Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhận xét cách tiếp cận định nghĩa về ngữ dụng học của Giáo sư Đỗ Hữu Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.11 KB, 6 trang )

NHẬN XÉT CÁCH TIẾP CẬN ĐỊNH NGHĨA
VỀ NGỮ DỤNG HỌC CỦA GIÁO SƯ ĐỖ HỮU CHÂU
TS Nguyễn Văn Chiến

Trong công trình”Đại cương ngơn ngữ học” tập hai “ Ngữ dụng học”. giáo sư Đỗ
Hữu Châu trình bày nội dung của Ngữ dụng học theo năm vấn đề:
1. Chiếu vật và chỉ xuất
2. Hành vi ngôn ngữ
3. Lý thuyết lập luận
4. Lý thuyết hội thoại
5. Ý nghĩa hàm ẩn và ý nghĩa tường minh
Những vấn đề nêu trên được giải quyết sau phần khái quát về ngữ dụng học. Tác
giả đã lý giải cách tiếp cận của riêng mình về ngữ dụng học sau khi cho biết thông lệ
cung cấp nội dung ngữ dụng học theo nguyên tắc thống hợp và tương tác chỉ có bốn vấn
đề: 1. Sự chiếu vật và chỉ xuất. 2. Nghĩa tường minh và hàm ẩn. 3. Các hành vi ngôn
ngữ. 4. Lý thuyết hội thoại hay lý thuyết tương tác bằng lời. Mặc dù trong biện luận
chưa vạch rõ những kiến giải khả thi. nhưng mọi chương trong kết cấu phân tích đã làm
rõ tương đối những vấn đề cần nêu và cần chứng minh.
Trước hết, ngữ dụng học nghiên cứu nghĩa trong ngữ cảnh. Tuy nhiên, ngữ nghĩa
học cũng nghiên cứu nghĩa, bởi thể giáo sư Đỗ Hữu Châu đã phân tích mối quan hệ
giữa ngữ dụng học và ngữ nghĩa học. Ông cho rằng hai chuyên ngành này “ được xây
dựng trên những tuyến tương đối nhất quán riêng” (tr.48). Đồng thời, “ ngữ dụng học
nghiên cứu hoạt động giao tiếp trong hoàn cảnh xã hội” (tr.50).
Ở trang 53, tác giả viết “ Nói một cách tổng qt, khơng làm gì có cái nghĩa của
câu độc lập với ngữ cảnh, mà trong thực tế cũng khơng có cái đơn vị được gọi là câu
nốt. Trong thực tế chỉ có những phát ngơn.Câu là đơn vị trừ tượng hóa khỏi các phát
ngơn trong giao tiếp. Cho nên trong hiện thực chỉ có ngữ nghĩa trong tương tác, chỉ có
nghữ nghĩa đã được tạo ra từ một ý định nào đó đã mang sẵn một ý định nào đó. Nếu
quả như vậy thì trong thực tế chỉ gặp có ngữ nghĩa ngữ dụng.
Trên thực tế, nếu tác giả tiếp tục phát triển luận đề này thì ơng sẽ có thể xác định
chính thức đơn vị nghiên cứu và đơn vị công năng của ngữ dụng học là phát ngơn.


Chính phát ngơn thể hiện các sự kiện chuyên biệt, các hành động có chủ định của người
nói tại các thời điểm và bối cảnh cụ thể. Chính ngữ dụng học khảo sát các thuộc tính
vốn khác nhau trong nội dung của các ký hiệu, trong cách sử dụng các ký hiệu đó tồn tại
ở các phát ngơn.
Khi tiếp cận các thuộc tính của phát ngơn,một số nhà ngôn ngữ đề nghị dung hai
thuật ngữ: Ngữ dụng học trực tiếp (near-side pragmatics) đề cập đến bản chất của những

33


sự tình tương hợp với việc xác nhận những điều được nói tới; Ngữ dụng học gián tiếp
(far-side pragmatics) tập trung làm sáng tỏ những gì tạo nên nội dung nằm sâu trong
điều được nói lên, tức là các hành động ngôn từ nào được thực hiện trong điều được nói
hoặc bằng điều được nói ra đó và hàm ý nào hiện trong phát ngôn.
Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu thì câu trở thành phát ngơn khi nó (câu)”được làm đầy
bằng những đơn vị từ vựng cụ thể có thể được dùng ở những ngữ cảnh khác nhau, nhằm
nhiều đích khác nhau.” (tr.31). Như vậy, phát ngơn chính là câu được quy định về nghĩa
và nội dung ký hiệu do ngữ cảnh và sự tình làm nên hành động lời nói. Khi triển khai về
khác biệt giữa câu và phát ngơn thì giáo sư có nói về vấn đề liên quan tới “descriptive
fallacy” mà ông gọi là “ảo tưởng miêu tả”. song thuật ngữ này nên gọi là “ngụy biện
miêu tả” hay “ ngụy tín miêu tả” vì thuật ngữ “fallacy” có nghĩa là niềm tin sai lầm
(mistaken belief); ngụy biện (faulty reasoning) hay luận cứ gây sai lạc (misleading
argument). Chính J.L.Austin đã đưa ra khái niệm này năm 1955 trong cơng trình “ How
to Do Things With Words” khi ông cho rằng ngụy tín miêu tả là việc suy lý coi hành
động ngôn từ là mệnh đề lô gic mà có thể là sai khi nghĩa của mệnh đề không dựa vào
điều kiện về sự thật (tức là điều kiện đúng-sai). Căn nguyên của định đề của J.L.Austin
dựa vào biện luận cho rằng các phát ngôn ngôn hành không thể được đánh giá là đúng
hay sai, chúng cần các thang độ khác để đo lường vì nếu chỉ có xác nhận đúng – sai thì
làm sao chấp nhận được các mệnh đề có nội dung tơn giáo,đạo đức, thẩm mỹ hay siêu
hình học. Chẳng hạn, người dùng ngơn ngữ khơng chỉ miêu tả hiện thực mà cịn làm

nhiều hơn thế với ngôn ngữ như ra lệnh, mời mọc, hứa hẹn v.v… Chính vì thế mà
Austin xác định hai loại phát ngôn là phát ngôn trần thuật và phát ngôn ngôn hành.
Giáo sư Đỗ Hữu Châu dẫn định nghĩa về thuật ngữ “xác nhận”(assertion) mà ơng
chuyển ngữ là xác tín: “An ACT of ASSERTION is carried out when a speaker utters a
declarative sentence (which can be either true or false), and undertakes a certain
responsibility, or commitment, to the hearer, that a particular state of affairs, or
situation, exists in the world”, định nghĩa này được ông dịch là ”một hành vi xác tín
được thực hiện khi người nói phát âm ra một câu trần thuyết (câu này có thể đúng hoặc
sai) đồng thời với sự phát âm đó anh ta chịu trách nhiệm trước người nghe về việc một
sự tình nào đó tồn tại trong thực tế”(tr.31). Ở cách hiểu này có thể có một cách nhìn
nhận khác về thuật ngữ, vì vậy tơi đưa ra cách chuyển ngữ khác đơi chút: “ một hành
động xác nhận được thực hiện khi người nói phát ra một câu trần thuật (mà có thể đúng
hoặc sai), và người nói nhận một trách nhiệm nhất định hay chịu cam kết đối với người
nghe rằng một sự tình cụ thể hay một tình huống có tồn tại phổ quát”.
Như vậy có thể thấy rằng câu là chuỗi hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp bao gồm các từ
vốn diến đạt một ý cụ thể nhất định và hồn chỉnh, cịn phát ngơn là việc một người cụ
thể sử dụng một khúc đoạn ngôn ngữ bất kỳ áp dụng cho một tình huống cụ thể, vì vậy,
phát ngơn có thể là có hình thức một chuỗi các câu, một cú đơn,một ngữ đơn hoặc chỉ là
một từ đơn thơi. Do đó, phát ngơn được phân định với câu về mặt hình thức là dấu
ngoặc kép. Chính điều này là điểm giao kết giữa ngôn ngữ học đại cương và ngữ dụng
34


học trong xem xét bản chất của phát ngôn. Trong nhận xét của mình, giáo sư Đỗ Hữu
Châu đã rất đúng khi kết luận rằng “khi thay đổi tư cách phát ngơn của một câu thì cấu
trúc đềthuyết của nó cũng đổi, nói đúng hơn thì vì cấu trúc đề thuyết thay đổi, cho nên
một câu mới có thể là những phát ngơn khác nhau” (tr.32). Ơng nhận xét như vậy vì
phát ngơn mang “bản chất hành động”(có lẽ thuật ngữ này nên đổi thành “bản chất ngơn
hành” thì chính xác hơn).
Để đi đến định nghĩa về ngữ dụng học, giáo sư Đỗ Hữu Châu đưa ra các cách tiếp

cận và biện giải về câu, phát ngôn và diễn ngôn. Thuy nhiên, vì diễn ngơn là vấn đề cịn
nhiều khía cạnh chưa thống nhất trong giới ngôn ngữ học nên tôi không đề cập ở trong
bài viết này. Tuy nhiên cần thấy rõ rằng tác giả bộ giáo trình này đã có những nhận định
rất minh xác về diễn ngơn xuất phát từ quan điểm ngữ dụng học khi ông cho rằng diễn
ngơn là:
“- Lời của từng người nói ra trong một cuộc giao tiếp.
- Tổng những lời nói của một người trong một cuộc thoại có thể là một diễn ngôn
liên tục hay ngắt quãng…..mỗi diễn ngôn..là một phần hay là một”chiến dịch” hợp
thành chiến lược giao tiếp…
- Diễn ngôn là thuật ngữ chung cho tất cả những đơn vị lời nói phù hợp với những
tiêu chuẩn…của chúng tơi.
- Diễn ngơn… có mặt động và tĩnh. Diễn ngơn là một quá trình sản sinh ra và liên
kết các phát ngôn thành một chỉnh thể”. (tr. 34,35)
Những nhận định trên phù hợp với cách nhận diện về diễn ngôn trong “Oxford
Concise Dictionary of Linguistics”, nxb. Oxford Univercity Press (1997): “chuỗi kế tiếp
mạch lạc bất kỳ gồm các câu được nói hay được viết. Như vậy, mục này trong từ điển là
một ví dụ về diễn ngơn; cũng như vậy khi nói tới một tiểu thuyết; cũng như một diễn
văn của chính trị gia hay một bài giảng cho sinh viên; đó cũng là một bài phỏng vấn hay
bất kỳ loạt sự kiện lời nói nào mà trong đó các câu hay phát ngôn liên tiếp được mắc
vào với nhau…”(tr.100).
Từ những phân tích trên, giáo sư Đỗ Hữu Châu trình bày định nghĩa của mình về
ngữ dụng học.
Giáo sư đã có nhận định gần với cách xác định về ngữ dụng học trực tiếp và ngữ
dụng học gián tiếp, tuy nhiên ông gán vấn đề nội dung hay ngữ nghĩa bị quy định về
đúng-sai và khơng bị quy định về tính chất này về ngữ nghĩa học, nếu ông phát triển
tiếp thì chắc chắn sẽ dẫn tới tiếp cận ngữ nghĩa học theo ngữ dụng học kinh điển của
Austin, Searle, Grice, Kaplan hay Stalnaker.
Ông đã dẫn ra các định nghĩa của Stephen C.Levinson, của Gazdar và một vài nhà
ngôn ngữ học khác để làm cơ sở cho kiến giải của riêng mình về ngữ dụng học. Mặc dù
chính giáo sư khơng đưa ra một định nghĩa thành một luận đề cụ thể, nhưng có thể thấy

rang ơng đã dựa vào Levinson và Gazdar để có các nhìn tồn diện và hợp lý cũng như
35


nhất quán về ngữ dụng học. Ông cho biết: “ Chính vì ngữ nghĩa ngữ dụng được tạo ra
bởi những con đường không phải logic cho nên sự xác định ngữ dụng học của Gaz-đa
và Levinson mới có khả năng giúp cho sự nghiên cứu các hiện tượng ngữ dụng đa
dạng,, phức tạp có được một phương pháp tiếp cận nhất quán. Phương pháp tiếp cận các
sự kiện ngữ dụng có thể nhất qn được là vì chúng được sản sinh ra từ cả hai phía
người nói, người nghe theo những con đường cụ thể tuy rất khác nhau nhưng đều thống
nhất ở chỗ không phải là con đường logic”(tr.54).
Cách tường giải nói trên giúp hiểu rõ được phương thức tiếp cận của giáo sư Đỗ
Hữu Châu tới bản chất của ngữ dụng học. Ý kiến này gần với những cách hiểu chân xác
về ngữ dụng học.
Ngay từ năm 1938, Morris đã phân biệt rõ ràng rằng ngữ nghĩa học vốn đề cập tới
mối quan hệ giữa các ký hiệu với sự vật mà chúng có thể biểu đạt hay đang biểu đạt,
còn ngữ dụng học quan tâm đến quan hệ giữa các ký hiệu với những người lý giải
chúng.
Còn Stalnaker vào năm 1972 thì xác nhận cú pháp học nghiên cứu các câu, ngữ
nghĩa học khảo sát các mệnh đề, còn ngữ dụng học nghiên cứu các hành động ngôn ngữ
và các ngữ cảnh nơi chúng được thực hiện. Stalnakercho biết có hai loại vấn đề chính
mà ngữ dụng học phải giải quyết, đó là xác định các loại hành động ngôn từ và các sản
phẩm ngôn từ, sau đó là việc làm rõ các thuộc tính của ngữ cảnh lời nói vốn giúp xác
định xem loại mệnh đề nào được một dạng câu cụ thể nào biểu thị.
Đến năm 1977 thì Katz vạch ró ranh giới lý thuyết giữa cách lý giải ngữ nghĩa học
và cách lý giải ngữ dụng học bằng việc lấy thành tố ngữ nghĩa học để biểu đạt chính xác
chỉ những khía cạnh nghĩa của câu mà một người nói hay người nghe lý tưởng của ngơn
ngữ cụ thể đó sẽ hiểu trong một tình huống vơ danh bất kỳ, trong tình huống như thế
khơng hề có dấu hiệu nào cho biết về động cơ, cảnh huống hay bất cứ yếu tố nào tương
đồng với việc hiểu câu trên cơ sở ngữ cảnh của phát ngôn. (Dẫn theo Katz, J. (1977).

Propositional Structure and Illocutionary Force. New York: Crowell).
Riêng vào năm 1979 thì Gazdar cho rằng NGỮ DỤNG HỌC = NGHĨA TRỪ ĐI
CÁC ĐIỀU KIỆN CHÂN THỰC(PRAGMATICS = MEANING - TRUTH
CONDITIONS). Trong giáo trình của mình, giáo sư Đỗ Hữu Châu dẫn ra cơng thức mà
trích ra từ biện luận của Gazdar và Levinson: NGỮ DỤNG HỌC = NGỮ NGHĨA TRỪ
ĐI NGHĨA HỌC (tr.49). Thực ra, công thức này cũng giống công thức nêu trước đó về
nội dung.
Sau đó 11 năm, tức là vào năm 1988, Kempson cho biết ngữ nghĩa học cung cấp
cách giải thích trọn vẹn về nghĩa câu cho ngơn ngữ bằng xác định các điều kiện chân
thực của câu trong ngôn ngữ, cịn ngữ dụng học thì giải thích việc câu được sử dụng ra
sao trong các phát ngôn nhằm truyền tải thông tin trong ngữ cảnh.
Năm 1995, trong từ điển “The Cambridge Dictionary of Philosophy (Lycan 1995)

36


nói rõ bản chất của ngữ dụng học là việc nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong ngữ
cảnh, nghiên cứu sự phụ thuộc vào ngữ cảnh của các khía cạnh khác nhau trong tường
giải ngôn ngữ. Ngữ dụng học cho biết cùng một câu có thể biểu đạt các nghĩa khác nhau
hay các mệnh đề khác nhau trong ngưc cảnh này hay ngữ cảnh khác
Từ điển “The Oxford Companion to Philosophy (Fotion 1995)” xác định rằng ngữ
dụng học là việc nghiên cứu ngôn ngữ vốn tập trung vào người sử dụng ngôn ngữ và bối
cảnh sử dụng ngôn ngữ chứ khơng hẳn là quy chiếu, tính chân thực hay ngữ pháp nhờ
có tính lưỡng nghĩa (ambiguity) hay là tính trực chỉ (indexicality) hoặc cả hai tính chất
náy, và đó là lý thuyết hành động ngôn từ và lý thuyết hàm ẩn hội thoại.
Định nghĩa mà từ điển “The Blackwell Companion to Philosophy (Davies 1996)”
nêu ra cũng dựa vào sự phân định ngữ nghĩa học đối với ngữ dụng học, tức là phân định
nghĩa vốn được gán cho từ theo quy ước hay là nghĩa đen của từ, và như vậy là gán cho
câu, và cũng là nghĩa tiếp theo mà có thể được xác lập khi sử dụng thơng tin từ ngữ
cảnh theo các nguyên tắc khái quát hơn.

Có thể thấy rằng, giáo sư Đỗ Hữu Châu đã có những kiến giải rất tổng hợp về mọi
vấn đề cơ bản nhất của ngữ dụng học hiện đại mà chỉ thông qua phần khảo sát định
nghĩa của ông về ngữ dụng học cũng có thể thấy được tầm bao quát phân tích và mở
rộng của ơng.
Đồng thời, những vấn đề ông đặt ra trong công trình “”Đại cương ngôn ngữ học”
tập hai “ Ngữ dụng học” luôn được mở, điều này khiến những người nghiên cứu ngữ
dụng học luôn hứng thú trong công cuộc phát triển những ý tưởng của ông đã nêu ra về
các bình diện của ngữ dụng học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Austin, J. (1960): How To Do Things With Words. Oxford: Oxford University
Press.
2. Fotion, N. (1995). Pragmatics. In T. Honderich (ed.). The Oxford Companion
to Philosophy. Oxford: Oxford University Press, p. 709.
3. Gazdar, G. (1979). Pragmatics: Implicature, Presupposition, and Logical Form.
London: Academic Press.
4. Grice, P. (1989). Studies in the Way of Words. Cambridge, Mass: Harvard
University Press.
5. Johnstone, Barbara. (2001). Discourse Analysis. Oxford: Blackwell.
6. Katz, J. (1977). Propositional Structure and Illocutionary Force. New York:
Crowell.
7. Kempson, R. (1988). Grammar and conversational principles. In Newmeyer, F.
(ed.). Linguistics: The Cambridge Survey, Vol. II. Cambridge, Eng.: Cambridge
University Press, pp. 139-163.

37


8. Levinson, S. (1983). Pragmatics. Cambridge, Eng.: Cambridge University
Press.
9. Morris, C. (1938/1971). Foundations of the theory of signs. In Writings on the

Theory of Signs. The Hague: Mouton, pp. 17-74.
10. Searle, J. (1969): Speech Acts. Cambridge, Eng.: Cambridge University Press.
11. Stalnaker, R. (1972). Pragmatics. In G. Harman and D. Davidson (eds.):
Semantics of Natural Language. Dordrecht: Reidel, pp. 380-397.
12. />
38



×