Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phan thi V TCLLCT HC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.1 KB, 16 trang )

PHẦN IV:
VẤN ĐỀ 1:
Chiến lược Bảo Vệ Tổ Quốc trong tình hình mới
(Tài liệu chỉ dùng tham khảo chủ động kết hợp giáo trình)
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) của Đảng và Nhà nước xác
định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng – an ninh để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững hịa bình, ổn định đất nước;
ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hịa bình”, bạo loạn
lật đỗ, ly khai, can thiệp, xâm lược của giặc ngoài, thù trong, phục vụ cho sự nghiệp
CNH – HĐH, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
"Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" được Đảng ta xác định trong
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khoá IX) khai mạc ngày
2/7/2003; Sau 10 năm thực hiện, ngày 25/10/2013 tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng
lần thứ 8 (khoá XI) đã ra Nghị quyết số 28-NQ/TW về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới". Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu,
kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa
kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương
châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình
hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế với các nội dung cơ bản sau:
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với sự nghiệp BVTQ. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu,
rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng
là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ
XHCN ở nước ta.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói
chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh


những mặt mạnh, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, Các hiện tượng tham
nhũng, lợi ích nhóm, mất đồn kết nội bộ,… tuy đã được khắc phục một bước, nhưng
vẫn còn diễn ra, làm cho lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị
giảm sút. Do đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ,
ngồi mục tiêu chung, còn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt.
Trong đó, mục tiêu đầu tiên là “Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, Nghị quyết
đề ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính trị nội bộ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về cơng tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, củng cố lòng tin của nhân dân với
Đảng, Nhà nước; đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ


BVTQ; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức
trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đối với dân tộc
ta, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai
ngọn cờ: độc lập dân tộc và CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã
chứng minh, chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới
có độc lập dân tộc thực sự và sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể
hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mơ hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và
cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được
Đảng ta đặc biệt coi trọng và trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân,
nhất là đối với kiều bào ta ở nước ngồi.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ
giữa BVTQ với các yếu tố tự nhiên, lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ

Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Như vậy có thể khẳng định bất luận trong
hoàn cảnh nào, toàn Đảng, tồn dân, tồn qn cũng phải ln kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH.Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta.
Ba là, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của
nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ.Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để
chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao
gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là
yếu tố quyết định. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của
nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ địi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật
thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc
trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân
dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ
sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn
định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, lịng tin của nhân
dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đồn kết tồn dân tộc, bảo đảm ổn định
chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
Bốn là, giữ nước phải giữ từ thời bình. Kế thừa tư tưởng “giữ nước từ khi nước
chưa nguy”, Đảng ta đã khơng ngừng phát triển, hồn thiện tư duy, nhận thức của mình
về BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời bình
là một trong những quan điểm cơ bản. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng
định: “giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao
nhất của đất nước”. Như vậy, theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến tranh hoặc
hoạt động liên quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước tối ưu là
làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa,
chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất nước đang hịa bình và phát triển; thực hiện ngăn
ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI)
cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục,

phịng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành
vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên
trì giải quyết bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ


phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu
tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác.
Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo,
chiến tranh mạng; khơng để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối
lập trong nước.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của
bạn bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta. Phát huy
truyền thống này, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về
bạn, thù trước đây đến việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có
cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và
đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần
phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác.
Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi
cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng
đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực hiện “trong ấm,
ngoài êm”, thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng
ta cần “quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế.Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt
thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược
giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng
giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc”.
Sáu là, xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng
chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nịng cốt cho tồn
dân trong sự nghiệp BVTQ. Chúng ta đều biết, sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp,

trong đó có sức mạnh quân sự.Trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước cũng phải
thông qua sức mạnh quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên chiến trường; cịn trong
thời bình thì sức mạnh qn sự chính là khả năng răn đe hiệu quả trong các tình huống
quốc phịng, an ninh, BVTQ. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh việc tăng
cường sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước,
vừa đủ sức BVTQ trong mọi tình huống. Để xây dựng sức mạnh quân sự phải coi trọng
nhiều yếu tố; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực tiếp là Quân đội
nhân dân vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng, nâng cao chất
lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính trị, bảo đảm
cho lực lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin
cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn,
cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại, nhất là một số vũ khí
chiến lược; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm soát
vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình
huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự
vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; đồng
thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân
dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.
VẤN ĐỀ 3:
Vì sao phải tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh trong giai đoạn mới


Kết hợp quốc phòng với an ninh là chủ trương, đường lối, quan điểm của
Đảng ta. Đây là quan điểm, chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, tiếp tục
được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta nêu
rõ: “Gắn kết quốc phòng với an ninh. Kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với
phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, trong công tác quy hoạch, kế
hoạch và các chương trình, dự án”[1]. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc
phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
và tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân là nịng cốt”[2].
Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và
khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp
hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vì vậy, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải
thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh vững mạnh, bảo đảm
cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống, đủ sức đập tan mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tình hình mới cũng đặt ra yêu cầu
rất cao sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa quốc phòng và an ninh.
Quốc phòng và an ninh là hai thành tố quan trọng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, biểu
trưng sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Kết hợp quốc phòng với an ninh là yêu cầu
khách quan, trở thành quy luật đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Tư duy của Đảng ta về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh bao
giờ cũng là tư duy về sự kết hợp nhuần nhuyễn các lĩnh vực, luôn đặt chúng trong mối
quan hệ chặt chẽ, hài hòa, hỗ trợ lẫn nhau; nhưng có phân cơng, phân nhiệm rõ ràng,
nhằm hướng đích huy động được cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc, của các cấp, các
ngành, các lực lượng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh.
Trong các thời kỳ đất nước tiến hành chiến tranh giải phóng, Đảng và Nhà nước ta ln
trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề quốc phịng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đã giải quyết thành cơng kết hợp thế trận quốc
phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhằm vào đối tượng đấu tranh chủ
yếu của nhân dân ta lúc đó là kẻ thù xâm lược nước ngoài cùng bọn tay sai phản động ở
trong nước. Qua 30 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, thành tựu cơ bản, bao
trùm về kết hợp quốc phòng với an ninh được biểu hiện đó là: góp phần quan trọng giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, nâng cao vai trị

và uy tín lãnh đạo của Đảng; giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa; củng cố lòng tin của
nhân dân vào sự nghiệp đổi mới; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng
quan hệ đối ngoại, tăng cường thế và lực của đất nước trên trường quốc tế.


Trong tình hình mới, sự kết hợp quốc phịng với an ninh của đất nước ta phát triển đa
dạng, đa chiều hơn so với các thời kỳ trước đây; biểu hiện ở nội dung phương hướng,
nhiệm vụ được Đảng ta nêu trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII: “Mục tiêu trọng yếu
của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định chính trị,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”[3]. Như vậy, nội hàm nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc ngày nay có những phát triển mới, đã quy định sự đa dạng của phương thức, nội
dung, biện pháp kết hợp quốc phịng với an ninh.
Để góp phần tăng cường hiệu quả kết hợp quốc phòng với an ninh, bảo vệ Tổ quốc
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước
hiện nay, cần chú trọng thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng ta về kết
hợp quốc phịng với an ninh trong tình hình mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Kết hợp quốc phòng với an ninhvừa là quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng, vừa
là phương thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Đẩy
mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng về kết
hợp quốc phịng với an ninhtrong tồn xã hội, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên
giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội,
thống nhất cả nhận thức và quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
Thực tiễn cho thấy, triển khai thực hiện quan điểm, chủ trương chiến lược của Đảng về
kết hợp quốc phòng với an ninh trước hết là trách nhiệm của Quân đội nhân dân và
Cơng an nhân dân, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý nhà
nước của Chính phủ giữ vai trò quyết định. Nhưng sự kết hợp quốc phòng với an ninh

chỉ đạt được hiệu quả cao khi mỗi tổ chức, mỗi công dân trong xã hội đều có nhận thức
đầy đủ và phát huy tốt vai trị, trách nhiệm của mình trong xây dựng nền quốc phịng
tồn dân và nền an ninh nhân dân. Vì vậy, cơng tác tun truyền, giáo dục về kết hợp
quốc phịng với an ninh trong tình hình mới cần tập trung vào các nội dung:
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới”; nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh được khẳng định trong
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Chỉ thị số 07/CT-TW ngày 03/10/2011
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo thực hiện Nghị quyết 28-NQ-TW ngày
22/9/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Trong quá trình thực
hiện, Bộ Quốc phịng và Bộ Cơng an cần chú trọng phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ,
ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương, phát huy tốt vai trò nịng cốt trong xây
dựng nền quốc phịng tồn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh.
- Đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 12/CT-TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị (khóa VIII)
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác giáo dục quốc phịng - an ninh
trong tình hình mới; Nghị định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về
cơng tác giáo dục quốc phịng - an ninh. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tăng
cường phối hợp trên tất cả các mặt hoạt động, tạo nên hợp lực mạnh mẽ để góp phần
quan trọng đưa các văn bản pháp luật về giáo dục quốc phịng và an ninh vào cuộc sống.
Trong q trình tiến hành cơng tác giáo dục quốc phịng và an ninh, cần nắm vững quan
điểm chỉ đạo của Đảng ta là phải: “…Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc


độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hịa bình, ổn định, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới”[4].
- Các cơ quan thơng tấn báo chí - truyền thơng, các cơ quan Tun giáo, Mặt trận Tổ
quốc, đồn thể, cơ quan quân sự các cấp phát huy tốt vai trị trong cơng tác tun
truyền, giáo dục về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt nhiệm vụ

tuyên truyền về bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; nâng cao nhận
thức về đối tác, đối tượng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thơng qua đó tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ cả nhận thức và hành động của toàn dân, sự đồng thuận xã hội
đối với việc tăng cường kết hợp quốc phòng với an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.
Thứ hai, tăng cường kết hợp xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân trong tình hình mới.
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an
ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ
động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch;
ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm; sẵn
sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an tồn
thơng tin, an ninh mạng”[5]. Điều đó khẳng định xây dựng thế trận quốc phịng và thế
trận an ninh vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân là lực
lượng nịng cốt. Nội dung, phương thức kết hợp tăng cường quốc phòng và an
ninhđãđược tổ chức triển khai toàn diện cả về tiềm lực và thế trận. Vì vậy, thế trận quốc
phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn các tỉnh (thành phố) đã
được tổ chức, xây dựng bằng sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các địa
phương, nên từng bước đã tạo thế trận vững chắc trên từng hướng, từng khu vực phòng
thủ, đặc biệt trên các địa bàn chiến lược của đất nước.
Trong tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an
ninh nhân dân càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Việc tăng cường kết hợp xây dựng
thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân dưới ánh sáng Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, cần tập trung nghiên cứu thực hiện các vấn
đề chủ yếu sau:
- Kết hợp xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân phải
có trọng tâm, trọng điểm và đặt trong tổng thể mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế quốc phòng - an ninh - đối ngoại trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Đảng
và Nhà nước hiện nay.

- Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn về xây dựng lực lượng
và thế trận quốc phịng tồn dân gắn với xây dựng lực lượng và thế trận an ninh nhân
dân. Đẩy mạnh phối kết hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong cơng
tác nghiên cứu dự báo tình hình để có sự chuẩn bị ứng phó thích hợp, kịp thời và hiệu
quả trong xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
- Cơ quan tham mưu của Bộ Quốc phịng và Bộ Cơng an cần tiếp tục nghiên cứu đổi
mới, nâng cao chất lượng phối kết hợp công tác tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy hai Bộ,
để từ đó đề xuất các chương trình, kế hoạch, phương án phối hợp, hiệp đồng xử lý hữu


hiệu những vấn đề nẩy sinh liên quan tới lĩnh vực quốc phịng và an ninh nói chung và
xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân nói riêng.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật
về kết hợpquốc phòng với an ninhđáp ứng u cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng, có chức năng, nhiệm vụ
riêng; song cả quân đội và công an đều đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đây là hai lực lượng nòng cốt trong thực
hiện nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua,
hai lực lượng này đã chấp hành nghiêm các quy định pháp luật, nhất làQuyết định số
107/2003/QĐ-TTg (nay là Nghị định 77/2010/NĐ-CP) của Thủ tướng Chính phủ về
“Quy chế phối hợp giữa Bộ Cơng an và Bộ Quốc phịng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội trong tình hình mới”.
Trước những u cầu mới kết hợp quốc phòng với an ninh theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng, vấn đề quan trọng là phải kết hợp có chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Quân đội nhân dân với hoạt động của Cơng an nhân dân. Vì vậy, để tạo hành
lang pháp lý cho việc quản lý, điều hành của Chính phủ và cơ sở pháp lý để các bộ,
ngành, địa phương tổ chức thực hiện, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật và
các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh, kết hợp quốc phòng và an ninh với các

lĩnh vực khác của xã hội.
Trước mắt, Bộ Quốc phịng và Bộ Cơng an cần tăng cường phối hợp trong triển khai
thực hiện có hiệu quả Luật giáo dục quốc phịng và an ninh đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thơng qua ngày
19/6/2013. Đồng thời, hai Bộ phối hợp tiến hành đề xuất và làm nịng cốt tổ chức thực
hiện có hiệu quả quy chế phối hợp giữa các bộ trong Chính phủ và một số ngành kinh tế
chủ đạo, nhằm thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách mở rộng quan hệ đối
ngoại của Đảng và Nhà nước về quân sự, quốc phòng, an ninh; về xây dựng chiến lược
quốc phòng, chiến lược an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới./.
VẤN ĐỀ 4:
Kết hợp giữa kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
(Tài liệu chỉ dùng tham khảo chủ động kết hợp giáo trình)
Phát triển kinh tế gắn với QPAN là sự kết hợp chặt chẽ hoạt động của các linh
vực kinh tế-xã hội với QPAN thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước, trên từng
vùng và từng địa phương, dưới sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý, điều hành của nhà
nước; các lĩnh vực chủ động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợpch o quốc gia đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước bảo đảm chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị xã họi,
lợi ích quốc gia dân tộc luôn ở trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ.
* Cơ sở lý luận của việc kết hợp giữa kinh tế-xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh:
- Đây là những hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có chủ quyền, độc lập
dân tộc.
- Mối quan hệ giữa phát triển KT-XH với tăng cường QPAN:


Mặc dù vận động theo những quy luật đặc thù riêng, song giữa kinh tế và QPAN
có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau; kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định, là cơ sở của sức mạnh QPAN; QPAN chịu sự chi phối và phụ thuộc vào

kinh tế nhưng có tác động tích cực trở lại với kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát
triển
Hai hoạt động này mặc dù có thống nhất chung ở mục đích nhưng cũng có sự chế
ước lẫn nhau, vì thế việc gắn kết đó phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lý cân
đối và hài hịa thì cả 2 lĩnh vực kinh tế-xã hội và QPAN mới có thể cùng phát triển
mạnh lên được. Do đó, bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng vậy sẽ không thể kết hợp
QPAN vững mạnh nếu không bắt đầu tư việc xây dựng phát triển kinh tế-xã hội, nhưng
không phải cứ co skinh tế mạnh là tự khắc có QPAN mạnh mà phải thơng qua thực hiện
sự gắn kết hai lĩnh vực đó một cách chủ động, có ý thức giữa phát triển KT-XH với tăng
cường đầu tư cho QPAN.
- Quan điểm của Đảng ta: Đảng ta luôn xác định: xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc VN XHCN là 2 nhiệm vụ chiến lược của CMVN, vì thế phát triển
KT_XH gắn với QPAN chính là sự cụ thể hóa 2 nhiệm vụ chiến lược của CMVN xuyên
suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đây là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa M-L, là tiếp nối, kế thừa và
phát triern kinh nghiệm truyền thống “dựng nước phảir đi đôi với giữ nước”; là quan
điểm chiến lược bao trùm trong quá trình đưa đất nước ta đi lên CNXH .
* Cơ sở thực tiễn của việc kết hợp giữa kinh tế-xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh:
- Việc phát triển KTXH gắn với QPAN đã trở thành quy luật phổ biến ở mọi quốc
gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Ở nước ta, phát triển KTXH gắn với QPAN không
những là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật mà cịn là một truyền thống
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
- Đứng trước nguy cơ thường xuyên bị đe dọa, xâm lược và thơn tính của các thế
lực thù địch, để xây dựng và phát triển đất nước, ông cha ta đã có những chủ trương, kế
sách thực hiện sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc
phịng, an ninh trong q trình dựng nước và giữ nước.
Trong xây dựng, phát triển đất nước, đã sử dụng nhiều chính sách như khai hoang
lập ấp ở những nơi xung yếu để "phục binh sẵn, phá thế giặc dữ" từ xa ; phát triển nghề
thủ công để vừa sản xuất ra các công cụ sản xuất, vừa sản xuất ra các vũ khí, phương

tiện phục vụ cho toàn dân đánh giặc; chăm lo mở mang đường sá, đào sơng ngịi, kênh
rạch, xây đắp đê điều để vừa phát triển kinh tế, vừa tạo thế trận đánh giặc, cơ động lực
lượng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững
quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách nhất quán bằng
những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
+ Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng ta
đề ra chủ trương "Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm"; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành
chiến tranh nhân dân rộng khắp; "Xây dựng làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch
lui ta lại tăng gia sản xuất.


+ Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện
ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.
Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và xây dựng hậu phương lớn cho miền Nam
đánh giặc, miền Bắc đã xây dựng, phát triển chế độ xã hội mới, nền kinh tế, văn hoá
mới, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đồng thời kết hợp chặt chẽ với chăm lo
củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mĩ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mĩ xâm lược.
Ở miền Nam, Đảng chỉ đạo quân và dân ta kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch với
củng cố mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa miền Nam vững mạnh. Đây chính là
một điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng nước ta đi đến thắng lợi.
Trong giai đoạn này, việc kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động và thiết thực,
đã tạo được sức mạnh tổng hợp đánh thắng giặc Mĩ xâm lược và để lại nhiều bài học
quý giá cho thời kì sau.

+ Trong thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ năm
1975 đến nay), Đảng ta khẳng định kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh, phòng, chống tội phạm là một nội dung quan trọng trong đường
lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy
mơ rộng lớn hơn, tồn diện hơn.
- Trong thời gian vừa qua việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc
phòng, an ninh ở nước ta hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn cịn khó
khăn, hạn chế.
Thành tựu: Cùng với sự đổi mới về kinh tế, đổi mới chính trị, việc tổ chức thực
hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh đã đạt được
những kết quả quan trọng, tương đối toàn diện về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo cơ sở cho xây dựng
tiềm lực quốc phòng, an ninh bằng chính khả năng của nền kinh tế, nền kinh tế phát
triển nhanh, ổn định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả trung ương và địa phương theo
hướng CNH – HĐH đã gắn kết với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân, tạo điều kiện tốt hơn cho việc tăng cường tiềm lực quốc phịng, an
ninh tạo thuận lợi cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hạn chế: Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế cịn thấp, các cân đối vĩ mơ chưa thật vững chắc – kết cấu hạ tầng phát triển
chẩm, chất lượng thấp; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo
kịp yêu cầu phát triển. Văn hóa, xã hội có nhiều mặt cịn bất cập, một số vấn đề bức xúc
chậm được giải quyết, chất lượng nguồn nhân lực thấp, giáo dục – đào tạo, khoa học –
công nghệ chưa thực sự là quốc sách hàng đầu.Hội nhập quốc tế nhanh nhưng chưa tận
dụng tốt cơ hội để phát triển. Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội
gắn với quốc phòng, an ninh ở một số nơi còn chưa rõ, chưa đúng và chưa đầy đủ.
Yêu cầu kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QPAN trong giai đoạn hiện
nay: Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường. Vì vậy,
việc phát triển kinh tế -xã hội gắn với quốc phòng, an ninh là rất cần thiết, đòi hỏi cần
được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn cả lý luận và thực tiễn, phải tổ chức thực hiện chặt
chẽ, nghiêm túc năng động hơn với một tư duy đổi mới toàn diện, đồng bộ, nhất quán cả



về chủ trương quan điểm, nội dung, phương thức và giải pháp tổ chức thực hiện, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng với bối
cảnh thế giới đầy biến động, tiềm ẩn nhiều bất trắc, phức tạp, khó lường. Các thế lực thù
địch vẫn không ngừng tăng cường thực hiện âm mưu, hoạt động “Diễn biến hịa
bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cơng sản Việt Nam.
Trong khi đó ở trong nước cịn tồn tại, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, tình trạng tham
nhũng, quan liêu, hách dịch, biểu hiện xa rời mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội,“tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” đã và đang tác động ảnh hưởng
đến vai trị, uy tín lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, kết hợp giữa phát
triển kinh tế – xã hội với củng cố quốc phòng an ninh là hai nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Đề xuất một số giải pháp kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường quốc phòng, an ninh?
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử dân tộc ta, nước Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Từ đây,
chúng ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Kể từ sau thắng lợi vĩ đại này, việc bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc là một nhiệm vụ trọng yếu, luôn được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm, đặt lên hàng đầu. Từ đó đến nay, đặc biệt là những năm gần đây, dù phải trải
qua nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức nhưng chúng ta
vẫn giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để xây dựng và phát triển đất
nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm
lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Về lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đã đạt được những thành tựu cơ bản: thường
xuyên nắm chắc, đánh giá đúng tình hình các mặt, kịp thời tham mưu cho Đảng và Nhà
nước xử trí có hiệu quả các tình huống về quốc phịng - an ninh; nền quốc phịng tồn

dân, an ninh nhân dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
được xây dựng ngày càng vững chắc; tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đối ngoại quốc phịng
được triển khai tích cực theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cơng tác quốc phịng - an ninh
vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là dự báo
chiến lược có lúc, có việc, có mặt cịn chưa chính xác, thiếu chặt chẽ; nền quốc phịng
tồn dân được tăng cường nhưng chưa tồn diện và có mặt cịn chưa vững chắc; đầu tư
xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố chưa ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc; dự trữ cơ sở vật chất cho quốc phịng - an ninh chưa mạnh; cơng nghiệp quốc
phịng - an ninh phát triển chậm...
Để thực hiện tốt mục tiêu Nghị quyết đề ra, đồng thời phát huy những thành tựu
đạt được, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phịng - an ninh,
trong đó tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lí nhà nước của
chính quyền các cấp trong thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện trên các mặt:


+ Thường xuyên nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, kịp thời đề ra những
quyết định lãnh đạo ngành, địa phương mình, thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội
với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách đúng đắn.
+ Gắn chủ trương lãnh đạo với tăng cường kiểm tra việc thực hiện của chính
quyền, đồn thể, các tổ chức kinh tế thực hiện chủ trương đường lối về kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.
+ Tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để bổ sung chủ
trương và chỉ đạo thực thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng - an ninh ở ngành, địa phương thuộc phạm vi lãnh đạo của các cấp uỷ

đảng.
- Để nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước của chính quyền các cấp trong kết hợp
phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng - an ninh phải :
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các quy hoạch, kế hoạch kết hợp phát triển kinh
tế xã hôi với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh ở ngành, bộ, địa phương cơ sở
của mình dài hạn và hàng năm.
+ Đổi mới nâng cao quy trình, phương pháp quản lí, điều hành của chính quyền
các cấp từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch, nắm tình hình, thu thập xử lí thơng tin, định
hướng hoạt động, tổ chức hướng dẫn chỉ đạo cấp dưới và kiểm tra ở mọi khâu, mọi
bước của quá trình thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố
quốc phòng - an ninh ở ngành, địa phương mình.
Hai là: Bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết hợp phát triển kinh tế –
xã hội với tăng cường củng cố QP - AN cho các đối tượng:
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu và đang là đòi hỏi cấp thiết đối với cán bộ
và nhân dân cả nước ta hiện nay. Việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm kết
hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố QP – AN phải được thực hiện
nghiêm túc, khoa học, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương và tình hình
thực tiễn của trong nước và thế giới.
Ba là: Xây dựng chiến lược tổng thể kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh trong thời kì mới
Hiện nay, nước ta đã và đang xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội gắn
với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh đến năm 2020. Thực tiễn cho thấy, sự vận
dụng tính quy luật kinh tế, quốc phòng, an ninh và quán triệt quan điểm kết hợp của
Đảng đã đề ra còn nhiều mâu thuẫn và bất cập do thiếu định hướng chiến lược cơ bản cả
ở tầm vĩ mô và vi mô. Vì vậy, muốn kết hợp ngay từ đầu và trong suốt q trình đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước một cách cơ bản và thống nhất trên phạm
vi cả nước và từng địa phương, phải tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy hoạch và
kế hoạch chiến lược tổng thể quốc gia về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh. Coi đó là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để chỉ
đạo, quản lí nhà nước, về kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phịng,

an ninh một cách có hiệu lực, hiệu quả.
Trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch chiến lược tổng thể về kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thời kì
mới, phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương từ khâu khảo sát,
đánh giá các nguồn lực (cả bên trong và bên ngoài). Trên cơ sở đó xác định mục tiêu,
phương hướng phát triển và đề ra các chính sách đúng đắn, như : chính sách khai thác
các nguồn lực; chính sách đầu tư và phân bổ đầu tư; chính sách điều động nhân lực, bố
trí dân cư; chính sách ưu đãi khoa học và công nghệ lưỡng dụng....


Bốn là: Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có liên quan đến thực
hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phịng - an ninh
trong tình hình mới
Mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến
kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá thành luật pháp, pháp
lệnh, nghị định, văn bản dưới luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lí và tổ chức
thực hiện nghiêm túc có hiệu lực và hiệu quả trong cả nước.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách khai thác các nguồn lực và vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước để thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng
cố quốc phòng, an ninh; nhất là đối với các cơng trình trọng điểm, ở những địa bàn
chiến lược trọng yếu như miền núi biên giới và hải đảo.
Việc xác lập cơ chế chính sách, bảo đảm ngân sách cho kết hợp phát triển kinh tế
xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cần được xây dựng theo quan điểm
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân. Các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, các đồn thể xã hội đều phải có nghĩa vụ chăm lo
cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Việc phân bổ
ngân sách đầu tư cho kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố
quốc phòng, an ninh phải theo hướng tập trung cho những mục tiêu chủ yếu, những
cơng trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế xã hội và củng cố

quốc phòng – an ninh cả trước mắt và lâu dài.
Phải có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức,
cá nhân, các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) có các đề tài khoa học, các dự án cơng
nghệ sản xuất, xây dựng có ý nghĩa lưỡng dụng hố cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới.
Năm là:Củng cố kiện tồn và phát huy vai trị tham mưu của cơ quan chuyên
trách quốc phòng, an ninh các cấp:
Cần nghiên cứu bổ sung mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
chuyên trách quản lí nhà nước về quốc phịng, an ninh nói chung và về kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố quốc phịng, an ninh nói riêng trong
thời kì mới.
Kết hợp chặt chẽ giữa chấn chỉnh, kiện tồn tổ chức với chăm lo bồi dưỡng nâng
cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ chuyên trách làm tham mưu cho
Đảng, Nhà nước về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường
củng cố quốc phòng, an ninh ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kì mới.
Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh là
một tất yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước
của Đảng ta, nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có sự
phối hợp của các ngành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của Nhà nước, tạo
nên sức mạnh tổng hợp cho phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
Để thực hiện tốt việc kết hợp, cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp,
trong đó phải quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam cho
toàn dân, nhất là cho học sinh, sinh viên - những người quyết định tương lai của đất
nước.


Sáu là: Quá trình kết hợp phải được triển khai có kế hoạch, có cơ chế chính sách
cụ thể, chặt chẽ, đồng bộ:

Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc phòng với an ninh
và đối ngoại là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp củng cố quốc
phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc, thực chất là thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
cách mạng của nước ta. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, quốc
phòng với an ninh và đối ngoại là đường lối, quan điểm xây dựng nền quốc phịng tồn
dân thơng qua các hoạt động kinh tế – xã hội, xây dựng đất nước lấy ổn định và phát
triển mọi mặt đời sống xã hội làm nền tảng. Đây là một vấn đề trở thành truyền thống
của dân tộc, phù hợp với đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối quốc phịng
tồn dân, chiến tranh nhân dân. Kết hợp với kinh tế quốc phòng, quốc phòng với kinh
tế quốc phòng với an ninh và đối ngoại là nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển
kinh tế củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn đất
nước và an ninh quốc gia, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và mọi thành
quả cách mạng.
Trong tình hình hiện nay có nhiều vấn đề đặt ra phải giải quyết đòi hỏi chúng ta
phải phát huy cao độ tinh thần tự lực, tự cường và tranh thủ điều kiện quốc tế để thực
hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
bảo đảm ngày càng tốt hơn cho củng cố quốc phòng vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. đó là nhiệm vụ của tồn dân, tồn qn, của mọi ngành, mọi cấp
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước.
VẤN ĐỀ 5: Quan điểm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(Tài liệu chỉ dùng tham khảo chủ động kết hợp giáo trình)
Mục tiêu và quan điểm CNH, HĐH găn với phát triển kinh tế tri thức
a. Mục tiêu CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
- Mục tiêu lâu dài: của CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là cải biến
nước ta thành một nước cơng nghiệp nó có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiên bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh xã hội công bằng - dân chủ - văn minh.
- Đại hội X của Đảng đã xác định:
Mục tiêu của CNH – HĐH là đẩy mạnh CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức

để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước CNH theo hướng hiện đại.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định chủ trương trên và cụ
thể hóa thành các tiêu chí sau:
+ Ra sức phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công
nghiệp với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt trội hơn các ngành khác.
+ Mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 – 8%/ năm; tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP.
+ Giá trị sảm phẩm công nghệ cao, sản phẩm ứng dụng công nghệ đạt khoảng
45% trong tổng GDP
+ Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản
xuất cơng nghiệp.
+ Nơng nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, nhiều sản phẩm
có giá trị gia tăng cao.


+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ câu lao động; tỷ trọng lao
động nông nghiệp khoảng 30 – 35% lao động xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII điều chỉnh các chỉ tiêu cụ thể cho phù
hợp với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
+ Mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại đã được xác định từ Đại hội VIII của Đảng và trên thực tế, 20 năm qua, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan nên nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu này
không đạt được. Trong 5 năm tới phải phấn đấu quyết liệt hơn, phát triển kinh tế nhanh,
bền vững để sớm đạt được mục tiêu này. Với quyết tâm phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những chỉ tiêu quan
trọng về mặt xã hội nhằm giải quyết tốt các vấn đề xã hội và hướng tới nền kinh tế tri
thức:
+ Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD,... tỷ lệ

lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt khoảng 65% - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực thành thị dưới 4%”(18).
- Từ nay đến giữa thế kỷ XXI toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
b. Quan điểm CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
- Một là: CNH phải gắn với HĐH và CNH phải gắn với phát triển kinh tế tri
thức.
+ Tri thức là nguôn nhân lực quan trong nhất quyết định sự tăng trưởng, phát
triển kinh tế.
+ Các ngành kinh tế tri thức ngày càng tăng và chiếm đa số.
+ Công nghệ thông tin được ứng dung rộng rãi trong mọi lĩnh vực.
- Hai là: CNH–HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH trọng tậm trong suốt thời kỳ quá độ.
+ Mục tiêu CN, HĐH là xây dựng cơ sỡ vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân.
+ Ưu tiên phát triển CN - Coi CNH, HĐH nông nghiệp nặng nông thôn là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, chú ý phát triển công nghiệp nhẹ.
- Ba là: Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh bền vững.
+ Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ
tồn tại dưới dạng tiềm năng, Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai
thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vơ tận. Trí
tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được vật thể hố, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp.
+ Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta => sự thành công
của CNH- HĐH phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
+ “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết địnhđẩy mạnh phát triển và ứng
dụng KH-CN, cơ cấu lại nền kinh tế chuyển đổi quy môn tăng trưởng và lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất, bảo đảm chosự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”.


- Bốn là: Coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực CNH –
HĐH.
+ Nghị quyết trung ương II của ban chấphành trung ương Đảng khóa VIII chỉ
rõ:“Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcphải dựa vào khoa học công nghệ. Khoa học
công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”.
+ Chủ động sử dụng có chọn lọc các công nghệ tiên tiến phù hợp với thế mạnh
của đất nước.
+ Tập trung nỗ lực cải tạo đồng bộ hóa hiện đại hóa có chọn lọc các cơ sở sản xuất
hiện có. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kĩ thuật cơng nghệ của các xí nghiệp vừa và
nhỏ, các khu vực tiểu thủ công nghiệp ở thành thị và nông thôn.
+ Đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển
công nghệ nội sinh. Các biện pháp cần thực hiện khi áp dụng KH- CN vào quá trình
CNH- HĐH đất nước
- Năm là: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học.
+ Đại hội lần thứ X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển.
Tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại hội lần thứ IX Đảng đã
đánh dấu bước phát triển mới trong chỉ đạo về vấn đề này trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VII (6- 1993) về
phát triển nơng nghiệp, xây dựng nơng thơn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa
VII (7-1994) về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa- Phát triển kinh tế đi đôi với việc thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của

sự phát triển xã hội. Để CBXH trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với
hưởng thụ.
+ Thực hiện mục tiêu TTKT và CBXH trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa
phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
VẤN ĐỀ 6: Quan điểm DÂN TỘC TÔN GIÁO
(Tài liệu chỉ dùng tham khảo chủ động kết hợp giáo trình)
II: Nội dung quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với
tôn giáo?
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo:
Cùng với vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng là lĩnh vực rất phức tạp, nhạy cảm trong
bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay. Để đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của
một bộ phận nhân dân, việc quan tâm thực hiện có hiệu quả cơng tác tơn giáo là một địi
hỏi thường xun đặt ra đối với Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo, điều hành
đất nước, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
K/n Tơn giáo: Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là sự tự ý thức, tự cảm
giác của con người về thế giới xung quanh mình và về chính bản thân họ. Là sản phẩm
của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định.
Theo tinh thần Nghị quyết 25-NQ/TW ngay 12/3/2003 của BCHTW Đảng khóa
IX đã đề ra 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo đó là:


Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Tuy nhiên, tín
ngưỡng tơn giáo đang có những biến đổi mạnh mẽ trước biến động của thế giới, của xu
thế toàn cầu và sự phát triển của đất nước. Vì vậy, quán triệt quan điểm này cần khắc
phục các biểu hiện: chủ quan, duy ý chí, phiến diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề
tôn giáo.
Hai là, Đảng và nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết dân tộc.

Đồng bào các tơn giáo là một bộ phận của đại đoàn kết dân tộc. Quán triệt quan điểm
này cần khắc phục các biểu hiện như phân biệt, đối xử, đố kỵ, mặc cảm vì lý do tín
ngưỡng, tơn giáo và kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo,
chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Đây là một tư tưởng chỉ đạo quan trọng nói lên thực chất của cơng tác tôn giáo gắn với
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Công tác vận động
gồm: Công tác giáo dục, công tác tổ chức phong trào quần chúng, tố chức các chương
trình phát triển kt – xh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương, cơ sở. Quán triệt
quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: hành chính, quan liêu, cựa quyền, xa rời
quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quàn chúng.
Bốn là, Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Cơng tác tơn
giáo liên quan đến mọi lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã hội, mọi ngành mọi cấp từ
trung ương đến cơ sở. Đảng là nhân tố lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị trong q
trình tiến hành cơng tác tơn giáo. Quan triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện:
thiếu cộng tác, phối hợp chặt chẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp hoặc buông
lỏng quản lý, lấn sân lẫn nhau.
Năm là,vấn đề theo đạo và truyền đạo. Nhà nước bảo hộ các hoạt động truyền đạo
đúng đắn, đồng thời chống lại mọi hoạt động truyền đạo trái pháp luật; nhà nước bảo hộ
chính đạo, đồng thời chống lại tà đạo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu
hiện như: can thiệp thô bạo và công việc nội bộ thùy túy tôn giáo; buông lỏng quản lý
trước các hành vi vi phạm các quy định của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tôn
giáo.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×