thường. Thế giới của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã mang đậm tư
tưởng của thời đại khi ấy. Nguyễn Du đã xuất phát từ quan niệm duy tâm “đời là bể
khổ” để đi đến những nhận định về nhân sinh trên nền tảng tâm thế Việt – lấy tình
cảm, tình yêu thương làm chỗ dựa. Theo quan niệm của ông, cuộc đời là do số
mệnh sắp đặt trước, không thể tránh khỏi, "trời" được nhắc đến nhiều lần như một
nghệ nhân nhào nặn nên số phận con người:
“Ngẫm hay mn sự tại Trời”
Trời kia đã bắt làm người có thân như Thuý Kiều hồng nhan thì bạc mệnh:
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (83-84)
Hay
"Rằng hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu" (107-108)
Trước số phận đau khổ của mình, phản ứng đầu tiên của Kiều là ốn thán. Khi tìm
cách biện minh cho mình hoặc khi khơng hiểu ngun do bất hạnh của mình, Kiều
ốn trách Trời kia đã gieo rắc lên nàng mọi khổ đau. Đó là một thái độ ta thường
gặp, bởi theo quan niệm dân gian, khơng có lẽ gì mà "ở hiền" lại khơng "gặp lành":
“Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại ḅc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho Trời đất ghen”
Bên cạnh quan niệm số mệnh, trời đất sắp đặt, Nguyễn Du còn quan niệm
với luật “tài mệnh tương đố” là một trong những “luật đời” khiến con người chịu
8
nhiều đau khổ nhất, mặt khác, con người vẫn có thể cải hoá được số phận nếu nỗ
lực tu tâm, hành thiện. Quan niệm về số phận con người là sự cụ thể hoá nhân sinh
quan ấy. Nguyễn Du cho rằng, thân phận mỗi người là sự tồn tại theo duyên cảnh,
là tất nhiên và mang tính tiền định, điều đó được tác giả Truyện Kiều thể hiện qua
những câu thơ :
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Hay :
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Đối với ơng, một mặt, sự đối lập giữa tài năng và số phận (luật" “tài mệnh tương
đố”) là sự bất công cơ bản và lớn nhất; mặt khác, con người vẫn có thể cải hố
được số phận nếu nỗ lực tu tâm, hành thiện. Chữ phận được tác giả nhắc đi nhắc lại
tới 42 lần. Mỗi lần có một ngữ nghĩa khác nhau. Phần lớn chữ phận được nằm
trong các cặp câu lục bát diễn tả tâm trạng của nàng Kiều. Tài là khả năng, là năng
lực của mỗi con người. Mệnh là tính quy định đã có sẵn trước khi mỗi con người
sinh ra trên đời, mang tính ấn định, khơng thể thay đổi về số phận của mỗi con
người. Như vậy, mỗi cá nhân sinh ra trên đời, bất chấp khả năng, năng lực tài giỏi
hay hạn chế đến đâu, đều có một số mệnh định sẵn, xác quyết số phận của họ là
khổ đau hay hạnh phúc, sung sướng hay lầm than. Thậm chí, người càng tài giỏi thì
số mệnh lại càng éo le, bạc bẽo, đa đoan và ngược lại. Bên cạnh đó, chủ nghĩa duy
tâm trong Truyện Kiều cuả Nguyễn Du còn được thể hiện ở tư tưởng cái thiện sẽ
chiến thắng cái ác như quan niệm bao đời nay về nhân quả, số mệnh, kẻ ác sẽ bị
trừng bị còn người tốt sẽ được báo ân, con người sống có đức độ được đền bù, cịn
kẻ sống bạc ác sẽ bị trừng phạt ngay. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, những kẻ đã
chà đạp lên hạnh phúc và nhân phẩm của con người như: Hoạn Thư - con quan Lại
bộ nhưng độc ác, tàn nhẫn, đã hành hạ Thúy Kiểu để thỏa lòng ghen tức hay Mã
Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh , Tú Bà,… tất cả đều bị Thuý Kiều trừng
trị:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
Nàng cũng trả ơn cho Thúc Sinh, người đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng
thoát khỏi cảnh đời ô nhục, để nàng cũng được trải qua những ngày tháng tạm thời
9
yên ổn. Và chính bản thân Kiều sau bao trắc trở cuối cùng cũng được trở về nhà
đoàn tụ với gia đình.
Nguyễn Du ảnh hưởng của thời đại bấy giờ một cách mạnh mẽ phải chăng
chính vì vậy mà trong đứa con tinh thần của mình, thế giới quan của ông mang màu
sắc tôn giáo sâu sắc, đặc biệt là Phật giáo. Trong Truyện Kiều, cuộc đời gian truân
của nàng Kiều được thuyết lý bằng “tài mệnh tương đố”, tiền oan nghiệp chướng
(duyên nghiệp nhân quả), và tình là dây oan của đạo Phật. Qua nội dung Truyện
Kiều có thể nói được rằng, Nguyễn Du là nhà thơ tiến bộ, trước khi là triết học duy
tâm. Trong xã hội cũ, cuộc đời là bể khổ. Truyện Kiều phản ánh rõ cuộc sống phức
tạp đó. Nguyễn Du đã đi từ “Tài mệnh tương đố” và “bỉ sắc tư phong” của Nho
giáo đến “nghiệp báo”, “luân hồi” của Phật giáo; từ trung, hiếu, tiết, nghĩa của
Khổng Tử đến “lòng “từ bi bác ái” và “tu nhân tích đức” của Thích Ca. Đối với
nàng Kiều, nghiệp, tướng số, bạc mệnh, là một lực lượng siêu nhiên nào đó bắt
nàng phải đau khổ, khơng được chết, không được đi tu để trốn nợ đời, khi chưa đền
bù tội lỗi. Chính vì thế cái nghiệp của nàng Kiều khơng thốt khỏi vịng trói buộc
của tạo hóa:
Sớ cịn nặng nghiệp má đào,
Người dù ḿn quyết trời nào đã cho.
Nàng tin như vậy, và nàng phải chịu cái số mệnh như thế. Tuy Đạm Tiên là sứ giả
của số mệnh nhận xét đạo đức của Kiều theo lễ giáo tiết hạnh của Nho gia, nhưng
tác giả Truyện Kiều không chỉ thuần túy dựa vào đạo Nho, mà ông còn là nhà thơ
đa sầu, đa cảm, đã từng trải nghiệm những đau đớn của cuộc đời. Cho nên ông lợi
dụng triết lý Nho gia để đay nghiến “tài mệnh tương đố”. Làm như vậy, Nguyễn Du
mới thỏa mãn được nỗi lịng căm giận của mình đối với mệnh, hay nói đúng hơn là
đối với xã hội phong kiến. Để xoa dịu và an ủi nỗi khổ đau cá nhân, Nguyễn Du
vận dụng triết lý đạo Phật. Khi tâm trạng con người khi day dứt, khi nàng Kiều
đang sợ hãi trước một cuộc sống đầy rẫy bất cơng thì triết lý đạo Phật mang chất bi
quan yếm thế lại trỗi dậy trong tâm trạng bất an của con người, nhất là phụ nữ, nạn
nhân cực khổ nhất của xã hội phong kiến, cũng là nạn nhân khổ cực nhất của thời
đại Nguyễn Du. Triết lý chủ yếu của Truyện Kiều nằm ẩn dưới triết lý “mệnh”,
“nghiệp”, tài- mệnh, và báo ân báo ốn. Qua tính chất khơng thuần nhất của triết lý
Phật giáo trong Truyện Kiều, chúng ta thấy trí tưởng tượng định mệnh cũng như tư
tưởng tài - mệnh - tâm vừa day dứt lòng mà lại dễ bác bỏ, dễ phủ định bởi cái xã
hội của nó. Ở Truyện Kiều quan hệ giữa người và người là những quan hệ xã hội
gắn liền với vị trí xã hội, với tâm lý riêng của từng người. Tất cả những điều liên
quan ấy tạo tiền đề cho chúng ta tìm đến những mâu thuẫn phức tạp trong nhân vật
Thúy Kiều, trong thế giới quan phức tạp của Nguyễn Du, để rồi xác định chân giá
trị Truyện Kiều là chủ nghĩa nhân đạo của nhân dân ta.
10
Vì thế giới quan trong Truyện Kiều là một thế giới quan tôn giáo và quan
niệm của Nguyễn Du là một quan niệm duy tâm mà dường như, Nguyễn Du đã
thừa nhận sự tồn tại của một đấng siêu nhiên nào đó, như Phật, hay hồn ma Đạm
Tiên. Trong xã hội Truyện Kiều, những con người như Kim Trọng, Thúy Vân, Thúc
Ông, bà mẹ Kiều v.v… đều tin vào mọi thứ tôn giáo, nghĩa là tin vào sức mạnh của
thần linh sẽ diễn ra qua lễ tảo mộ, hội Đạp Thanh, ma chay, cầu hồn, thề nguyền.
Những thầy bói, thầy cúng, những đạo cô, bà vãi và cả trời, Phật, ma, đều nghĩ và
làm như nhau cả. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, nhất là xã hội của thời đại
Nguyễn Du thì những thứ tơn giáo, triết lý, đạo đức hỗn tạp ấy đều thống nhất với
nhau trong một hoàn cảnh chung của thời đại thống trị bất nhân, lừa lọc, hại người.
Bản chất con người theo quan niệm thế giới tôn giáo là kẻ cầu xin và kẻ phục tùng,
con người hoàn toàn theo một thế lực siêu nhiên nào đó, điều đó cũng được thể
hiện trong Truyện Kiều là con nggười tin vào số mệnh, thần Phật, trời đất nhưng
trong Truyện Kiều, bản chất con người được thể hiện ở một khía cạnh khác của tơn
giáo đó là thể hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi số mệnh,
hướng đến cuộc sống hạnh phúc. Thuý Kiều gắn với “hồng nhan bạc mệnh” gặp
biết bao trắc trở, nương nhờ cửa Phật tới hai lần, dù có trải qua những gì thì cuối
cùng sau 15 năm xa cách, nàng cũng được trở về, đoàn tụ với gia đình. Cuối cùng
thì ở hiền cũng gặp lành như quy luật cuộc đời, quan niệm của Phật giáo ngàn năm
khơng thay đổi.
Những con người dưới ngịi bút của Nguyễn Du đã thể hiện rõ vai trị của họ,
đó là phản ánh thế giới đương thời ấy. Đó là một xã hội bị chi phối bởi thế lực của
quan lại là thế lúc của đồng tiền.Trong Truyện Kiều, đồng tiền len lỏi vào khắp
chốn, khắp nơi, vào mọi tầng lớp xã hội, chi phối tâm lý một bộ phận lớn những
con người trong cái xã hội này. Ở đay quan lại có kẻ vì tiền mà hành hạ con người,
nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn bn thịt bán người tất cả vì tiền mà bày
biện ra trăm phương nghìn kế bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem thân ra làm món
hàng để bn bán cho chúng kiếm chác. Gia đình viên ngoại họ Vương là tầng lớp
tiểu phong kiến, nhưng bản thân họ lại không ở cương vị thống trị. Đứng về mặt
ngôi thứ trong toàn bộ xã hội họ cũng chỉ là một thành phần trung gian. Và họ cũng
bị những thành phần thống trị, quý tộc quan liêu, đàn áp. Thúy Kiều là nhân vật
chính đồng thời là nhân vật nổi bậc nhất, được Nguyễn Du tập trung khắc họa toàn
diện. Ở nàng là hội tụ tuyệt vời của tài năng và sắc đẹp. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Du, Thúy Kiều hiện lên với vẻ đẹp tuyệt diệu, vượt lên trên mọi giới hạn, tài năng
cũng ở mức vượt trội hơn người. Nhưng nàng cũng chứa đầy đủ những gì đau khổ,
tủi nhục nhất của con người. Nàng là đại diện tiêu biểu của hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam trong xã hội cũ. Kim Trọng ta nhận thấy hình ảnh mẫu mực hội tụ đầy đủ
phẩm chất của người đàn ông trong xã hội phong kiến: nhân- nghĩa- lê- trí- tín.
Những kẻ ác như Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh đại diện cho
những kẻ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến
11
suy tàn, thối nát, chỉ biết chạy theo đồng tiền "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng
xong!". Ðại diện cho giới cầm quyền cai trị thì trên có quan tổng đốc đại thần Hồ
Tơn Hiến, dưới có quan huyện Lâm Truy "mặt sắt đen sì", thấp hơn thì có những
sai nha "đầy nhà vang tiếng ruồi xanh" trong vụ tai biến Vương-gia, những viên
thư lại ở chốn công-đường như viên lại già họ Ðô bên cạnh một tên "thổ quan"
trông coi sắc dân thiểu số. Tơn giáo thì có bà vãi Giác-Dun, sư Tam Hợp, có
Ðạm Tiên thuộc thế-giới vơ hình nói thay cho Nguyễn Du về tư tưởng tự do và định
mệnh. Còn Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng là kiểu nhân vật anh hùng, khí phách
phi thường, sự nghiệp vĩ đại. Từ Hải đại diện cho công lý và chính nghĩa trong xã
hội. Tất cả những con người trong câu chuyện của Nguyễn Du đều đã được thể hiện
rõ vai trò của họ đối với thế giới mà Nguyễn Du xây dựng lên, một xã hội phong
kiến loạn lạc bị chi phối bởi sức mạnh của đồng tiền, cũng như tư tưởng phóng
khống của tầng lớp thị dân, đồng tiền và quyền lực chi phối các giá trị của cuộc
sống, trở thành mục tiêu để vua quan trành giành quyền lợi, chém giết lẫn nhau.
Thế giới hiện ra qua các nhân vật như thể ta được chứng kiến tận mắt cảnh bãi bể
hóa nương dâu, cảnh sống xa hoa, đồi trụy cũng như sự thống trị dã man, tàn ác của
giai cấp phong kiến, cảnh đau khổ vì nghèo đói, cảnh đày đọa và những áp bức bất
công của đại đa số quần chúng nhân dân khi ấy.
Qua một tác phẩm mang đầy giá trị nhân sinh và tư tưởng triết học, Nguyễn Du
cũng muốn truyền tải nhiều thông điệp đối với nhân loại. Trước hết là được sống,
phải sống, dù bằng những giá đắt nhất (phải vào lầu xanh, làm lẽ, tạm lánh…).
Nhưng sống thì phải được yêu, cho nên Kiều mới xăm xăm, mới chờ đợi, mới dễ bị
lừa và sẵn sàng chấp nhận những tình yêu mới, dù những con người đến với Kiều
rất khác nhau. Ngay cả trong lầu xanh ấy, khi Tú Bà dạy Kiều
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
,Kiều cũng chấp nhận "gót đầu vâng dạy mấy lời" và Nguyễn Du không hề trách
nàng. Bên cạnh đó cịn dạy ta phải cố gắng vượt qua khổ đau, tìm kiếm hạnh phúc.
Có người nói Nguyễn Du ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo. Không ai phủ
nhận điều đó, nhưng ơng khơng tìm thấy ở Cửa Phật hạnh phúc và con đường giải
thoát. Bằng chứng là Thúy Kiều đến tu ở chùa Giác Duyên mà vẫn khơng xong.
Bởi Nguyễn Du muốn ta phải tự tìm kiếm hạnh phúc, không một sức mạnh siêu
nhiên hay thứ gì có thể tự mang hạnh phúc tới cho ta. Qua đó là niềm cảm thơng
sâu sắc tới những số phận bất hạnh, tiêu biểu trong đây là người phụ nữ, những nỗi
đoạn trường cứ bám lấy cuộc đời Thúy Kiều như một định mệnh, không cho nàng
được sống thanh thảnh, vui vẻ, dù là ngắn ngủi.
Đào Duy Anh từng nói “Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền
móng cho ngơn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người
12
đặt nền móng cho ngơn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của
Nguyễn Du, có thể nói rằng ngơn ngữ VN đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và
đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”. Phải vậy, Truyện Kiều đã mang
trong nó những giá trị nghệ thuật và triết học sâu sắc với những quan niệm, thông
điệp và một thế giới quan đầy mới mẻ của Nguyễn Du. Truyện Kiều đã đang và sẽ
ln là là hịn ngọc sáng nhất và là đỉnh cao chói lọi nhất của tiếng nói Việt Nam,
của văn học dân tộc với những giá trị đi mãi với thời gian.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Triết học Mác Lê-nin
Truyện Kiều- Nguyễn Du
/> /> /> /> />
13