MỞ ĐẦU
Nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao
hưởng, bản hợp xướng của triết học phương Tây. Một giai đoạn lịch sử
khởi nguyên, tiềm tàng của triết học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ
thống triết học phương Tây sau này. Nền triết học trung cổ là khoảng lặng
của những phách nhạc thời gian trải qua hàng ngàn năm. Rồi mới được
thăng hoa lên những nốt thăng cung bậc là thời kỳ phục hưng. Đây là giai
đoạn quan trọng bừng dậy sau dấu lặng mà khoảng trắng quá dài. Từ
những âm ba của những nốt nhạc thăng trầm đó mà ta có cả nền triết học
cận và hiện đại như nay. Trong bản nhạc giao hưởng đầy tính bác học của
triết học phương Tây, mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hồng đó
là những trường phái triết học Hy Lạp cổ đại, nó bức ra khỏi những nốt
nhạc trời đầy màu sắc thần linh để khảy lên bằng chính đơi tay của người
phàm tục. Những đơi tay vàng ấy được phản ánh qua những triết gia dệt
nên những trang bất hủ bởi thời gian, một trong những đôi tay đẹp hơn tất
cả đôi tay thời bấy giờ là Platon.
Để hiểu rõ và nhận thức sâu sắc hơn về tư tưởng triết học của
Platon, trong học phần “Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại” em đã chọn đề
tài: “Tư tưởng triết học Platon” làm đề tài tiểu luận cuối môn học.
NỘI DUNG
I.CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA PLATON
Hy Lạp là cái nơi của văn minh phương Tây. Có thể coi triết học Hy Lạp
cổ đại là đỉnh cao của văn minh Hy Lạp, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học
châu Âu sau này. Trong triết học Hy Lạp trước Socrate chủ đề tự nhiên chiếm
ưu thế, cùng với nó là sự hình thành thế giới quan duy vật chất phác, sơ khai
chứng minh cho sự nỗ lực vượt qua ảnh hưởng của thần thoại, tôn giáo nguyên
thủy. Nhưng bắt đầu từ Socrate trở đi, cùng với những biến đổi phức tạp của
đời sống chính trị xã hội, sự khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, chiến tranh
và xung đột giữa các thị tộc... tạo khả năng khuyếch trương các học thuyết
thốt ly thực tại, tìm kiếm lời đấp cho con người “nằm ngoài con người”.Triết
học Platon ra đời trong hồn cảnh đó, đây giai đoạn phát triển cực thịnh của
triết học Hy Lạp, khai phá nhiều lĩnh lực nghiên cứu mới, những lĩnh vực mà
trước đây, trong thời kỳ “triết học tự nhiên” còn thống trị, chưa được phân tích
sâu sắc, góp phần đào sâu tính phân cực về thế giới quan. Platon, Aristote được
nhân loại biết đến không chỉ như những triết gia, mà cịn là những nhà văn hố
lớn của thế giới cổ đại. Nhưng cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật (“đường
lối Democritos”) và chủ nghĩa duy tâm (“đường lối Platon”) về bản chất và ý
nghĩa của tồn tại cũng trở nên quyết liệt, chi phối con đường vận động của triết
học phương Tây suốt bao nhiêu thế kỷ qua.
1.1.Cuộc đời
Platon tên thật là Aristocles (427 – 347 TCN), sinh tại một hịn đảo khơng
xa Athenes, đảo Egine. Thời trai trẻ Platon là con người vừa thông minh, vừa
khoẻ mạnh, từng hai lần đoạt danh hiệu vô địch điền kinh của thị quốc, được
người đời đặt cho cái tên Platon, tức “vạm vỡ”, “vai rộng”.
Platon xuất thân trong một gia đình chủ nơ q tộc nổi tiếng ở A-ten.
Chính vì vậy, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình, ơng tỏ
ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học. Platon là một
nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều
người coi ơng là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates - là thầy
ông.
Platon chứng kiến sự khủng hoảng ngày càng sâu sắc của nền dân chủ
chủ nơ. Chiến tranh, nghèo đói, q trình thay đổi đường lối chính trị tác động
khơng ít đến thiên hướng sáng tạo và phương pháp tiếp cận của ông đối với các
chủ đề triết học nền tảng.
Cuộc đời của Platon trải qua rất nhiều thăng trầm, “ba chìm bẩy nổi”. Ở
mỗi thời điểm, những nhận thức, quan điểm và tư tưởng của ông ngày càng sâu
sắc:
Thời thanh niên (409 – 400 TCN) ông chịu ảnh hưởng trực tiếp của
Socrate, cả về tư tưởng lẫn lối sống, quan điểm chính trị - xã hơi.
Thời viễn du (400 – 389 TCN) gắn với quá trình quan sát, thu thập, học
hỏi những tri thức khoa học từ nhiều nơi, nhằm định hình một thế giới riêng.
Khi Socrates chết vào năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi. Trong suốt
phiên tịa xử thầy mình, ơng ngồi dự ở phịng xử án. Tồn bộ chuỗi biến cố đó
dường như đã ăn sâu vào tâm hồn ông thành một kinh nghiệm chấn động, vì
ơng đánh giá Socrates là người giỏi nhất, minh triết nhất và chính trực nhất
trong tất cả mọi người. Từ đó Platon bắt đầu cho phổ biến một loạt các đối
thoại triết học trong đó nhân vật chính luôn luôn là Socrates, căn vặn những kẻ
đối thoại của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính trị, làm cho
họ mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ơng. Có lẽ Platon có hai động cơ
chính để làm việc này. Một là để thách thức và tái khẳng định những lời giáo
huấn của Socrates bất chấp chúng đã bị kết án một cách công khai; hai là để
phục hồi danh dự người thầy yêu quí của mình, cho mọi người thấy ơng khơng
phải là một kẻ hủy hoại giới trẻ mà là một bậc thầy danh giá nhất của họ. Sau
đó, Platon rời Athènes.
Trước tiên ông ở Megare, làm bạn với Euclide, người sáng lập ra trường
phái Mégare, chủ trương dung hoà Socrate với trường phái Elée. Sau đó, ơng
sang Crne, tiếp xúc với Aristippe và các nhà tốn học thuộc phái Pythagore.
Ơng sang cả Ai Cập, Phénicie, Ba Tư, Babylone. Năm 389 TCN, Platon tham
gia cố vấn chính trị cho bạo chúa Denys, vua xứ Syracuse, nhưng sau một thời
gian bị chính Denys bán làm nô lệ do mâu thuẫn cá nhân. Annikéris, mơn đệ
của Aristippe, chuộc ơng, rồi giải phóng.
Thời chín muồi về tư tưởng, hay thời Viện Hàn Lâm, được đánh dấu bằng
việc thành lập trường phái triết học riêng tại bắc Athens, ông sáng lập ra Viện
Hàn Lâm - (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở- trong khu vườn mang tên
Akademos, là tên một nhân vật thần thoại). Đây có thể được coi là trường đại
học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa
học và triết học. Môn sinh ở đây được trang bị những kiến thức cao nhất, tương
đương bậc đại học và sau đại học, gồm tốn học, chính trị, triết học. Suốt
quãng đời còn lại Platon chỉ chú tâm vào việc truyền bá tri thức khoa học, song
có lúc bị cầm tù và suýt mất mạng dưới tay bạo chúa Denys con.
Vậy là hai năm sau khi trở về Athens, Platon đã được biết đến như một
triết gia thật sự, một nhà tư tưởng kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình. Điều
này càng được thể hiện rõ trong bản thể luận (học thuyết Idea) và nhân sinh
quan (học thuyết về nước lý tưởng) tiêu điểm cho sự khen chê trong lịch sử.
1.2. Các tác phẩm
Trong gần 50 năm sáng tác, Platon để lại một di sản đồ sộ gồm: 1độc
thoại (lời bào chữa của Socrate), 34 đối thoại (kể cả chính văn và mạo văn), 13
bức thư (mạo văn), chia đều ra những thời gian khác nhau. Tác phẩm "Nước
cộng hồ" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông. Trong những
đối thoại thời trẻ, Socrate thường là nhân vật trung tâm, đóng vai trị hướng dẫn
và hồ giải các cuộc tranh luận, nên khó xác định đâu là quan điểm đích thực
của Socrate, đâu là quan điểm của Platon mượn danh Socrate. Điều chắc chắn
là thế giới quan của Socrate và Platon thống nhất với nhau.
Mấy năm cuối đời, Platon suy nghĩ nhiều về triển vọng của cuộc sống
nhân loại, về thiết chế xã hội lý tưởng, được trình bày trong Atlantic, Luật pháp
và một số tác phẩm khác.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học,
Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmơcrít và đường lối
duy tâm của Platon. Tư tưởng triết học của Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc các
yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xơcrát.
Ngồi những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trị
của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học
của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại. Ông đã xây dựng học
thuyết về ý niệm để chống lại chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự nhiên bắt
nguồn từ ý niệm.
II. TRIẾT HỌC PLATON
Platon không những nâng tư tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà cịn
khẳng định tính tất yếu của sự đối đầu duy vật – duy tâm trong triết học. Trong
Sophistes có đoạn: “Một số đưa mọi thứ từ trên trời và từ lĩnh vực của cái cơ
hình xuống mặt đất…, dứt khốt rằng chỉ những gì tiếp cận được, sờ được thì
mới tồn tại, và xem vật thể và tồn tại chỉ là một”, một số khác chủ trương “tồn
tại đích thực là những idea (ý niệm) phi vật thể và phi cảm tính nào đó” (A. N.
Tranysev: Bài giảng về Triết học cổ đại, Moskva, 1980, tr. 247). Chủ nghĩa duy
tâm, theo Platon, là một triết học “uyển chuyển”, vì nó thống nhất với thần
minh luận, còn chủ nghĩa duy vật là một triết học thô thiển, xa lạ, không tin vào
sự linh thiêng của đời sống con người, mà nếu tin thì cũng loại trừ vai trị của
thần linh trong cơng việc của trần gian, mà nếu cực chẳng đã thừa nhận vai trò
của thần linh, thì cũng từ chối mọi hành vi sùng bái.
2.1. Học thuyết về ý niệm- nền tảng thế giới quan của Platon
Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về
ý niệm. Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật
cảm tính và thế giới các ý niệm.
Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học Hy
Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của
trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xơcrát). Vì vậy ơng xem nhẹ
vai trị của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hố vai trị của nhận thức lý tính, của
ý niệm (khái niệm). Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những
ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính.Trong đó thế giới các
sự vật cảm tính là khơng chân thực, khơng đúng đắn vì các sự vật không ngừng
sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, khơng ổn định, bền vững, hồn thiện;
cịn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn,
chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Theo ông, thế giới
của những ý niệm là cái có trước, tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất
biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Cịn thế giới các sự
vật cảm tính là tồn tại khơng chân thực, là cái có sau,là sự mơ phỏng, phụ thuộc
vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ
thế giới các ý niệm như thế nào, Platon đã minh họa bằng phép phóng dụ trong
“chuyện về cái hang” như sau: “Trong một cái hang nằm sâu dưới lòng đất co
những con người từ lúc lọt lòng mẹ đã bị buộc phải sống ở đo như những tu
nhâ. Họ bị xích chân vào cở sau nên khơng rời khỏi chỡ đứng được, cũng
khơng thể ngối đầu sang ngang và về đằng sau. Nhờ chút ánh sáng yếu từ
một đớng lửa phía sau mà họ nhìn thấy các sự vật qua những cái bong mờ ảo,
run rẩy của chúng in trên vách hang. Họ lầm tưởng đo là những sự vật. Họ
nghĩ rằng ngoài thế giới chật hẹp là cái hang kia, ngoài những chiếc bong run
rẩy kia thì chẳng còn gì nữa. Trong số những tu nhân ấy co kẻ may mắn thoái
khỏi hang để đến với thế giới sớng động đích thực trên mặt đất. Thoạt tiên hắn
bị loa mắt trước ánh sáng mặt trời rực rỡ. Sau đo, định thần lại, hắn bắt đầu
phân biệt được đâu là vật thực, đâu là cái bong của no. Hắn trở về hang và noi
cho những người trong hang biết sự thật về thế giới đằng sau khuôn khổ chật
hẹp, tối tăm của hang. Bây giờ thử thay cái bong của sự vật bằng chính sự vật,
thay nguồn sáng yếu ớt bằng chính mặt trời, thay tu nhân bằng con người tự
do, thay kẻ thoát khỏi hang bằng triết gia. Triết gia sẽ noi với những con người
khốn khổ kia rằng họ đang sống trong thế giới của những cái bong, một thế
giới hư ảo, rằng co một thế giới khác, thế giới đích thực, đang chớ đon họ.
Nhưng các tu nhân vốn đã quen cảnh giam hãm dưới hang không tin vào triết
gia và chế nhạo ông. Thế mà chính triết gia ấy chỉ mong ḿn đem đến cho
con người toàn điều thiện.”
Thơng qua phép phóng dụ, Platon đã trình bày sự khác nhau giữa
tồn tại đích thực và cái bóng của nó, giữa thế giới ý niệm và thế giới vật chất,
giữa cái được lý trí nhận thức và cái được cảm giác lĩnh hội. Những bóng này
chỉ là hình ảnh của đồn người, chứ khơng phải bản thân đồn người. Thế giới
các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà
thơi. Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon
cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự
vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mơ phỏng, là bản sao của ý niệm.
Như vậy, triết học Platon điển hình cho chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm hợp lý: ý niệm của Platon là những khái
niệm được khách quan hóa, nhưng sau đó ơng lại tách khái niệm ra khỏi sự vật,
đưa nó về một thế giới của những khái niệm.
Trong thế giới ý niệm, Platon cho rằng ý niệm cải thiện, điều lợi hay hạnh
phúc trở thành “ý niệm của mọi ý niệm”. Ý niệm cao nhất, hay ý niệm cái thiện
– điều lợi – hạnh phúc là nguồn gốc của chân lý và cái đẹp. Nó à Mặt trời của
thế giới các ý niệm. Đối với con người, sống hạnh phúc là cái thiện, đồng thời
là điều lợi. Tư tưởng này xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Platon.
Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn
tại". Vấn đề tồn tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platon. Tồn tại
đích thực phải là tồn tại như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của
tồn tại”? Cái gì là cơ sở, nền tảng của mọi tồn tại? “ Theo tôi , Platon viết trước tiên cần phải phân biệt cái gì ln ln tồn tại và khơng giờ sinh thành và
cái gì ln ln sinh thành nhưng không bao giờ tồn tại”."Tồn tại" theo ông là
cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ
nhất. Cịn "khơng tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi
vật chất.
Khác với trường phái Elea, trong quan niệm về tồn tại Platon thừa nhận
tính thống nhất nhưng khơng phản bác tính đa dạng, mn vẻ của thế giới các ý
niệm. Ông cũng chỉ ra mối quan hệ giữa ý niệm và sự vật, từ đó đi đến q
trình tiên đốn về vũ trụ nói chung. Theo Platon, có bao nhiêu ý niệm thì có
bấy nhiêu phức hợp các sự vật, các hiện tượng, các quá trình, các quan hệ đồng
nhất căn bản. Trong tác phẩm “Parménide”, Platon nêu ra ba phương án quan
hệ giữa ý niệm và sự vật: mô phỏng, thông dự và hiện diện.
Mô phỏng: Các sự vật hướng đến các ý niệm. Trong trường hợp đó ý
niệm là khn mẫu, cịn các sự vật là khả giác là các mô phỏng của chúng,
chẳng hạn ý niệm “cái đẹp” như khuôn mẫu để xác định những sự vật cho là
“đẹp”.
Thơng dự: sự vật nói chung phải thơng dự vào một chủng loại ý niệm
nhất định để được mang một tên gọi, chẳng hạn nếu thông dự vào ý niệm “đẹp”
thì vật ấy là vật “đẹp”, tương tự như vậy với ý niệm “thiện”, “công bằng”,.v.v..
Hiện diện: các sự vật khả giác trở nên tương đồng với các ý niệm khi các
ý niệm đi đến với chúng, bắt đầu hiện hữu nơi chúng.
Tóm lại, theo Platon, ý niệm đóng vai trị vừa là khn mẫu của các sự
vật, vừa là đích mà các thực thể của thế giới khả giác hướng đến, lại vừa là
khái niệm về cơ sở chung của sự vật thuộc từng chủng loại.
Nhưng đến đây một vấn đề khác được đặt ra: đâu là nguyên nhân của tình
trạng khả biến, nhất thời, phân tán, cố hữu nơi sự vật khả giác. Nguyên nhân ấy
được Platon gán cho vật chất (chora) – bản nguyên thứ hai của vũ trụ.
Thế nào là vật chất? Thuật ngữ materia (vật chất) bằng tiếng Latin mà ta
thường dùng ngày nay ở một chừng mực nào đó có thể liên tưởng đến chora
của Platon bằng tiếng Hy Lạp. Vật chất – chora là một không gian giả định,
“một số tiểu loại, khơng nhận thấy, khơng có hình hài, khơng tìm được”. Theo
cách ấy vật chất chẳng khác nào cái không tồn tại, hay khơng là gì cả, nhưng
theo Platon, nó có thực, và cũng có vai trị hết sức to lớn đối với thế giới các sự
vật; nó là tồn tại khác, không đồng hạng và đồng lực với ý niệm như tồn tại. mà
đi sau ý niệm. Chora rõ ràng khác với vật chất vật lý, tức bốn dạng hành chất
truyền thống trong triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu Chora là cái phi tất định, thì có
thể so sánh nó với apeiron của Anaximandre, nếu chora là cái “chứa đựng”,
“mẹ ni”, “cái mà trong đó có cái gì đó”, thì lại tương tự như khoảng khơng
(kenon) của Démocrite. Nhưng Platon lại xem nó như cái đối lập với “chuẩn
mực”, và bị đẩy xuống môi trường không – thời gian như điều kiện của sự sinh
diệt, làm nguyên nhân của tính đa tạp, đơn nhất, tính vật, tính khả biến, khả tử,
tính tất yếu tự nhiên, cái ác và sự mất tự do. Thế giới khả giác – sự sinh thành –
là kết quả của thế giới idea và thế giới chora. Nếu thế giới các ý niệm là bản
ngun đàn ơng tích cực, thế giới các chora – bản nguyên đàn bà thụ động, thì
thế giới các sự vật khả giác – đứa trẻ của hai thế giới. Một mối quan hệ có tính
chất huyền thoại của các sự vật và các ý niệm được lập ra quan hệ sinh thành,
còn xét theo nghĩa triết học quan hệ “thông dự”, hay “tham dự”. Do chỗ sự vật
“thơng dự” vào ý niệm của mình, nó là sự phản ánh ý niệm một cách thiếu
hoàn thiện, lệch lạc. Do chỗ sự vật “thông dự” vào tồn tại khác, khác với tính
tách biệt, sự phân chia vơ hạn của nó (vật chất), nên ở đó khơng có cái gì là
thực cả. Tóm lại thế giới các sự vật khả giác là lĩnh vực sinh thành, xuất hiện,
phát triển, tiêu vong. Thế giới ấy đồng thông dự vào tồn tại và tồn tại khác, hịa
lẫn trong mình những tính quy định đối lập nhau.
Nhưng ngoài vật chất như trung gian giữa ý niệm và thế giới các sự vật
còn có một linh hồn vũ trụ như sinh lực năng động và sáng tạo, nguồn gốc của
vận động, sự sống, nhận thức. Linh hồn vũ trụ ôm trọn thế giới các idea và thế
giới các sự vật, kết hợp chúng với nhau. Nó đưa các sự vật mơ phỏng các idea,
hướng các idea hiện diện trong các sự vật. Nhưng để om trọn cả hai thế giới,
linh hồn vũ trụ phải vừa hồn bị, vừa hết sức biến hóa, hàm chứa những xung
động bên trong. Linh hồn vũ trụ gồm có ba phần: đồng nhất, cái khác (cái khả
biến) và sự hịa lẫn cả hai. Ở đó cái đồng nhất tương ứng với idea, cái khả biến
– vật chất, sự hòa lẫn – các sự vật. Cả vũ trụ lẫn linh hồn vũ trụ do vị kiến trúc
sư, hay hóa cơng (demiurge) nào đó nặn ra theo những mơtíp và mục đích nhất
định.
Chủ nghĩa duy tâm Platon, thể hiện trong bản thể luận về ý niệm, về thế
giới khả giác và về vật chất, đã tạo được dáng vẻ bề thế của chủ nghĩa duy tâm
trong lịch sử triết học, đã biến những mầm mống và nội dung tản mát của hình
thức thế giới quan duy tâm thành hệ thống chặt chẽ, bề thế. Nó vừa là chủ
nghĩa duy tâm chiến đấu, vừa là chủ nghĩa duy tâm thông minh.
2.2. Tâm lý học - học thuyết về linh hồn con người
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí
về linh hồn. Theo ơng, linh hồn vũ trụ do hóa cơng tạo ra trước thể xác với hai
chức năng là vận hành thế giới và nhận thức thế giới. Linh hồn con người cũng
tương tự như linh hồn vũ trụ, nghĩa là nó có chức năng vận hành thể xác, làm
cho thể xác trở thành thể xác sống động. Thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Thể
xác được tạo thành từ những hành chất lửa, đất, khơng khí, nước của vũ trụ.
Những hành chất ấy trở về vũ trụ sau khi thể xác phân rã. Chức năng của thể
xác là trở thành bể chứa tạm thời và nơi cư ngụ của linh hồn, là nô lệ của linh
hồn. Linh hồn con người là sự thừa hưởng những gì cịn lại sau cơng cuộc tạo
dựng vĩ đại của thần linh ra linh hồn vũ trụ. Hóa cơng tạo nên linh hồn vũ trụ từ
hỗn hợp cái đồng nhất, cái khác và hòa lẫn cái đồng nhất – cái khác. Trong
“Nhà Nước” và “Timaeus” Platon đã cụ thể hóa sự phân chia ba phần của linh
hồn:
+ Phần hạ đẳng, hay dục vọng, nơi phát xuất những ham muốn hạ đẳng
ăn uống, tình dục. Cơ quan của nó ở phần bụng dưới; nguyên tắc của nó là điên
rồ, phi lý, mất tự chủ, cunồng vọng; đức hạnh cần thiết là tiết độ, kiềm chế.
+ Phần ý chí là nguồn suối phát sinh nhưng đam mê; cơ quan của nó ở
phần ngực, hồnh cách mạc; ngun tắc của nó là giân dữ; đức hạnh cần thiết
là can đảm.
+ Phần lý trí, hay tinh thần là phần duy nhất của linh hồn bất tử nơi con
người; cơ quan của nó là đầu; ngun tắc của nó là lý trí; đước hạnh cần thiết là
khơn ngoan.
Tồn bộ hoạt động của con người chịu sự chi phối của ba phần linh hồn.
Phần trội nhất tạo nên tính cách chung của mỗi cá nhân “biết sống”, nhưng
không phải lúc nào cũng thể hiện đầy đủ. Người có lý trí khơng phải lúc nào
cũng cư xử phù hợp với lý trí, người can đảm khơng phải lúc nào cũng can
đảm. Tuy nhiên , theo Platon, đức hạnh cao quý nhất, xét trong sinh hoạt xã
hội, là công bằng. Ơng xem cơng bằng như điều lợi vĩ đại nhất, cịn bất cơng –
các ác vĩ đại nhất.
Mối tương giao giữa con người và vũ trụ được Platon khắc họa sâu thêm
bằng thuyết luân hồi , luân chuyển, và từ metempsyschịsis hồi sinh, kết hợp
với nhau, theo đó linh hồn được sáng tạo một lần, rồi chuyển từ thể xác này
sang thể xác khá, không sinh thêm, không giảm đi, bởi sinh và diệt là biểu hiện
của tính khả từ. Ở Platon có một cái gì đó tương tự như định luật bảo toàn linh
hồn. Nhưng linh hồn cũng có nhiều loại. Linh hồn được ví như hình ảnh cỗ xe
với hai con ngựa do xà ích, tương tự cho lý trí, điều khiển. Ở các thần hai ngựa
đeèu thuần tính, cịn ở những kẻ khác thì một con ngựa thuần có màu trắng,
một con ngựa màu đen bất kham. Cỗ xe bay lượn và chiêm ngưỡng mọi thứ, từ
vẻ đẹp đến sức mạnh của thế giới eidos. Nhưng chỉ linh hồn các vị thần mới đạt
tới kho báu vĩ đại ấy của tri thức đích thực. Số cịn lại, bị quấy phá bởi con
ngựa bất kham, cứ rơi mãi xuống, nhập vào thế giới cảm tính, vào những thể
xác phàm tục. Nhưng tại đây lại có một sự phân chia ngôi thứ giữa các linh hồn
một cách quyết liệt. Sự phân chia ấy là cơ sở để phân chia đẳng cấp trong xã
hội.
Chính linh hồ vũ trụ sai khiến những linh hồn vật vờ khác trở về với thế
giới từng bị lãng quên hoặc bị khước từ. Vì lẽ đó, chết khơng có nghĩa là chấm
dứt sự hiện hữu, mà là hóa thân, trở vè với nấc thang tột bậc của tồn tại.
Trong Phedon, Platon mượn danh Socrates dẫn ra bốn luận cứ về sự bất
tử của linh hồn:
- Luận cứ thứ nhất – luận cứ dựa trên sự tương phản. Theo Platon, chúng
ta luôn chứng kiến sự phát sinh từ những tương phản.
- Luận cứ thứ hai – luận cứ dựa trên “hồi tưởng”. Tri thức mà chúng ta có
được là sự hồi tưởng lại những gì từng trải qua, nhận biết, và nhờ sự sử dụng
phép đối chiếu, những biểu hiện “đồng dạng” , “dị dạng” mà ta xác định đặc
tính của đối tượng (bình đẳng - bất bình đẳng, đẹp – xấu ). Học hỏi chẳng qua
chỉ là sự hồi tưởng lại những cái đã có từ trước khi chúng ta sinh ra và theo
nghĩa đó “linh hồn của chúng ta cũng tồn tại và có từ trước khi chúng ta sinh
ra.
- Luận cứ thứ ba – luận cứ dựa trên những đặc tính của ý niệm để làm
sáng tỏ hai quan điểm: một là, linh hồn được giao trọng trách cai quản và điều
khiển thân xác; hai là, linh hồn thuộc về thần linh, bất tử, không thể tan rã và
phân hủy; trái lại, cái thuộc về nhân gian phải chết.
- Luận cứ thứ tư – luận cứ dựa trên mối tương quan giữa linh hồn và ý
niệm “cuộc sống”. Linh hồn có eidos của mình – ý niệm cuộc sống. Con người
sở dĩ sống được là nhờ có ý niệm cuộc sống của linh hồn. Khi thân xác tan rã
(chết), ý niệm cuộc sống khơng chuyển hóa thành ý niệm sự chết mà tiếp tục
tồn tại.
Những luận cứ trên đây của Platon theo quan điểm của những nhà duy vật
là thiếu sức thuyết phục về mặt lơ gích, còn nhiều mâu thuẫn và chưa nhất
quán. Ở luận cứ thứ tư, Platon còn vi phạm luật đồng nhất khi đánh tráo khái
niệm với nhau. Ta chỉ nên xem đó là những lời khuyên tốt chứ không thể là nền
tảng để luận giải khoa học.
2.3. Nhận thức luận và logich học
Nguồn gốc và bản chất tồn tại là vấn đề nền tảng của tư tưởng triết
học Platon. Thế giới khả giác theo Platon, luôn biến đổi, nhất thời, không bền
vững, nên không thể là tồn tại theo đúng nghĩa của từ đó. Tồn tại đích thực bền
vững, tự thân đồng nhất, không bị lệ thuộc vào điều kiện không – thời gian,
vĩnh cữu. Nó là đối tượng của lý trí.
Vấn đề tồn tại đích thực buộc chúng ta phải giải quyết một cách
nghiêm túc vấn đề nhận thức đích thực, “tri thức tự thân”
Vậy tri thức là gì? Theo Platon, tri thức không phải là một hành vi cảm
giác, không phải là một kiến giải đúng, hay kiến giải đúng kèm theo lý do, mà
là một kết quả được xây dựng trên nền tảng của thực tại, thể hiện mối quan hệ
có tính lơ gích, tính quy luật của những hình ảnh diễn ra ở đó. Platon đặc biệt
chú ý đến những quan hệ theo chủng loại như tồn tại và hư vô, vận động và
đứng im, đồng nhất và khác biệt…Mỗi chủng loại là một id quan hệ với nhau
theo đẳng cấp như quan hệ “thông dư”, quan hệ “bài trừ”, quan hệ “hịa lẫn”
(“thơng dư phổ qt”). Căn cứ trên những quan hệ ấy ta có thể truy tìm nguyên
nhân, cơ sở và điều kiện dẫn tới trí thức. Nhưng khi giải quyết vấn đề này
Platon từ bỏ mảnh đất triết lý, chuyển sang thần thọi. Lý luận nhận thức xoay
chiều sang hướng khác , nhà triết học được thay bằng nhà thơ, tư duy lơ gích
được thay bằng câu chuyện đầy tính hư cấu và phép phóng dụ. Hình ảnh cỗ xe
bay lượn nơi cư ngụ của thần linh, biểu tượng cho linh hồn như bản nguyên bất
diệt vẫn tiếp tục gợi lên ở Platon hướng giải quyết vấn đề nguồn gốc tri thức.
Tri thức là hồi tưởng
Học thuyết cho rằng các ý niệm - đối tượng nghiên cứu của lý trí, cư ngụ
ở một thế giới bên ngồi lý tưởng nào đó đã đem đến lời giải đáp cho câu hỏi
tri thức là gì? Đâu là bản chất của quá trình nhận thức? Nhận thức là quá trình
linh hồn tìm về suối nguồn vĩnh cửu – thế giới lý tưởng của các ý niệm. Đó là
quá trình hồi tưởng (anamnesis), tức linh hồn hồi tưởng lại những gì mình có
được trước đây, nhưng qn đi vào thời điểm du nhập vào thân xác đứa trẻ vừa
sinh ra.
Phương pháp anamnesis là phương pháp đi đến các ý niệm với tính cách
cái chung khơng bằng con đường khái quát những cái đơn nhất, mà bằng con
đường đánh thức trong linh hồn “tri thức đã bị lãng quên”. “Hãy tìm kiếm tri
thức nơi mình – điều đó có nghĩa là hồi tưởng”.
Vậy hồi tưởng bắt đầu khi nào? Khi quan sát các sự vật, lập tức trong linh
hồn xuất hiện ý niệm tương đồng hay khác biết , giúp chủ thể so sánh chúng
với nhau. Chúng ta nhận biết tính thống nhất và đa dạng của thế giới nhờ
những kênh tín hiệu ấy trước tiên.
Kênh tín hiệu thứ hai – quan hệ giữa các mặt đối lập. Bất kỳ sự vật nào
trong cùng một thời gian cũng vừa lớn hơn , vừa bé hơn, vừa vận động vừa
đứng im, lớn hơn cái này và bé hơn cái kia, vận động xét theo tương quan này,
đứng im xét theo tương quan kia.
Chất xúc tác chủ yếu của phương pháp anamnenis là nghệ thuật phán
đốn lơgíc, đối thoại, gọi mở, hỏi và đáp, mà đó lại là phép biện chứng – nghệ
thuật đẫn dắt đối thoại, tranh luận. Phép biện chứng còn được hiểu theo nghĩa
thứ 2 – năng lực tìm hiểu các khái niệm, phân biệt chúng theo tiểu loại, liên kết
các tiểu loại thành những khái niệm chủng loại. Có thể nói đơn giản, phép biện
chứng của Platon là lơgíc học, khoa học nghiên cứu sự hoạt động của tư duy.
Trong tác phẩm “Nhà Nước”, Platon nhấn mạnh rằng phép biện chứng không
phải là nghệ thuật trau chuốt ngôn từ, mà là phương pháp giúp con người xác
định bản chất sự vật, truy tìm ngun nhân cuối cùng của nó. Hai quá trình
thường xuyên diễn ra là biện chứng đi lên và biện chứng đi xuống.
Cùng với phép biện chứng, Platon đề cao tốn học như cơng cụ
giúp con người vượt qua cái vơ trật tự và thiếu tính quy định, thâm nhập vào
thế giới của các bản chất lý tưởng.
Phép biện chứng của Platon là giai đọan quan trọng trong sự phát
triển của triết học Hy Lạp cổ đại: Platon đã xây dựng cơ sở cho học thuyết về
phạm trù, về chủng loại và tiểu loại của các khái niệm, về sự thống nhất quy
nạp – suy diễn như phương pháp tiếp cận chân lý, về sự phát triển thông qua
các mặt đối lập. Thuật ngữ “pháp biện chứng” được bổ sung, cải biến theo thời
gian, nhưng người đặt ra nó, người khai phá, ln được dành vị trí xứng đáng
trong kho tàng tri thức của nhân loại.
2.4. Học thuyết về chính trị - xã hội
Theo Platon, nguyên nhân hình thành nhà nước là sự đa dạng các nhu cầu
vật chất của con người và sự không thể thỏa mãn được các nhu cầu ấy trong
cuộc sống cô đơn, tách biệt và cả do chỗ “ai cũng cảm thấy mình khơng đủ,
nhưng ai cũng có q nhiều”.
Trong lịch sử đã từng tồn tại các hình thức nhà nước khác nhau nhưng
đều khơng phải là những hình thức nhà nước công bằng.
Vậy thế nào nhà nước công bằng? Theo Platon, nhà nước công bằng nhất
định phải xây dựng từ những thành tố công dân khác nhau, chiếm những địa vị
xã hội khác nhau, thực hiện chức phận khác nhau tùy theo năng lực của mình.
Sự xác định các thành tố, hay các đẳng cấp trong xã hội dựa trên sự phân chia
cơ cấu linh hồn ra 3 phần:
-
Các triết gia cai trị gia, hay đẳng cấp vàng, tương ứng với phần lý
trí của linh hồn.
-
Các chiến binh, hay đẳng cấp bạc, tương ứng với các phần ý chí
của linh hồn.
-
Những người lao động chân tay hay buôn bán, hay đẳng cấp thấp,
tương ứng với phần dục vọng của linh hồn.
Từ vị thế của giới quý tộc Platon phê phán nền dân chủ Athens thời
khủng hoảng, vì theo ơng ở đó trật tự đã bị thay bằng sự pha tạp, vàng thau lẫn
lộn. Nền dân chủ, như Platon từng chứng kiến, là hình thức cai trị bị thiếu hồn
thiện.
Platon chủ trương xây dựng một thiết chế nhà nước mà theo ông vừa đảm
bảo công bằng xã hội (công đồng lý tưởng), vừa cho phép tồn tại sự không
công bằng về hình thức trong quan hệ giữa các đẳng cấp với nhau nhằm duy trì
những thang bậc xã hội cần thiết, tránh tình trạng vơ chính phủ như trong nền
dân chủ.
Nhà nước lý tưởng của Platon thực chất là sự vận dụng có cải biến chế độ
xã hội của Sparta, nơi đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của các nhân đối với xã
hội, đảm bảo tính kỷ luật cao. Nhà nước lý tưởng thống nhất các thực thể cùng
hướng tới mục tiêu chung, nhưng trong q trình sáng tạo đó sự phân biệt về
địa vị vẫn rất cần thiết. Trong nhà nước ấy khơng có tư hữu, mọi cơng dân đều
ăn chung, sống trong những doanh trại. Vàng bạc châu báu không cần thiết.
Phụ nữ được thu hút vào sinh hoạt cộng đồng, trẻ con sinh ra được giáo dục
trong moi trường xã hội.
Trong nhà nước lý tưởng, các công việc của công dân được thực hiện
theo sự phân công thống nhất, đạt tới sự kết hợp hài hà, hoàn hảo. Sự phân chia
đẳng cấp không chỉ dự trên phẩm chất đạo đức, trí tuệ, mà cịn nhất trí với sự
phân cơng lao động – nền tảng của đời sống xã hội.
Trong nhà nước lý tưởng, giáo dục được dành cho vị trí xứng đáng.
Platon đề cao một nền giáo dục tồn diện và liên tục, với mục đích hướng con
người đến lẽ công bằng và cái Thiện tối cao. Giáo dục bắt đầu ngay từ lúc trẻ
biết nói đến trên 30 tuổi:
- Từ 3 đến 6 tuổi, trẻ được giáo dục bằng những mẩu truyện thần thoại,
nhằm đánh thức óc tị mị, tính hiếu động, sáng tạo.
- Từ 7 đến 10 tuổi, học thể thao.
- Từ 10 đến 30 tuổi, sẽ tập đọc, tập viết.
- Từ 14 đến 16 tuổi, học thi ca, âm nhạc.
- Từ 16 đến 18 tuổi, học toán học.
- Từ 18 đến 20 tuổi học quân sự.
- Từ 20 đến 30 tuổi tuyển chọn lần thứ nhất: một số thực sự có năng
khiếu cầm quân được đào tạo làm tướng lĩnh, một số khác có tư chất thông
minh được đào tạo làm nhà cai trị, đồng thời tiếp tục học tập và nghiên cứu
khoa học.
- Từ 30 tuổi trở đi , tuyển chọn lần thứ hai: trong số những người làm
khoa học, một số không xuất sắc lắm thì an phận làm viên chức, một số khác
được đào tạo tiếp tục, đặc biệt môn Biện chứng và Đạo đức để thấm nhuần tinh
thần triết lý và cái Thiện.
Nhà nước lý tưởng mà Platon hình dung là một tổ chức đạo đức – chính
trị hồn hảo, giải quyết những nhiệm vụ cơ bản như đảm bảo an ninh xã hội
cho mọi thành viên và chủ quyền toàn vẹn cho xứ sở, đáp ứng như cầu vật chất
thiết yếu và phúc lợi xã hội, định hướng và khuyến khích tinh thần sáng tạo
khoa học. Một khi những nhiệm vụ ấy được giải quyết thì con người sẽ đạt tới
idea tối thượng – idea cái Thiện. Nguyên lý cơ bản của nhà nước lý tưởng là
Công bằng, mục tiêu của nó – cái Thiện tối cao, phương tiện của nó – Giáo
dục. Có thể thây Platon như nhà nhân văn và nhà khai sáng, u hịa bình và rất
tha thiết với lý tưởng của mình nhưng cũng cịn một Platon khác cũng rất rõ nét
– Platon của giới quý tộc, phê phán nền dân chủ, đánh đồng bản chất của nền
dân chủ - dù nó là nền dân chủ chủ nô, hết sức ấy trĩ và hạn chế - với mộ giai
đoạn nhất định của nó, và Platon như nhà cộng sản không tưởng, chủ trương
xây dựng cộng đồng thiếu bản sắc, thủ tiêu con người cá nhân.
III. Ý NGHĨA CỦA TRIẾT HỌC PLATON
Ảnh hưởng của Platon trong toàn bộ lịch sử triết học phương Tây thật là
vĩ đại. Sau khi ông qua đời, Speusippus ( từ năm 347 đến năm 339 Tr.CN) và
Xenocrates ( từ năm 339 đến năm 314 Tr.CN ) trở thành người đứng đầu Viện
Hàn lâm. Trường phái Platon tiếp tục tồn tại cho đến năm 529 sau cơng
ngun. Platon rõ ràng có ảnh hưởng đến tư tưởng của người Do Thái trong
công trình của Philo Judaeus, nhà triết học ở Alexandria vào thế kỉ I.
Chủ nghĩa Platon mới được sáng lập bởi Plotinus, vào thế kỷ thứ III là sự
tiếp tục phát triển quan trọng của chủ nghĩa Platon. Các nhà thần học như
Clement ở Alexandria, Origen và Saint Augustine là những người Kito giáo
đầu tiên phát triển sự nghiệp chủ nghĩa Platon. Tư tưởng Platon có vai trị cơ
yếu trong sự phát triển của thần học Kito giáo, cũng như tư tưởng Hồi giáo thời
trung cổ.
Trong thời kỳ phục hưng, ảnh hưởng của chủ nghĩa Platon tập trung ở
Viện Hàn lâm Florence, sáng lập vào thế kỷ XV ở gần Florence. Dưới sự lãnh
đạo của Marssilio Ficino, những thành viên ở viện này nghiên cứu Platon bằng
tiếng Hy Lạp. Ở Anh, chủ nghĩa Platon được phục sinh vào thế kỷ XVII bởi
Raph Cudworth và những người khác, họ đã trở thành những người theo chủ
nghĩa Platon ở Cambridge. Họ cố công dùng các lời giảng dạy của Platon và
cách diễn đạt của nhóm NeoPlatonist để làm hịa hợp lý trí (reason) với tôn
giáo. Qua thế kỷ 20, các nhà tư tưởng như Alfred North Whitehead cũng
nghiên cứu và phổ biến các cơng trình của Platon.
Các tác phẩm đối thoại của Platon đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ
khác nhau và được phổ biến bằng nhiều ấn bản. Một trong các bản dịch được
nhiều học giả biết tới nhất là của ông Benjamin Jowett , thuộc trường Đại Học
Oxford, nước Anh.
Bên cạnh đó, tư tưởng triết học của ơng cịn ảnh hưởng sâu rộng đối trong
các tư tưởng của các nhà triết học về sau cũng như thể hiện trong đời sống
thông qua các quan niệm.
Các nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công
nhận rằng: những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ
thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, những tư tưởng triết học, hay tơn giáo, đã có
những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật, từ những tư tưởng triết học
của Platon về cái đẹp tuyệt đối, về những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế,
và những lý thuyết cổ điển của Aristote về nghệ thuật, coi nghệ thuật như là một
sự sao chép thiên nhiên, đến những tư tưởng tôn giáo của Saint Augustin về
quan hệ gắn bó giữa con người và Chúa sinh ra vạn vật; rồi từ những tư tưởng
của Descartes về vai trò của chủ thể, đến luận thuyết của Kant về tính chất chủ
quan của cái đẹp, v.v.
Ảnh hưởng của Platon mở rộng đến thế kỷ XX. Nhà triết học Anh Alfred
North Whitehead đã từng tỏ lịng tơn kính bằng cách mơ tả lịch sử của triết học
chỉ là “một loạt những chú thích về Platon”.
KẾT LUẬN
Platon là đại biểu lớn nhất của triết học duy tâm ở Hy Lạp cổ đại. Không
phải ngẫu nhiên mà thuật ngữ “idealism” (chủ nghĩa duy tâm) bắt nguồn từ
thuật ngữ “idea” (ý niệm) của Platon. Thuật ngữ này về sau được Hegel kế thừa.
Trên cơ sở học thuyết ý niệm, học thuyết về nhận thức của Platon cũng
mang tính chất duy tâm, nhận thức được coi là “sự hồi tưởng”, “sự nhớ lại”
những hiểu biết đã từng có ở kiếp trước.
Trong học thuyết về con người ở Platon, nhân cách được đồng nhất với
cấu trúc ba phần của linh hồn, khơng thấy vai trị của yếu tố xã hội trong nhân
cách. Nhà nước lý tưởng của Platon thực chất là một hình thức nhà nước q
tộc trong đó đại bộ phận nhân dân lao động bị loại khỏi đời sống chính trị.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Khái lược lịch sử triết học” – Nguyễn Văn Đại – TS. Bùi Thị Thanh
Hương – Nhà xuất bản chính trị - hành chính, 2011
2. “Lịch sử triết học phương Tây - từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết
học cổ điển Đức” – TS. Nguyễn Tấn Hùng – Nhà xuất bản chính trị
quốc gia.
3. “Lịch sử triết học – Triết học cổ đại tập 1” – TS. Nguyễn Thế Nghĩa –
TS. Doãn Chính – Nhà xuất bản khoa học xã hội 2002
4. “Triết học Hy Lạp cổ đại – Vấn đề bản thể luận” – PGS. TS. Trần Văn
Phòng – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chính Minh Đề án 1677
5. “Lịch sử triết học” – GS,TS. Nguyễn Hữu Vui – Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.