Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA "LẤY NHỎ ĐÁNH LỚN-LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU" – MỘT TÀI SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.04 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG

TIỂU LUẬN

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ƠNG CHA TA –MỘT TÀI SẢN
TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

HỌC PHẦN: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHỊNG

TIỂU LUẬN

NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ƠNG CHA TA –MỘT TÀI SẢN
TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

HỌC PHẦN: Đường lối quốc phòng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam

Họ và tên tác giả: Vĩnh Xuân Phúc

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2021



Mục lục


4

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Lịch sử đấu tranh giữ nước của nhân dân ta cho thấy nghệ thuật quân sự là một
nhân tố quan trọng trong chiến tranh. Trước nạn ngoại xâm dân tộc ta khơng cịn lựa chọn
nào khác là đứng lên cầm vũ khí chống quân thù. Nhưng quân xâm lược có lực lượng
quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Để đánh bại một kẻ địch như vậy, ông cha ta đã biết
sáng tạo ta cách đánh để thắng địch, đó là một nghệ thuật. Trong điều kiện một đất nước
không rộng, người không đông, phải đánh thắng những quân đội xâm lược lớn mạnh, dân
tộc ta đã tạo nên một nghệ thuật mà tổ tiên ta gọi là “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch
nhiều”.
“Lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh” là một trong những
nội dung cơ bản, sáng tạo, là kết quả phát triển, kết tinh của nhiều nhân tố tạo nên sức
mạnh tổng hợp, là bài học kinh nghiệm và truyền thống quý báu của dân tộc ta trong công
cuộc chống giặc giữ nước. Vấn đề đó đang có ý nghĩa với chúng ta trong củng cố quốc
phịng tồn dân để lại có hiệu quả với mọi âm mưu thủ đoạn của Chủ nghĩa Đế quốc bảo
vệ vững chắc Việt Nam xã hội Chủ nghĩa.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc nếu có xảy ra, trên cơ sở kế thừa nghệ thuật
quân sự truyền thống của dân tộc nhưng lại phải sáng tạo “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch
nhiều” trong điều kiện chiến tranh bằng vũ khí cơng nghệ cao. Vì vậy nghiên cứu nghệ
thuật quân sự này sẽ góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận, con đường, biện pháp để tạo nên
sức mạnh ưu thế, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược cho dù chúng từ đâu đến, có số qn
đơng, vũ khí trang bị, phương tiện hiện đại và tiềm lực chiến tranh lớn hơn ta nhiều lần.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Phân tích những nội dung và lợi ích của nghệ thuật đánh giặc của ơng cha ta qua
nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” để thấy được quá trình chuyển biến
tương quan so sánh lực lượng địch và ta nhằm tạo nên sức mạnh ưu thế đánh thắng kẻ thù.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghệ thuật quân sự ở Việt Nam là một vấn đề có phạm vi rộng lớn. Đề tài nghiên
cứu khái quát về các nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta và đi sâu vào nghiên cứu nghệ
thuật tiêu biểu “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu về các nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta và tập trung
nghiên cứu ở nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” để thấy được sự sáng tạo
của ông cha ta, Đảng ta, quân và dân ta trong quá trình nhận thức và vận dụng quy luật


5

chiến tranh nhân dân Việt Nam gắn với những điều kiện cụ thể vào chỉ đạo đấu tranh vũ
trang và chiến tranh nhằm tạo nên sức mạnh ưu thế đánh thắng kẻ thù xâm lược.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, bài làm vận
dụng phương pháp nghiên cứu tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, trừu tượng hóa, logic và lịch sử.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu; kết luận; mục lục; phụ lục; danh mục tài liệu tham khảo; kết
luận và kiến nghị; Tiểu luận kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta – một tài
sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.
Chương 2: Nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” của ông cha ta.
Chương 3: Phát huy nghệ thuật quân sự của ông cha ta vào thời đại hiện nay.



6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC
CỦA ÔNG CHA TA – MỘT TÀI SẢN TINH THẦN VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM
1.1: NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC CỦA ÔNG CHA TA:
1.1.1: Khái quát nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta:
Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm ơng cha ta đã hình thành nghệ thuật
“chiến tranh nhân dân”, “toàn dân đánh giặc”, nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch
nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số lượng đơng”…
Trong q trình đó,nghệ thuật qn sự VN từng bước phát triển và được thể hiện
rất sinh động trong khởi nghĩa vũ trang,chiến tranh giải phóng trên các phương diện tư
tưởng chỉ đạo tác chiến, mưu kế đánh giặc…
Về tư tưởng chỉ đạo tác chiến:
Ông cha ta ln nắm vững tư tưởng tiến cơng, coi đó như 1 quy luật để dành thắng
lợi trong suốt quá trình chiến tranh.Thực hiện tiến cơng liên tục mọi lúc, mọi nơi, từ cục
bộ đến toàn bộ, để quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.
Tư tưởng tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị
và tiến hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá đúng kẻ thù,
chủ động đề ra kế sách đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực lượng kháng chiến, tìm
mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời cơ có lợi để tiến hành phản cơng,
tiến cơng…
Về mưu kế đánh giặc:
Mưu là để lừa địch, đánh vào chổ yếu, chổ sơ hở, chổ ít phịng bị, làm cho chúng
bị động, lúng túng đối phó.
Kế là để điều địch theo ý định của ta, dành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh
theo cách đánh của ta.



7

Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo, mà cịn hết sức mềm dẻo,
khơn khéo đó là “biết tiến, biết thối, biết cơng, biết thủ”. Biết kết hợp chặc chẽ giữa tiến
công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh cho ta, biết phá thế mạnh của giặc,
trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị quyết định.
Ơng cha ta đã phát triển mưu kế đánh giặc, biến cả nước thành một chiến trường,
tạo ra 1 “thiên la, địa võng” để diệt địch “làm cho địch đơng mà hóa ít, mạnh mà hóa
yếu”, đi đến đâu cũng bị đánh, ln bị tập kích, phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt,
rơi vào trạng thái “tiến thối lưỡng nan”.
Trong tác chiến, ơng cha ta đã triệt để khoét sâu điểm yếu của địch là tác chiến ở
chiến trường xa, tiếp tế khó khăn, nên đã tập trung triệt phá lương thực,hậu cần của địch.
1.1.2: Vận dụng nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta vào trong 2 giai đoạn chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ:
Thời kỳ đầu chống Pháp, nghệ thuật quân sự Việt Nam chưa phải đã có đủ các
thành tố của nó. Nghệ thuật chiến dịch của ta chưa hình thành, chiến thuật còn sơ khai,
nhưng chiến lược quân sự của ta đã có tính vượt trước cả về chỉ đạo chiến tranh và tư duy
chiến lược. Nhờ vậy, Đảng ta đã xử lý rất khéo vấn đề cô lập, phân hóa, loại bỏ bớt kẻ thù
để tập trung vào kẻ thù chủ yếu. Chiến lược quân sự của ta ln tìm cách vơ hiệu hóa
chiến lược của địch. Trong hai cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, cả Pháp và Mỹ đều
đưa ra chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh. Thay vì cuốn theo chiến lược đó, ta chủ
trương đánh lâu dài, nhưng không phải là đánh kéo dài vô hạn định, mà đánh liên tục,
rộng khắp, từng bước giành quyền chủ động, kết hợp cả đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn,
kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, chiến tranh chính quy với
chiến tranh du kích và kết hợp tiến cơng qn sự với nổi dậy của quần chúng để kết thúc
chiến tranh trong điều kiện có lợi nhất.
1.1.2.1: Thời kỳ chống Pháp:
Sau Thu-Đông 1947, quân Pháp đã mất quyền chủ động, buộc phải chuyển dần vào phòng
ngự bị động. Trong chiến dịch Biên Giới (1950), hai binh đồn (Lơ Pa-giơ và Sác-tơng)
của Pháp phải ứng cứu cho Đông Khê để rồi sau đó bị ta tiêu diệt gọn. Đó thực chất đều

là hệ quả của việc bị cuốn theo lối đánh của ta. Đông-Xuân 1953-1954, Pháp tăng mạnh
quân số, trang bị, nhưng ta “chia nhỏ chúng” bằng cách mở 5 đòn tiến công chiến lược
(Lai Châu – Trung Lào – Hạ Lào và đông-bắc Căm-pu-chia – Tây Nguyên – Thượng Lào)
làm cho quân Pháp mắc kẹt vào mâu thuẫn giữa tập trung với phân tán, khiến chúng


8

khơng thể có lực lượng cơ động mạnh để đối phó với ta trên các chiến trường. Trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, sự thực là địch bị động cả về ý định cũng như cách đánh, để rồi
một hệ thống phòng ngự hiện đại, kiên cố, được xem như là “một pháo đài bất khả xâm
phạm”, nhưng cuối cùng vẫn thất bại thảm hại.
1.1.2.2: Thời kỳ chống Mỹ:
Nghệ thuật buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước còn được thể hiện hết sức sinh động và đa dạng. Mỹ phải thay đổi
hết chiến lược, chiến thuật này đến chiến lược, chiến thuật khác, nhưng bản chất của các
chiến lược, chiến thuật đó chẳng thể hiện tính chủ động hay sáng tạo gì mà đều là sự thay
đổi trong bị động. Ngược lại, tư tưởng chỉ đạo của ta luôn nhất quán, việc thay đổi
phương pháp đấu tranh cách mạng, hay biện pháp tác chiến là để phù hợp với sự vận
động, biến đổi của hình thái tác chiến và chiến tranh; trên hết là để giành quyền chủ động
trên chiến trường. Các nguyên tắc phổ biến của NTQS thế giới cùng với tinh hoa truyền
thống quân sự của dân tộc luôn được Đảng ta vận dụng hết sức sáng tạo. Quan điểm, tư
tưởng quân sự "đánh chỗ mềm, chỗ cứng cũng phải mềm, đánh chỗ cứng, chỗ mềm cũng
hóa cứng" được chúng ta kế thừa, phát triển một cách hết sức tài tình trong hầu hết các
cuộc tiến cơng, phản cơng chiến lược, điển hình là trong Chiến dịch Plây-me (1965),
Cuộc tiến công chiến lược 1972, Chiến dịch Tây Nguyên (1975), v.v. Để hạn chế mặt
mạnh của địch, đồng thời phát huy cách đánh của ta, ta tìm mọi biện pháp buộc địch phải
phân tán lực lượng, không cho chúng phát huy lối đánh sở trường (đánh tập trung lực
lượng, dàn thành hai tuyến đối địch), bắt chúng phải đánh theo lối đánh gần, đánh hiểm,
đánh khơng phân tuyến của ta. Vì vậy, mặc dù có tới hơn một triệu quân, có vũ khí kỹ

thuật tối tân, nhưng do chiến lược, chiến thuật tréo giị, bị động, chắp vá nên Mỹ-ngụy
ln lâm vào tình trạng bế tắc; bởi qn đơng mà phải phân tán mỏng, qn đơng nhưng
khơng có tỷ lệ qn cơ động tương xứng; hỏa lực mạnh và khả năng cơ động cao nhưng
không phát huy được, rốt cuộc phải chấp nhận thất bại hoàn toàn.
1.1.3: Những điểm đặc sắc trong nghệ thuật đánh giặc của ông cha ta:
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt “mưu phạt tâm công,” “lấy đại nghĩa thắng hung tàn,
lấy chí nhân thay cường bạo”…
Vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời, mưu”, với nhiều cách đánh sáng tạo để giành
thắng lợi với tổn thất ít nhất.
Đây cũng là nét tiêu biểu nhất thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa giữ nước Việt Nam.
Và xuất phát từ đạo lý “thương người như thể thương thân”, “tương thân, tương ái”, trong


9

các cuộc chiến tranh nói chung, các trận đánh nói riêng; vừa thể hiện quyết tâm giành
thắng lợi, vừa cố gắng hạn chế thấp nhất tổn thất cho cả hai bên.
Và khi thắng lợi ln ứng xử mang đậm tính nhân văn, bác ái giữa con người với
con người nhằm xóa bỏ thù hận, mau chóng nối lại hịa hiếu bang giao giữa hai quốc gia,
dân tộc.
Đây là nét đẹp truyền thống, bản sắc văn hóa quân sự của dân tộc, được các thế hệ
duy trì thực hiện và phát triển.
Để giành thắng lợi ông cha ta đã kết hợp chặt chẽ giữa thế và lực, kết hợp đấu
tranh vũ trang và phi vũ trang làm cho nghệ thuật quân sự và văn hóa quân sự Việt Nam
càng trở nên đặc sắc, độc đáo.

1.2: MỘT VÀI NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA ƠNG CHA TA:
Lấy bối cảnh Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ 26/04 đến 30/04/1975) là một điển hình
mang nét độc đáo và đặc sắc của một vài nghệ thuật quân sự ở Việt Nam.
1.2.1: Nghệ thuật tạo và nắm bắt thời cơ giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến

dịch Hồ Chí Minh lịch sử:
Cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy mùa Xuân 1975 mang đầy đủ những nét độc đáo,
sáng tạo và đánh dấu bước phát triển vượt bậc về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bước vào
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, ta chủ động nắm chắc âm mưu và thủ
đoạn mới của địch, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định
mở nhiều hướng tiến công chiến lược.
Nhờ có nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy tài giỏi, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ, phát hiện
sớm và nhạy bén nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, sử dụng nghệ thuật
mưu kế trên nền tảng chiến tranh nhân dân, phát triển tiến công táo bạo và thần tốc, đánh
địch bất ngờ và liên tục nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xn 1975 đã giành
được thắng lợi hồn tồn.
Đó là nghệ thuật tạo lực, tạo thời cơ sử dụng lực lượng khôn khéo để đánh địch
trên thế mạnh, tạo nên sức mạnh áp đảo quân địch, đồng thời thực hiện những trận đánh


10

then chốt, then chốt quyết định tiêu diệt lớn bằng các đòn chiến lược, buộc địch từ chỗ bị
đánh bất ngờ đến bị động phải co cụm chiến lược, rồi rút lui chiến lược mà dẫn đến sự tan
rã và thất bại hoàn toàn.
1.2.2: Nghệ thuật tạo ưu thế lực lượng hình thành sức mạnh áp đảo, bảo đảm đánh
địch trên thế mạnh:
Đây là nét độc đáo, sáng tạo của nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng, tạo sức
mạnh áp đảo bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống. Trong cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, căn cứ vào điều kiện của ta, tình hình địch, yếu tố địa
hình thời tiết; kế thừa truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Chiến dịch Hồ Chí Minh ta xác định Sài Gịn là “Thủ phủ”, đóng các cơ quan đầu
não của chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa; chúng sẽ tập trung binh lực ngoan
cố chống cự quyết liệt, mặc dù tinh thần sĩ quan, binh sĩ đã hoang mang, dao động cực độ.

Vì vậy, ta tập trung lực lượng mạnh, áp đảo địch chưa từng có, ta tập trung chủ lực gấp
địch 1,7 lần, số đơn vị tập trung gấp 3 lần.
Với nghệ thuật tạo ưu thế về lực lượng hợp lý, khoa học đã hình thành nên các
binh đồn chủ lực cơ động có sức tiến cơng rất mạnh, tốc độ tiến công cao, đánh địch với
ưu thế hơn hẳn và hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch với thời gian ngắn nhất.
1.2.3: Nghệ thuật phát huy sức mạnh hiệp đồng quân, binh chủng trong tác chiến
quy mô lớn:
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã sử dụng và phát huy tốt tác chiến hiệp đồng
các quân, binh chủng trên quy mô lớn, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh
đoàn chiến lược, đưa khả năng đánh tiêu diệt lên trình độ cao, tiêu diệt và đập tan từng sư
đoàn, quân đoàn chủ lực địch, đập vỡ từng mảng lớn trong hệ thống phòng thủ, phòng
ngự chiến lược của chúng.
Bộ đội tăng-thiết giáp cùng với bộ binh đột kích, dẫn đầu các đơn vị thọc sâu đánh
chiếm mục tiêu quan trọng và truy kích địch. Bộ đội đặc công luồn sâu, đánh hiểm vào
các mục tiêu quan trọng trong thành phố, đánh chiếm và bảo vệ các đầu cầu, bảo đảm cho
các đơn vị thọc sâu đánh chiếm mục tiêu theo hiệp đồng chiến dịch. Bộ đội phịng khơng


11

bắn máy bay bảo vệ vùng trời, hành tiến bảo vệ đội hình chiến dịch, đánh địch đổ bộ
đường khơng, địch mặt đất, mặt nước. Bộ đội pháo binh phát huy sức mạnh hỏa lực, tích
cực chi viện cho bộ binh, xe tăng tiến công địch theo kế hoạch.
Bộ đội không quân phục vụ đắc lực cho việc vận chuyển, phục vụ chỉ huy; đặc biệt
là đánh một trận bí mật, bất ngờ vào sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện hiệp đồng tác chiến
quân binh chủng trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Các binh chủng như công
binh, thông tin, vận tải được sử dụng đúng chức năng, đã phát huy hết khả năng và sức
mạnh bảo đảm cho chiến dịch phát triển nhanh nhất.
1.2.4: Nghệ thuật kết hợp giữa tiến công với nổi dậy ở cả rừng núi, nông thôn, đồng
bằng và đô thị:

Đây là bài học sáng tạo về nghệ thuật kết hợp giữa những đòn tiến công quân sự
bằng các trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn của bộ đội chủ lực với sự nổi dậy
mạnh mẽ của quần chúng cách mạng, đập tan bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền ở địa
phương, cơ sở để giành quyền làm chủ.
Về phương thức giành thắng lợi, ta chủ trương “tiến công quân sự phải đi trước
một bước để hỗ trợ và kết hợp với nổi dậy của quần chúng” nhằm tiêu diệt địch và giành
quyền làm chủ, tạo sức mạnh áp đảo quân địch. Trong đó, tiến cơng qn sự của bộ đội
chủ lực tạo thuận lợi, “khêu ngòi” để quần chúng nhân dân nổi dậy đấu tranh làm cho tinh
thần binh lính địch hoang mang, dao động, mở ra thế tiến công và điều kiện thuận lợi để
lực lượng vũ trang ta đánh tiêu diệt địch, giành thắng lợi lớn.
1.2.5: Nghệ thuật chỉ đạo vận dụng chiến thuật linh hoạt, sáng tạo để thực hiện
thuận lợi nhiệm vụ chiến dịch:
Trong trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân 1975, Quân ủy Trung ương và Bộ
Tổng tư lệnh chiến dịch đã chỉ đạo vận dụng linh hoạt, sáng tạo các loại hình chiến thuật
như điều khiển địch, lừa địch, nhử địch vào kế của ta mà đánh; đánh địch cả trong cơng
sự và ngồi cơng sự, trên các loại hình rừng núi, nơng thơn, đồng bằng, đô thị...
Đặc biệt là sự thành công của tác chiến hiệp đồng binh chủng đánh vào thành phố,
thị xã và căn cứ quân sự lớn với các hình thức: Tiến công địch trong các căn cứ, thị xã,
thành phố lớn, tiến công hành tiến, vận động tiến công, đánh địch đổ bộ đường không,


12

truy kích địch trong điều kiện có thời gian chuẩn bị và khơng có thời gian chuẩn bị đã
phát triển vượt bậc và đạt hiệu suất chiến đấu cao.
Phát huy những bài học kinh nghiệm của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh tồn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao; xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để quân đội thực

sự là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.


13

CHƯƠNG 2
NGHỆ THUẬT “LẤY NHỎ ĐÁNH LỚN”, “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU”
CỦA ÔNG CHA TA
2.1: KHÁI NIỆM:
Nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh chính là sản
phẩm của lấy “thế” thắng “lực”. Quy luật của chiến tranh xưa nay đều là mạnh được yếu
thua, nhưng từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, cha ông ta đã sớm xác định đúng về
sức mạnh trong chiến tranh đó là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố,chứ không thuần
túy là sự so sánh hơn kém về quân số, vũ khí của mỗi bên tham chiến.
Nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và
binh vận:
+ Mặt trận chính trị là cổ vũ tinh thần của nhân dân, quy định sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc.
+ Mặt trận quân sự là thực hiện tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy phương tiện chiến tranh
của địch, quyết định thắng lợi trực tiếp trong chiến tranh, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận
khác phát triển.
+ Mặt trận ngoại giao là đề cao tính chính nghĩa của nhân dân ta, phản hóa, cơ lập kẻ thù,
tạo thế có lợi cho cuộc chiến để kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.
+ Mặt trận binh vận để vận động làm tan rã hàng ngũ của giặc, góp phần hạn chế thấp
nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
“Lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” trở thành truyền thống trong đấu tranh giữ
nước của dân tộc ta.
2.2: NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY NHỎ ĐÁNH LỚN”, “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU”
LÀ SỰ KẾT HỢP “ MƯU – THỜI – THẾ - LỰC”:

Nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều” chính là sản phẩm của lấy “thế” thắng
“ lực”. Dựa trên mối quan hệ giữa thế và lực, tạo lực phải đi đơi với lập thế, bởi thế và lực
có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực khơng thơi thì chưa đủ mà cịn phải có thế thì
mới phát huy được tác dụng của lực. Trong chiến tranh cũng vậy, chỉ có lực mà khơng có
thế, thì cũng khơng thể đánh thắng được quân địch. Muốn đánh thắng quân địch, có thế và


14

được thế hay, thế tốt thì một lực lượng quân sự dù nhỏ hơn, vũ khí ít và kém hơn nhưng
vẫn có thể biến thành nhiều, nhỏ biến thành lớn và giành được thắng lợi. Lấy ít địch nhiều
được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Vì vậy, ta phải biết lập thế đi đôi với phá thế định, hạn
chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch, đồng thời không ngừng phát triển sức mạnh
của lực lượng ta.
Thế trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận chiến tranh, thế bố trí lực
lượng gắn với địa hình và điều kiện địa lý nhất định. Như vậy, thế mạnh và thế yếu giữa
ta và địch chỉ là tương đối chứ không phải là tuyệt đối. Do đó, cha ơng ta ln chủ động,
sáng tạo thế trận mới, ngày càng hiểm hóc, lợi hại và khơng ngừng nhân lên thế và lực
của ta, tạo điều kiện cho quân ta thực hiện chia cắt, vây hãm và chủ động tiến công quân
địch ở mọi nơi, mọi lúc bằng nhiều hình thức tác chiến, với mọi thứ vũ khí trang bị có
trong tay, làm cho quân xâm lược dẫu đơng mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu và cuối cùng bị
thất bại hoàn toàn.
Sự kết hợp “Mưu – Thời – Thế - Lực” trong nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít
địch nhiều”. Để phát huy hiệu lực của thế và lực, phải dùng mưu, bày kế, đợi thời để đánh
địch. Bởi mưu, thời, thế, lực có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau: thế,
lực vận động thì tạo ra thời, biết dùng mưu thì hạn chế được chỗ mạnh của địch, phát huy
được cái mạnh của ta, tạo điều kiện chuyển biến về chất ở thời điểm quyết định để giành
thắng lợi. “Tạo luật, lập thế, tranh thời, dùng mưu” còn gắn liền với phát huy các yếu tố
“thiên thời, địa lợi, nhân hòa” – những yếu tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh,
trong đó nhân hịa là quan trọng bậc nhất vì có nhân hịa mới có lực lượng, mới tạo được

thế trận, mới tạo ra thời cơ và tranh thủ được thời cơ. Cha ông ta rất coi trọng việc kết hợp
mưu, thời, thế, lực để dành chiến thắng. Nắm vững và vận dụng tài tình quy luật về thế và
lực trong chiến tranh, coi trọng vấn đề thời cơ và nhấn mạnh phải có quyết tâm tranh thủ
thời cơ để dành thắng lợi.
2.3: SỰ KHÉO LÉO TRONG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “LẤY NHỎ ĐÁNH
LỚN”, “LẤY ÍT ĐỊCH NHIỀU” TRONG CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC CỦA CHA
ƠNG TA:
Cha ơng ta nhận thức được sức mạnh của chiến tranh là sức mạnh tổng hợp, sức
mạnh có chuyển hóa và phát triển chứ khơng đơn thuần là sự so sánh tương quan lực
lượng và phương tiện của mỗi bên tham chiến. Xét thực tiễn diễn biến của nhiều cuộc
chiến tranh thắng lợi, có thể thấy rõ cha ông ta không bao giờ đi lệch khỏi mục đích qn
sự cuối cùng là tiến cơng tiêu diệt địch trên đất nước ta. Nhưng cha ông ta cũng khơng hề
tách mục đích cần đạt đó với điều kiện khách quan là lúc đầu lực lượng quân sự của địch


15

mạnh, ta yếu. Trước quân địch lớn mạnh, các nhà quân sự của ta đã biết tránh quyết chiến
trong điều kiện khơng có lợi khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu, nhằm bảo toàn lực lượng,
tranh thủ thời gian, tạo nên thế có lợi cho ta, làm địch suy yếu, bồi dưỡng lực lượng ta, rồi
từng bước tiêu diệt quân địch mà giành thắng lợi trong chiến tranh.
Và thực tế cũng như về lý luận, trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh tự vệ,
trong nghệ thuật chỉ đạo tác chiến cha ông ta điều chú trọng tránh chỗ mạnh của địch, lấy
cái mạnh của mình, tìm chỗ yếu của địch mà đánh. Do đó, sức mạnh của địch khơng được
sử dụng, lực lượng lớn của địch không phát huy hết sức mạnh, không đạt được hiệu quả
cao. Trái lại, ta thì dùng mọi sức mạnh một cách thích hợp, có thể tiến cơng tiêu diệt địch
ở mọi nơi, mọi lúc với quy mơ khác nhau. Chính vì vậy mà nét sáng tạo trong nghệ thuật
quân sự dân tộc của cha ơng là biết “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, khi cần thiết
thì tập trung qn có số lượng lớn hơn địch để tìm diệt chúng; khi thì biết dùng những đạo
quân có chất lượng cao, có sức chiến đấu lớn để tiêu diệt những đạo quân đông hơn của

địch trong những thời cơ thuận lợi. Có thể nói, những chiến thắng anh liệt nhất trong
những cuộc chiến tranh thắng lợi đều là những trận “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch
nhiều”. Để đạt được chiến thuật đó, ông cha ta đã rất chú trọng đến nhân tố chất lượng
trong việc xây dựng lực lượng, cùng với nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài giỏi, sự tinh
nhuệ của quân đội là những nhân tố rất cơ bản quyết định sức mạnh chiến đấu của quân
đội.
Ví dụ, thời Lý, Trần, Lê, nghệ thuật quân sự “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”
được phát huy cao độ:
+ Triều Lý với 10 vạn quân đã đánh thắng 30 vạn quân Tống. Năm 1076, Quân Tống đem
30 vạn tiến đánh nước ta. Lý Thường Kiệt khai thác mặt mạnh của ta, tìm ra chỗ yếu của
địch. Ơng cho ngâm vang bài thơ thần bất hủ để khích lệ Quân ta và làm nhục chí kẻ thù.
Cuối năm 1077, quân ta bí mật vượt sông Như Nguyệt đánh vào các doanh trại của quân
Tống, làm cho quân Tống lâm vào khó khăn, Tuyệt vọng và cuối cùng nhận lời hịa hỗn,
rút qn về nước.
+ Triều Trần với 15 vạn quân đã đánh thắng 60 vạn quân Nguyên Mông. Vào thế kỉ XII,
quân dân nhà Trần đã ba lần đại thắng Nguyên Mông, viết lên trang sử vàng chói lọi của
dân tộc. Nước đại Việt nhỏ bé, quận ít, dân khơng đơng, tìm lực có hạn lại đánh thắng một
đội quân xâm lược khổng lồ, hùng mạnh và tàn bạo nhất trong lịch sử, có trang bị mạnh,
từng chinh phục đại bộ phận lục địa từ Á sang Âu. Một trong những lý giải cho điều đó là
đại Việt đã vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự” lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”.


16

Năm 1258, Mông Cổ huy động 3 vạn quân cùng 1,5 vạn quân của đại lý tấn công
Đại Việt. Trước sức mạnh hùng hậu của quân Mông, Trần Hưng Đạo đã hiến kế cho vua
Trần Thái Tông rút khỏi Thăng Long thực hiện chiến lược “vườn không nhà trống” và bị
gặp khó khăn về lương thực, nhuệ khí của binh lính cũng giảm đi nhiều vì khơng chạm
trán được với đối thủ. 10 ngày ở trong kinh thành Thăng Long trống trải chưa biết phải
làm gì thì quân nhà Trần phản cơng, Qn Mơng Cổ nhanh chóng bị đánh bại.

Năm1285, hồng đế nhà Ngun lúc đó là Hốt Tất Liệt tiếp tục ra lệnh chinh phạt
Đại Việt với quân số đông hơn, chuẩn bị tốt hơn nhưng một lần nữa quân Nguyên bị đánh
bại dưới sự chỉ huy tài tình của Trần Hưng Đạo. Đến năm 1288 quân Nguyên tiếp tục tấn
công đại Việt lần thứ ba và cũng bị đánh bại.
Điểm chung trong ba lần đánh bại quân Nguyên-Mông dưới sự chỉ huy của Trần
Hưng Đạo là ông không chạm trán trực tiếp với kẻ thù bằng những trận đánh quy ước.
Trần Hưng Đạo đã nhận thấy điểm mạnh của quân Nguyên – Mông là tái cưỡi ngựa và
bắn cung rất giỏi cùng với việc được trang bị áo giáp kim loại nên đã lựa chọn chiến thuật
chiến tranh du kích. Các nhóm du kích liên tục thực hiện những cuộc tập kích bất ngờ vào
các nhóm qn Ngun- Mông tiêu hao sinh lực của chúng và chuẩn bị thời cơ tiêu diệt
gọn quân thù.
+ Triều Lê với 10 vạn quân đã đánh thắng 80 vạn quân Minh. Khởi nghĩa Lam Sơn
(1418- 1427) Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược giành lại
độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê. Trong giai đoạn đầu, cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu các cuộc càn quét của
quân Minh. Khi Lê Lợi tiến quân ra đất Nghệ An vào năm 1424, họ đạt được nhiều thắng
lợi to lớn. Lê Lợi vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị
tướng cầm quân mưu trí, quả quyết. Lê Lợi đã vận dụng lối đánh “vây thành diệt viện”
theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố
hàng năm, hàng tháng khơng lấy được, qn ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại
đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng ni sức
khỏe, chứ khí hăng để đợi qn cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tức phải hàng.
Cuộc vây hãm ở Đồng Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối
năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi là “lấy nhỏ đánh lớn”,
“lấy ít địch nhiều”, phải sáng tạo, lập mưu, tạo thế, đợi thời để tiêu diệt kẻ địch. Cuối
cùng, quân Minh phải giảng hòa và thối binh về nước. Bài bình Ngơ Đại Cáo đã tuyên
cáo cho toàn quốc biết về chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn.


17


CHƯƠNG 3
PHÁT HUY NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ CỦA ÔNG CHA TA VÀO THỜI ĐẠI HIỆN
NAY
3.1: TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ VỊ TRÍ, VAI TRỊ
CỦA VIỆC PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
TRONG GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO:
Việc giáo dục, phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống cần trang bị những kiến
thức cơ sở ban đầu cho người học, bồi dưỡng tri thức quân sự, nâng cao năng lực trí
tuệ, hiểu biết sâu sắc các quy luật quân sự. Truyền đạt tri thức quân sự thông qua kinh
nghiệm thực tiễn - một cơ sở rất quan trọng để phát triển lý luận quân sự hiện đại - là
phương tiện nhận thức hiệu quả nhất.
3.2: CHÚ TRỌNG VIỆC ĐỔI MỚI NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH, HÌNH THỨC
VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY; TÍCH CỰC NGHIÊN CỨU, BIÊN SOẠN CÁC
CƠNG TRÌNH TỔNG KẾT LỊCH SỬ, KINH NGHIỆM CHIẾN ĐẤU:
Trên cơ sở chương trình giảng dạy do Bộ Quốc phòng ban hành, các khoa chuyên
ngành cùng với Phòng Đào tạo tập trung nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung những nội dung
mới theo cấp độ nâng cao. Do đối tượng học viên đa dạng, cần xây dựng giáo trình, bài
giảng, bài tập của giảng viên phù hợp, vận dụng linh hoạt những kinh nghiệm, truyền
thống nghệ thuật quân sự của Quân đội, ông cha ta vào từng bài giảng. Để đạt hiệu quả
cao, cần nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn Lịch sử về mảng Nghệ thuật Quân sự,
tăng thêm thời lượng, phù hợp với từng đối tượng học viên, trở thành môn học bắt buộc
đối với các đối tượng, cả học viên trong nước và quốc tế.
Trong công tác nghiên cứu khoa học và biên soạn tài liệu, định hướng học viên
nghiên cứu khoa học, biên soạn các cơng trình lịch sử, kinh nghiệm chiến đấu, nghệ thuật
chiến đấu.
3.3: GẮN CHẶT HUẤN LUYỆN VỚI TRUYỀN THỤ KINH NGHIỆM TRUYỀN
THỐNG; COI NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRUYỀN THỐNG LÀ CƠ SỞ QUAN
TRỌNG NHẤT CỦA CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC:
Trong các bài giảng, bài tập đều phải có sự lồng ghép những bài học lịch sử, kinh

nghiệm chiến đấu và nghệ thuật quân sự của Quân đội và ông cha ta. Trong đó, chú trọng
những nội dung cụ thể, nhất là trích dẫn những trận đánh hiệu quả trong các cuộc chiến


18

tranh làm minh chứng cho những vấn đề lý luận. Tuy những kinh nghiệm, bài học truyền
thống nghệ thuật quân sự trong các cuộc chiến tranh trước đây có nội dung khơng cịn phù
hợp với đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử nhưng nó ln là cơ sở thực tiễn quan trọng
cho những đề xuất mới.
3.4: THƯỜNG XUYÊN TỔ CHỨC THỰC TẬP, NGHIÊN CỨU THỰC TẾ:
Để rút ngắn khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, nhà trường và chiến trường, cần
thường xuyên tổ chức cho học viên đi tham quan thực tế ở các đơn vị trong toàn quân để
nghiên cứu địa hình, địa bàn diễn ra các trận đánh, chiến dịch trong chiến tranh giải
phóng trước đây, tham quan vũ khí trang bị mới của Quân đội, học tập kinh nghiệm huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, huyện, quận, v.v.
Tổ chức cho học viên các lớp đào tạo dài hạn đi thực tập trên các cương vị theo
chức danh ở các đơn vị. Thơng qua đó, giúp học viên làm quen với cương vị lãnh đạo, chỉ
huy được đào tạo, học tập kinh nghiệm của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, nghiên cứu vận dụng
nội dung đã học vào thực tiễn đơn vị, bổ sung vào quá trình học tập và công tác.


19

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghệ thuật quân sự Việt Nam là sự linh hoạt để đạt được kết quả cuối cùng. Sử
dụng chính sức mạnh của kẻ thù để kìm giữ nó trong sự yếu đuối để chờ đợi thời điểm
thích hợp, các nhà lãnh đạo Việt Nam ln tìm cách che giấu lực lượng chủ lực của mình
chờ thời điểm thích hợp để tung ra trận đánh bất ngờ và quyết định để giành lại thắng lợi
cuối cùng. Tài thao lược của ông cha ta là một bài học quý giá cho chúng ta trong suốt

quá trình đánh giặc cứu nước và đến nay nó vẫn cịn ngun giá trị.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta ngày nay là cuộc chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lược; cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, phát huy sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống, nghệ thuật qn sự Việt Nam, địi hỏi phải
có tài thao lược, mưu kế, thế trận, vận dụng phương châm kết hợp truyền thống với hiện
đại trong sử dụng nghệ thuật quân sự. Quy luật của chiến tranh là “mạnh được, yếu thua”,
dân tộc và Quân đội ta thắng giặc bằng sức mạnh tổng hợp, trong đó có nghệ thuật quân
sự. Vì vậy cần phải nâng cao giáo dục và phát huy truyền thống nghệ thuật quân sự Việt
Nam, làm bài học kinh nghiệm quý báu để gìn giữ và phát triển truyền thống vẻ vang của
toàn Đảng, toàn dân và tồn qn trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình đường lối quốc phịng và an ninh của Đảng Cộng sản Việt Nam (biên soạn theo
Thông tư 05/2020/TT-BGDĐT)
/> /> /> /> /> />

PHỤ LỤC
(Trống)



×