Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Câu 1: (3 điểm) Phân tích đặc điểm của Nhà Nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam? Câu 2: (3 điểm) Khẳng định sau đây Đúng hay sai, giải thích tại sao a. Hiến pháp là đạo luật có giá trị hiệu lực tối cao b. Một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sẽ không c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.23 KB, 6 trang )

ĐỀ SỐ 20212
Câu 1: (3 điểm)
Phân tích đặc điểm của Nhà Nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam?
Câu 2: (3 điểm)
Khẳng định sau đây Đúng hay sai, giải thích tại sao
a. Hiến pháp là đạo luật có giá trị hiệu lực tối cao
b. Một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sẽ khơng có hiệu lực
đối với những việc đã xảy ra trong quá khứ
Câu 3: (4 điểm)
Anh A là nhân viên bảo vệ của công ty B. Trong ca làm việc, anh A đã
uống rượu say, để làm mất tài sản là xe máy của khách hàng. Sau đó anh A và
khách hàng đã xảy ra cãi vã và A đã gây thương tích cho khách hàng. Trong
tình huống này, hãy cho biết:
a) Anh A có các hành vi vi phạm pháp luật nào?
b) Anh A có phải gánh chịu các loại trách nhiệm pháp lý nào?
BÀI LÀM
Câu 1: Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức...”.
Đặc điểm:
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN:
- Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên nguyên tắc đề cao quyền nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Nhà nước Việt Nam thừa nhận vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống
xã hội.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng gắn với một xã hội công dân,
xã hội dân sự.


- Nhà nước Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình hữu nghị
và hợp tác với tất cả các nước.


- Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN.
- Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân:
- Tất cả các quyền lực nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đều thuộc về nhân dân và
nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp. Các cơ quan nhà nước Việt Nam nhận quyền lực từ nhân dân thông qua con đường
bầu cử.
- Quốc hội và HĐND ở Việt Nam là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Câu 2.
a. “Hiến pháp là đạo luật có giá trị hiệu lực tối cao “ khẳng định này đúng vì Hiến
Pháp : Là đạo luật cơ bản của một Đất Nước. Biểu hiện tập trung ý chí của giai cấp
thống trị trên nhiều lĩnh vực và củng cố địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Nó
quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của Nhà Nước và xã hội như
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phịng, an ninh – đối ngoại
của đất nước; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân.
b. “Một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sẽ khơng có hiệu lực đối với
những việc đã xảy ra trong quá khứ” khẳng định này đúng bởi vì :Về ngun tắc,
pháp luật khơng có tính chất hồi tố mà hiệu lực của nó phát huy theo chiều xi
thời gian tính từ thời điểm có hiệu lực, nói cách khác văn bản chỉ có giá trị điều
chỉnh lên những hành vi được thực hiện sau thời điểm nó được ban hành. Việc sử
dụng một văn bản để quay ngược trở lại điều chỉnh một vụ việc xảy ra trước ngày
văn bản có hiệu lực chỉ được thực hiện trong trường hợp “thật cần thiết”. Điểm mới
tích cực của Luật 2015 là đã đưa ra giới hạn để làm rõ thế nào là trường hợp thật
cần thiết ngay trong Khoản 1, Điều 152, đó phải là trường hợp “để bảo đảm lợi ích

chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định
trong luật, nghị quyết của Quốc hội” (Luật 2008 chỉ nói là “trường hợp cần thiết”
rất chung chung). Một giới hạn khác được đưa ra là loại VBQPPL có thể được quy
định hiệu lực trở về trước, đó chỉ là các VBQPPL của “cơ quan trung ương”.
Khoản 3 Điều 152 cũng tái khẳng định “văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính –
kinh tế đặc biệt khơng được quy định hiệu lực trở về trước”. Thực chất quy định
này có thể được suy ra từ Khoản 1 tuy nhiên cách thiết kế như vậy cũng khơng
hồn tồn là trùng lặp và theo người viết là cần thiết để thể hiện tính chặt chẽ của
Điều luật. Khoản 2 Điều 152 nêu ra hai trường hợp tuyệt đối không được quy định


hiệu lực trở về trước, đó đều là những trường hợp mà nếu sử dụng văn bản mới để
hồi tố sẽ bất lợi hơn cho chủ thể bị áp dụng nếu so với mức quy định trong văn bản
đang có hiệu lực tại thời điểm hành vi được thực hiện. Mặc dù điều kiện để có thể
quy định hiệu lực trở về trước theo Điều 152 là rất ngặt nghèo tuy nhiên vẫn tồn tại
một số điểm bất hợp lý gây khó khăn cho việc áp dụng. Một là, cách xác định điều
kiện cho việc quy định hiệu lực trở về trước (ở đây mới nói đến việc đặt ra quy
định, chưa bàn đến việc áp dụng quy định đó) chưa đảm bảo tính logic. Thơng
thường, khi xây dựng một quy phạm pháp luật, nhà làm luật sử dụng một trong hai
phương pháp liệt kê hoặc loại trừ, Điều 152 lại trộn lẫn cả hai phương pháp này.
Một số tác giả cũng đã từng bình luận và nêu ra băn khoăn về việc nên quy định
xuôi hay quy định ngược khi xác lập các điều kiện cho phép hồi tố . Hai là, theo tác
giả khơng thể có cái gọi là hiệu lực trở về trước của văn bản, mà chỉ có hiệu lực trở
về trước của (một hoặc một số) quy phạm pháp luật cụ thể trong văn bản. Khơng có
bất cứ VBQPPL được sinh ra chỉ để nhằm mục đích giải quyết các vụ việc trong
quá khứ mà về nguyên tắc đại bộ phận các điều khoản của nó phải được sử dụng để
làm căn cứ pháp lý cho các vụ việc sẽ xảy ra trong tương lai, chúng phải phát huy
hiệu lực theo chiều xi của dịng thời gian. Như vậy tên Điều 152 cần được sửa lại
thành “Văn bản quy phạm pháp luật có quy định về hiệu lực trở về trước”. Cách

hiểu như vậy cũng sẽ phù hợp với tinh thần tại Khoản 1, Điều 156 về nguyên tắc áp
dụng VBQPPL: “Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó”. Tuy nhiên có một vấn đề lớn
liên quan đến nguyên tắc tại Khoản 4 Điều 156. Theo đó: “Trong trường hợp văn
bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định
trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực
thì áp dụng văn bản mới”. Quy định này mâu thuẫn với quy định tại Khoản 1 Điều
152 khi cho phép chủ thể có thẩm quyền chỉ căn cứ vào nội dung của VBQPPL
(văn bản mới mang tính có lợi hơn đối với đối tượng bị áp dụng) để áp dụng theo
lối hồi tố mà không bị ràng buộc về mặt hình thức rằng bản thân văn bản đó có
chứa quy định nói rõ về việc được hồi tố hay không. Điểm bất cập thứ ba này tiếp
tục kéo theo bất cập thứ tư: Nếu căn cứ vào nội dung của VBQPPL để quyết định
về khả năng hồi tố thì “trách nhiệm pháp lý” phải được hiểu thế nào. Một cách
truyền thống, trách nhiệm pháp lý trong khoa học pháp lý thường được hiểu là sự
bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi phát sinh khi chủ thể vi phạm pháp
luật hoặc do một số căn cứ khác liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Theo
nghĩa này, việc áp một mức thuế nhẹ hơn lên đối tượng chịu thuế không phải là
“quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn” mà chỉ đơn thuần là “quy định nghĩa vụ
pháp lý ở mức thấp hơn”. Việc Luật 2015 khơng giải thích rõ cụm từ “trách nhiệm
pháp lý” đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và trên thực tế đã có một số chủ thể


“đánh đồng” các khái niệm nêu trên trong quá trình áp dụng pháp luật. Do đó, tác
giả kiến nghị bỏ Khoản 4 Điều 156 để khắc phục những mâu thuẫn này. Cuối cùng,
khi sửa đổi, bổ sung Luật 2015 cũng cần cân nhắc việc có nên quy định cụ thể về
thời điểm bắt đầu áp dụng hiệu lực trở về trước hay khơng. Như đã nói, tính hối tố
về bản chất là thuộc tính của từng quy phạm riêng biệt chứ khơng phải của tồn
văn bản, bởi vậy nó có tính độc lập tương đối với thời điểm có hiệu lực của văn
bản. Thực tiễn cho thấy, căn cứ theo “mức độ có lợi”, “mức độ liên quan đến tính
nhân đạo” của quy phạm mà chủ thể có thẩm quyền phân hóa các quy phạm mang

tính hồi tố thành hai nhóm: (i) các quy phạm có giá trị hồi tố kể từ thời điểm được
công bố và (ii) các quy phạm có giá trị hồi tố kể từ thời điểm VBQPPL chứa quy
phạm đó có hiệu lực. Theo quan điểm của người viết, có thể cho phép cả hai khả
năng linh hoạt như trên nhưng cần thiết phải xây dựng thành cơ sở pháp lý trong
Luật.
Câu 3 Anh A là nhân viên bảo vệ của công ty B. Trong ca làm việc, anh A đã
uống rượu say, để làm mất tài sản là xe máy của khách hàng. Sau đó anh A và
khách hàng đã xảy ra cãi vã và A đã gây thương tích cho khách hàng. Trong
tình huống này, hãy cho biết:
a) Anh A có các hành vi vi phạm pháp luật nào ?
- căn cứ vào tình huống trên anh A có các hành vi vi pháp luật sau:
+ vi phạm nội quy của công ty là không được phép uống rượu bia khi đang làm việc
gay hậu quả nghiêm trọng là làm mất xe máy của khách hàng.
+ gây rối trật tự nơi công cộng và cố ý gây thương tích cho người khác
b) Anh A có phải gánh chịu các loại trách nhiệm pháp lý nào?
- Anh A phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng ( anh A đã trong giờ làm việc mà
Trong ca làm việc, anh A đã uống rượu say, để làm mất tài sản là xe máy của khách
hàng nên theo qui định của cơng ty thì anh phải bồi thường tài sản của khách hàng bị
mất là chiếc xe máy)
- Căn cứ theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung 2017 anh A sẽ bị
xử lý như sau:“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:


a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy
hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác khơng có khả năng tự vệ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06
năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm
từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10
năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều
này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm
từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp
quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Với trường hợp của anh, anh cần giám định tỷ lệ thương tật để xác định trách nhiệm
mà bên kia phải chịu; đồng thời anh nên tới cơ quan cơng an để trình báo về vấn đề
này.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Căn cứ tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 quy
định về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như sau:
“Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm


1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực
tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức
thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt
hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải
có người thường xun chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm
sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị
xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối
đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định.”.
Như vậy, ngoài vấn đề phải chịu trách nhiệm hình sự thì anh A phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo quy định trên. Về mức bồi thường các bên có thể thương lượng,
thỏa thuận với nhau. Trường hợp không thỏa thuận được, có thể u cầu Tịa án xem
xét và quyết định mức bồi thường dựa trên thiệt hại thực tế của khách hàng.




×