Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh học tốt dạng bài giải toán có lời văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.29 KB, 22 trang )

MƠ TẢ SÁNG KIẾN
I. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN
Trong các mơn học ở Tiểu học, mơn Tốn có vị trí cực kỳ quan trọng vì
những lí do sau:
- Các kiến thức và kĩ năng của mơn Tốn, có nhiều ứng dụng trong đời sống
sinh hoạt của mọi người dân lao động.
- Mơn Tốn giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng
khơng gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận
thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả
trong đời sống.
- Mơn Tốn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp tư duy,
phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề góp phần phát triển trí
thơng minh, độc lập, sáng tạo, góp phần vào việc hình thành các phẩm chất của
người lao động mới.
Việc dạy giải toán ở Tiểu học là một trong những nội dung trong chương
trình mơn Tốn ở Tiểu học nhằm giúp học sinh tiếp thu và vận dụng những kiến
thức về Toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể
hiện một cách đa dạng phong phú. Dạy học Toán giúp học sinh có điều kiện rèn
luyện và phát triển năng lực tư duy và có đủ tư cách, phẩm chất của con người
mới.
Trong thực tế, chất lượng của bộ mơn Tốn nói chung và đặc biệt mơn Tốn
lớp 3 nói riêng đã có nhiều kết quả khả quan song chưa thực sự đáp ứng được
với nhiệm vụ và yêu cầu môn học đề ra. Cụ thể là chất lượng mơn Tốn lớp 3 trường Tiểu học chưa thực sự tương xứng với vị trí của mơn Tốn lớp 3 trong
chương trình học. Đặc biệt là kỹ năng giải tốn của học sinh lớp 3 chính là vấn
đề cần quan tâm. Trước thực tế như vậy tôi luôn suy nghĩ: Làm thế nào để giúp
học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng vào trong giải tốn, góp phần nâng
cao chất lượng học mơn Tốn của học sinh lớp 3, giúp các em có kỹ năng giải
tốn với tinh thần tự giác và hứng thú học tập.

1



Giải tốn có lời văn thực chất là những bài tốn thực tế, nội dung bài tốn
được thơng qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc,
có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài tốn có lời
văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố lời văn đã che
đậy bản chất toán học của bài tốn. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ
ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và
tìm được những lời giải phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài
tốn.
Là một giáo viên trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 3, qua kinh
nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi đã
rút ra được: “Một vài biện pháp giúp học sinh giải tốt bài tốn có lời văn lớp 3”
để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối
với học sinh lớp 3 nói riêng.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Trong dạy học tốn ở Tiểu học, giải tốn có vị trí quan trọng, có thể coi dạy
học giải Tốn là "Hịn đá thử vàng" của dạy học toán. Trong giải toán, học sinh
phải tư duy một cách tích cực linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và
khả năng đã có vào tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết
phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu một cách tường minh và
trong chừng mực nào đó, phải biết suy nghĩ năng động sáng tạo. Vì vậy có thể
coi giải tốn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ
của học sinh.
Dạy học giải tốn ở Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu sau đây:
+ Trước hết nó giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và
thao tác thực hành các kiến thức đã học, rèn luyện kĩ năng tính tốn, bước tập
dượt vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ năng thực hành vào thực tiễn (học tập,
đời sống).
Qua các biểu hiện trên giáo viên phát hiện được rõ hơn những gì học sinh đã
lĩnh hội và nắm chắc, những gì học sinh chưa nắm chắc, để có biện pháp giúp

học sinh phát huy hoặc khắc phục.

2


+ Qua việc dạy học giải Toán, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển
năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận, khêu gợi và tập
dượt quan sát, phỏng đốn tìm tịi.
+ Qua giải tốn, học sinh rèn luyện những đặc tính và phong cách làm việc của
người lao động như: ý trí khắc phục khó khăn, thói quen sét đốn có căn cứ,
tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả cuối
cùng: Từng bước hình thành và rèn luyện thói quen và khả năng suy nghĩ độc
lập, linh hoạt, khắc phục cách suy nghĩ máy móc, dập khn, xây dựng lịng
ham thích tìm tịi, sáng tạo ở mức độ khác nhau, từ đơn giản nhất mà nâng cao
từng bước.
Việc giải tốn vừa địi hỏi tính tích cực, độc lập sáng tạo trong suy nghĩ vừa
địi hỏi một khả năng thực hành. Để giúp học sinh có khả năng thực hành đó,
lúc đầu học sinh cần được giáo viên dẫn dắt, hướng dẫn giải các bài tốn theo
mẫu, tái hiện cách giải điển hình, có thể giúp ích cho học sinh trong chừng mực
nhất định. Song do tích chất đặc trưng của giải tốn đã nói ở trên, riêng các
biện pháp đó khơng thể giúp học sinh đạt được các mục tiêu cần thiết.
III. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC GIẢI TỐN CĨ LỜI VĂN Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC.
1. Thực trạng chung của nhà trường:
* Thuận lợi:
- Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của hội phụ
huynh học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, sáng tạo ln chỉ đạo sát sao việc dạy
học của giáo viên và học sinh.
- Đội ngũ giáo viên trong trường ln nhiệt tình giảng dạy, u nghề mến trẻ .

- Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập.
* Khó khăn:
- Nhiều phụ huynh học sinh khơng quan tâm đến việc học của con phó mặc cho
giáo viên. Chính điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc học tập cũng như
chất lượng học tập của các em.

3


- Nhiều gia đình bố mẹ làm cơng nhân, gửi con cho ơng bà chăm sóc do ơng bà
đã già yếu nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.
- Do tâm lý chung của học sinh Tiểu học cịn ham chơi nên nếu khơng có sự
quan tâm của gia đình, nhà trường việc học hành của các em thì khó có hiệu
quả cao.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy
song cịn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều.
2. Thực trạng của lớp:
Qua thực tế giảng dạy tơi nhận thấy:
+ Việc tóm tắt, tìm hiểu đề đang cịn nhiều khó khăn đối với một số học sinh
trung bình và yếu của lớp 3. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao,
nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp…
+ Thực tế trong một tiết dạy 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều
– phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả
lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề tốn.
+ Tuy mơn Tốn đạt gần 100% từ trung bình trở lên, song số điểm giỏi chưa
nhiều, điểm đạt yêu cầu chủ yếu ở phần giải toán đơn, học sinh mắc lỗi nhiều ở
phần giải toán trong luyện tập và kiểm tra, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng
mơn Tốn.
3. Ngun nhân:
Qua thực tế khảo sát tơi nhận thấy:

- Nhiều học sinh chưa nghiên cứu kĩ đề toán, nhiều học sinh vốn tiếng Việt còn
hạn chế, nên việc xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài tốn cịn gặp
nhiều khó khăn.
- Một số học sinh chưa nắm chắc hệ thống các bài toán đơn đã được học, dẫn
đến còn lúng túng trong việc phát hiện mối quan hệ logic giữa các bài toán này.
- Học sinh cịn thiếu tự tin trong việc tìm cách giải, còn bị hạn chế trong việc
lựa chọn các phép giải.
- Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường coi rằng bài tốn đã giải xong
khi tính ra đáp số của bài.

4


- Trong q trình giảng dạy mơn tốn, giáo viên cịn coi nhẹ một số bước trong
q trình giải tốn như: Tìm hiểu đề tốn, kiểm tra cách giải tốn, nên nhiều
học sinh mắc những lỗi khơng đáng có. Giáo viên chưa quan tâm đến việc rèn
kĩ năng giải toán cho học sinh.
Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
giải toán của học sinh. Khắc phục được những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, nhằm thực
hiện mục tiêu đào tạo con người mới, năng động, tự chủ, sáng tạo.
Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học
sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường,
tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy như sau:
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT DẠNG BÀI GIẢI
TỐN CĨ LỜI VĂN Ở LỚP 3:
1. Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.
1.1. Mục tiêu.
Chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng
đến trường còn phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy

cô. Phần nhiều các em chưa chủ động trong việc học tập. Chính vì vậy giáo dục
ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố không kém phần quan trọng
giúp các em học tốt hơn.
1.2. Cách tiến hành.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của
nhiều em chưa cao. Để giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc
giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu
phấn đấu của lớp và những yêu cầu cần thiết giúp các em học tập như: Mua
sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng – cách hướng dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt
nhất là đối với các ông bố vào buổi tối cố gắng bớt đi một chút thời gian
chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ đài, ti vi) dành thời gian nhắc nhở, quan tâm
cho các em học tập… Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt liệt hoan nghênh
biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh cịn đang vướng mắc nhiều về cách

5


dạy học cho các em. Riêng trong phần bài tập của sách Tốn, tơi hướng dẫn phụ
huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề tốn, luyện nói và trả lời
nhiều…
Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn cịn một số gia đình vắng mặt
do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học và do
điều kiện gia đình cịn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho
giáo viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tơi tìm cách
gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Trong số đó có gia đình trao đổi họ lung túng không
biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi
con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng khơng hay. Đối với những em này, tôi
phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học.
2. Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán.
2.1. Mục tiêu.

Hai loại toán ở lớp 3 nói riêng và ở Tiểu học nói chung là: Tốn đơn và tốn
hợp. Mỗi loại tốn này có vai trị quan trọng của nó. Việc giải các bài toán hợp
thực chất là giải một hệ thống các bài tốn đơn. Có kĩ năng giải các bài tốn
đơn, học sinh mới có cơ sở giải các bài tốn hợp. Do đó giáo viên cần giúp học
sinh hiểu rõ bản chất bài toán đơn để vận dụng giải các bài toán phức tạp sau
này.
2.2. Cách tiến hành.
Ở lớp 3, cùng với việc học phép nhân, chia, học sinh sẽ giải các bài toán đơn
dùng phép nhân hoặc chia. Trong các đầu bài toán bằng lời văn, học sinh
thường gặp những từ chìa khố như: "Gấp lên, giảm đi bao nhiêu lần", "So
sánh hơn, kém bao nhiêu lần". Các từ này thường được gợi ra phép nhân, chia
tương ứng. Giáo viên cần chú ý học sinh tránh lẫn lộn "Bao nhiêu lần" với
"Bao nhiêu đơn vị" và hiểu đúng khái niệm này. Củng cố thói quen đọc và hiểu
đúng đề bài để ngăn ngừa tác dụng "Cảm ứng" của các từ "Chìa khố". Giáo
viên giúp học sinh nắm vững ý nghĩa của phép nhân và phép chia đồng thời
giúp học sinh hiểu đúng các từ quan trọng trong đề toán.

6


Các bài tốn đơn "Tìm một trong các phần bằng nhau của một số" gắn với
phép chia. Đối với học sinh lớp 3, tư duy còn thiên về cụ thể nên hai loại bài
toán "chia thành phần bằng nhau" và "chia theo nhóm" tuy đồng nhất về mặt ý
nghĩa tốn học và đều giải bằng phép tính chia, nhưng lại là hai bài toán khác
nhau về mặt ý nghĩa cụ thể. Tuy nhiên khi giải, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh vượt qua sự khác biệt về mặt tâm lí để tập trung chú ý vào việc tìm ra và
thực hiện đúng phép tính thích hợp, cịn việc tìm ra từ thích hợp (phép chia),
cịn việc tìm ra từ thích hợp để "danh số" hố số thương thì chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm sống.
Mặt khác, đối với lớp 3, do tư duy của học sinh đã có những tiến bộ, song

vốn ngơn ngữ vẫn cịn hạn chế, nên việc nâng cao dần dần các yêu cầu về kiến
thức và kĩ năng một cách vừa sức học sinh, các yêu cầu về trừu tượng hoá cần
được chú ý, nhất là diễn tả các điều kiện, việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng và tia
số, thay dần các hình vẽ tượng trưng, cần được coi như một công cụ phổ biến,
tinh lược hoá những từ ngữ của đề toán, giúp các em tiếp cận tốt hơn với nội
dung đề bài toán. Từ đó dẫn đến định hướng cách giải tốn.
Khi học sinh nắm vững cách giải các bài tốn đơn, có thể gợi cho học sinh
khá, giỏi dùng chữ thay dữ kiện (ở các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các
cấu trúc tốn học, từ đó củng cố ý thức về việc sử dụng các cơng cụ, thủ thuật
tốn học giống nhau khi giải chúng. Việc sắp xếp các bài toán đơn mà khi giải
học sinh phải vận dụng các phép tính ngược sẽ giúp các em nâng cao và củng
cố nhận thức về mối quan hệ giữa các phép tính ngược.
Việc sử dụng hình vẽ hay sơ đồ để minh hoạ các điều kiện của bài tốn là có
ích với học sinh lớp 3 nói riêng, với học sinh Tiểu học nói chung. Tuy nhiên
cần phải hiểu rõ tác dụng của chúng (là chỗ dựa cho suy luận) trong việc giải
toán. Đối với các bài toán dễ hay đã nắm vững cách giải cần chú ý đến phát huy
trí tưởng tượng của học sinh, từng bước thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình
ảnh trong óc suy luận, vừa giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết vừa thúc đẩy
quá trình tư duy của học sinh.

7


3. Giúp học sinh nắm được q trình giải tốn.
3.1. Mục tiêu.
Cái khó của việc giải bài tốn có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để lược bỏ
được những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất tốn học của bài tốn. Hay nói
một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán
học chứa đựng trong bài tốn và tìm được những lời giải phép tính thích hợp để
từ đó tìm được đáp số của bài tốn. Do đó giáo viên cần giúp học sinh nắm

vững được q trình giải tốn.
3.2. Cách tiến hành.
Q trình này thường được tiến hành theo các bước như sau :
- Tìm hiểu nội dung bài tốn.
- Tìm cách giải bài tốn.
- Thực hiện cách giải bài toán.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả.
Thực tiễn việc học giải toán đã khẳng định, sự đúng đắn của các bước trong
việc giải tốn nói trên. Để làm cho học sinh có thói quen và kĩ năng áp dụng sơ
đồ đó, cần làm cho học sinh từng bước nắm được và thực hiện tốt trong q
trình giải tốn.
3.2.1. Dạy học sinh tìm hiểu nội dung bài tốn.
Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn
của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ
ngôn ngữ: Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ tốn học và ngơn ngữ kí hiệu (chữ số,
các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và
hiểu đầu bài toán rất quan trọng, nó giúp các em sử dụng được ngơn ngữ kí
hiệu đặc biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng
đúng.
Để kiểm tra học sinh đọc và hiểu đầu bài toán, giáo viên nên yêu cầu học sinh
nhắc lại nội dung đầu bài, khơng phải học thuộc lịng mà bằng cách diễn tả
bằng ngơn ngữ của mình, tiến tới trước khi tìm cách giải cho học sinh, học sinh
đã nhập tâm đầu bài tốn để tập trung suy nghĩ về nó.

8


Mỗi bài tốn đều có 3 yếu tố cơ bản: Dữ kiện là những cái đã cho đã biết trong
đầu bài, những ẩn số là những cái chưa biết và cần tìm (các ẩn số được diễn đạt
dưới dạng câu hỏi của bài toán) và những điều kiện là quan hệ giữa các dữ kiện

và ẩn số. Hiểu rõ đầu bài là chỉ ra và phân biệt rành mạch 3 yếu tố đó, từng
bước thấy được chức năng của mỗi yếu tố trong việc giải bài tốn.
Ví dụ: Bài tốn 4 ( SGK Tốn 3 – trang 56)
Có ba thùng dầu, mỗi thùng chứa 125 lít, người ta đã lấy ra 185 lít dầu từ các
thùng đó. Hỏi cịn lại bao nhiêu lít dầu ?
Với bài tốn trên học sinh cần xác định được:
Cái đã cho (dữ kiện) là số lít dầu ở mỗi thùng: 125 lít.
Điều kiện: đã lấy ra từ các thùng dầu đó 185 lít dầu.
Cái cần tìm (ẩn số): cịn lại bao nhiêu lít dầu?
Trên cơ sở phân biệt rõ cái gì đã cho (dữ kiện), cái gì là điều kiện, cái cần tìm
(ẩn số) để tập trung suy nghĩ vào các yếu tố cơ bản này, cần giúp học sinh biết
tóm tắt đầu bài bằng cách ghi dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài tốn dưới
dạng ngắn gọn cơ đọng nhất. Tuyệt đại bộ phận các bài tốn ở Tiểu học nói
chung, ở lớp 3 nói riêng, đều có những điều kiện để minh hoạ bằng sơ đồ (đoạn
thẳng, hình vẽ tượng trưng). Vì vậy học sinh phải từng bước biết minh hoạ
phần tóm tắt bằng sơ đồ, nhất là sơ đồ đoạn thẳng hoặc minh hoạ trên trục số.
Ví dụ: Bài tốn 3 (SGK tốn 3 trang 166 )
Một hình chữ nhật có chiều dài 12 cm, chiều rộng bằng 1/3 chiều dài. Tính diện
tích hình đó.
Sau khi đọc kĩ đề bài, xác định được dữ kiện, điều kiện và ẩn số của bài tốn,
học sinh tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ đoạn thẳng như sau:
Từ sơ đồ trên học sinh đã thể hiện đầu bài toán một cách ngắn gọn và cô đọng
nhất, đây là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tìm tịi cách giải bài tốn. Giáo
viên tập cho học sinh có thói quen từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu
tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần
thiết có liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện không tường minh,
để diễn đạt chúng một cách rõ ràng hơn.

9



Q trình tìm hiểu đầu bài và tìm tịi lời giải kết hợp với nhau một cách chặt
chẽ. Nhiều trường hợp, khi tìm cách giải, học sinh gặp khó khăn phải trở lại tìm
hiểu đầu bài, tìm hiểu dữ kiện và điều kiện.
3.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán.
Từ việc giải một bài toán đơn sang bài tốn hợp, học sinh phải giải quyết một
nhiệm vụ khó khăn là phân tích bài tốn hợp thành các bài toán đơn. Trên tinh
thần dạy học phát triển, việc làm cho các em nắm được các phương pháp chung
và các thủ thuật cơ bản thường dùng để giải các bài tốn đa dạng nhưng thường
gặp và có những mức độ phức tạp khác nhau là rất cần thiết. Để giải quyết
được vấn đề này, giáo viên cần giúp học sinh biết dẫn về một bài toán đã biết
cách giải. Khi giải một bài tốn mới, học sinh biết dẫn nó về một bài toán mà
các em đã biết cách giải, hoặc có thể liên tưởng tới những hành động thực tiễn
nào đó mà các em đã thực hiện, để giải quyết một nhiệm vụ nào đó thì các em
có thể có một gợi ý về cách giải.
Ví dụ 1: Bài toán 2 phần a ( SGK toán 3 trang 38 )
Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số lít dầu bán được trong buổi
chiều giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao
nhiêu lít dầu ?
Khi giải bài tốn này qua phân tích hai điều kiện của bài tốn và tập trung chú ý
vào hai điều kiện, các em dẫn tới những bài tốn đã học về: "Tìm một phần
mấy của một số" để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều (60 : 3 = 20 l.)
Ví dụ 2: Bài toán 2 (SGK toán 3 trang 88)
Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vng cạnh 10cm. Tính
độ dài đoạn dây được.
Đối với bài tốn trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan
sát giáo viên thao tác trực quan trên mơ hình để nhận thấy độ dài đoạn dây
chính là chu vi hình vng được tạo thành. Từ đó các em biết dẫn về bài tốn
đã biết “Chu vi hình vng” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm)


10


Bên cạnh đó việc quan sát và dự đốn trong quá trình tìm ra lời giải cũng rất
quan trọng. Quan sát các dữ kiện có vai trị quyết định trong việc tìm ra lời giải
của bài tốn.
Ngồi ra, trong sách giáo khoa toán 3, bên cạnh phần lớn các bài tốn dành cho
học sinh trung bình, cịn một số bài toán mà các dữ kiện thường nhiều hơn,
phức tạp hơn, nhiều khi không được đưa ra trực tiếp hoặc tường minh. Việc tìm
phương pháp giải nhiều khi phụ thuộc vào việc tìm ra "điểm nút" để tập trung
tháo gỡ ra, việc lựa chọn con đường đúng đắn để tiếp cận nó. Muốn vậy phải
biến đổi bài tốn, với một số biến đổi thường được dùng ở Tiểu học.
Ví dụ : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88)
Mỗi viên gạch hình vng có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 3
viên gạch như thế.
Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vng” nên khơng ít học sinh
máy móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vng vừa học để tìm chu vi
một viên gạch, sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình
chữ nhật. Và các em không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm.
Để giải quyết vấn đề này, theo tơi “nút thắt” cần tháo gỡ chính là giúp học sinh
so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ nhật được ghép từ 3 viên
gạch hình vng và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vng. Giáo viên cho học
sinh chỉ trên hình vẽ, và đồ lại bằng phấn màu để các em quan sát, so sánh để
nhận thấy tổng chu vi 3 viên gạch hơn chu vi hình chữ nhật cần tìm là 4 lần
cạnh viên gạch hình vng. Từ đó các em phát hiện ra điểm sai lầm trong cách
giải nêu trên và tìm ra con đường đúng để tìm tịi lời giải cho bài toán : Trước
tiên cần xác định chiều rộng (cạnh viên gạch hình vng : 10cm) và tìm chiều
dài ( 10 x 3 = 30 cm) của hình chữ nhật, sau đó đưa về bài tốn tìm chu vi hình
chữ nhật để tìm ra đáp số.
3.2.3. Hướng dẫn học sinh thực hiện giải bài toán.

Khi thực hiện kế hoạch giải bài tốn, học sinh cịn dựa vào các thủ thuật
(hay phép) giải thích đối với từng khâu trong kế hoạch để đi đến kết quả mong
muốn. Đối với một số bài tốn có cấu trúc riêng, thường sử dụng các thủ thuật

11


(phép) giải riêng. Với đặc điểm trình độ tư duy của học sinh lớp 3, việc sử dụng
phương pháp chung dưới hình thức các phép thích hợp với lứa tuổi sẽ mang lại
kết quả mong muốn. Một số phương pháp phù hợp hay được sử dụng là:
+ Tìm lời giải bằng sơ đồ:
Ở lớp 3, các bài toán đều mang tính chất đơn giản nên các dữ kiện và điều kiện
của nhiều bài tốn có thể diễn đạt trực quan bằng sơ đồ đoạn thẳng, loại sơ đồ
này được dùng phổ biến làm chỗ dựa cho việc tìm kế hoạch giải bài toán hoặc
một phần bài toán.
Trong nhiều bài toán liên quan đến việc so sánh, xếp thứ tự việc dùng tóm tắt
thay cho sơ đồ đoạn thẳng, để biểu diễn quan hệ giữa các số, tỏ ra thích hợp và
mang lại kết quả tốt hơn.
Ví dụ: Bài 3 (SGK toán 3 trang 58)
Thửa ruộng thứ nhất thu hoạch được 127 kg cà chua, thửa ruộng thứ hai thu
hoạch được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở
cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki-lơ-gam cà chua ?
Để giải bài tốn này giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài tốn bằng sơ đồ.
Sau khi đọc kĩ đề bài ta thấy: Nếu coi số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ
nhất là 1 phần thì số cà chua thu hoạch ở thửa ruộng thứ hai sẽ là 3 phần bằng
nhau. Ta có sơ đồ:
Từ sơ đồ trên ta dễ nhận thấy mối quan hệ giữa số ki-lô-gam cà chua của
hai thửa ruộng, từ đó có thể nêu ra cách giải tốn:
Bài giải:
Thửa ruộng thứ hai thu hoạch được số ki-lơ-gam cà chua là:

127 x 3 = 381 (kg).
Cả hai thửa ruộng thu hoạch được số ki-lô-gam cà chua là:
127 + 381 = 508 (kg).
Đáp số: 508 kg cà chua.
+ Lựa chọn và kết hợp các phép giải:
Khi điều khiển quá trình dạy học sinh giải tốn, giáo viên cần phải động viên
học sinh cố gắng, tự tin tìm ra cách giải tốn, tự tìm ra các thủ thuật thích hợp,

12


biết mị mẫm, quan sát, phỏng đốn, huy động các kinh nghiệm đã có để tìm ra
lời giải. Việc hướng dẫn các em giải toán, trước hết là học sinh khá giỏi, biết
từng bước dùng chữ thay số cần tìm, diễn đạt quan hệ bài tốn bằng phương
trình và giải nó bằng thủ thuật thích hợp, vừa sức các em là điều cần chú ý.
Thực hiện giải bài toán bao gồm việc thực hiện các phép tính trong kế hoạch
giải bài tốn và trình bày bài giải. Theo chương trình tốn hiện hành, thì mơ
hình trình bày bài giải bài tốn có lời văn ở lớp 3, mỗi phép tính, mỗi biểu thức
đều phải kèm theo câu lời giải, cuối bài có ghi đáp số.
Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Tốn 3 trang 32)
Mỗi lọ hoa có 7 bơng hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bơng hoa ?
Bài giải
Năm lọ hoa như thế có số bơng hoa là:
7 x 5 = 35 (bông hoa)
Đáp số: 35 bơng hoa.
Ví dụ 2 : Bài 3 (SGK tốn trang 106)
Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 số
cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
Bài giải
Số cây đội đó trồng thêm là:

948 : 3 = 316 (cây)
Đội đó trồng được tất cả số cây là:
948 + 316 = 1 264 (cây)
Đáp số: 1 264 cây
3.2.4. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả.
Học sinh thường coi rằng bài toán đã giải xong, khi tính đáp số hoặc tìm
được câu trả lời cho câu hỏi. Thế nhưng không phải học sinh nào cũng có niềm
tin chắc chắn vào kết quả mình tìm được, chỉ cần giáo viên hỏi vặn lại một và
câu là các em lại lúng túng, nghi ngờ cách giải của mình. Do đó kiểm tra cách
giải và kết quả bài tốn là u cầu khơng thể thiếu khi giải tốn. Việc làm đó
giúp các em biết được kết quả bài làm cũng như cách giải bài tốn của mình đã

13


đúng chưa, có phù hợp khơng. Việc kiểm tra, đánh giá cách giải bài tốn phải
trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ Tiểu học.
Ở lớp 3, cần tập cho học sinh biết nhìn lại tồn bộ bài giải, nhìn lại phương
pháp và các thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1,2) để vừa kiểm tra
bài giải vừa nắm vững thêm cách giải.
Chú ý từng bước cho học sinh thói quen sốt lại và suy nghĩ về tính hợp lí
của cách giải đã chọn, tìm ra những chỗ dài dịng, chưa hợp lí để tìm cách cải
tiến, đặc biệt gây cho học sinh có thói quen tự hỏi: "Có thể giải bằng cách khác
khơng ?" Tìm được cách giải khác một mặt tạo điều kiện phát triển tư duy linh
hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh.
* Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:
- Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số tìm được trong q trình giải
với các số đã cho.
- Tạo ra bài tốn ngược với bài toán đã cho rồi giải bài toán đó.
- Giải bài tốn bằng cách khác.

- Xét tính hợp lí của đáp số.
Ví dụ: Bài 1 (SGK tốn 3 trang 176).
Một sợi dây dài 9 135 cm được cắt thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài bằng 1/7
chiều dài sợi dây. Tính chiều dài mỗi đoạn dây ?
Bài giải
Chiều dài của đoạn dây thứ nhất là:
9 135 : 7 = 1 305 (cm).
Chiều dài của đoạn dây thứ hai là:
9 135 - 1 305 = 7 830 (cm).
Đáp số: Đoạn thứ nhất: 1 305 cm.
Đoạn thứ hai: 7 830 cm.
- Để kiểm tra cách giải bài toán trên, giáo viên hướng dẫn học sinh thiết lập
tương ứng giữa độ dài đoạn dây thứ nhất, độ dài đoạn dây thứ hai với chiều dài
của cả sợi dây.
Ta thấy: 1 305 + 7 830 = 9 135 (cm).

14


Dựa vào phép tính tương ứng trên, ta khẳng định bài tốn có cách giải và kết
quả đúng.
- Để kiểm tra cách giải bài tốn trên, học sinh cũng có thể giải bài toán bằng
cách khác. Chẳng hạn như :
Theo đầu bài ra ta có sơ đồ sau:
Ta thấy đoạn thứ nhất dài bằng 1/7 sợi dây tức là cả sợi dây chia ra thành 7
phần bằng nhau thì đoạn1 là một phần, suy ra đoạn 2 là sáu phần bằng nhau vậy
có thể tìm độ dài hai đoạn dây theo cách:
Bài giải
Độ dài đoạn dây 1 là:
9 135 : 7 = 1305 (cm)

Độ dài đoạn 2 là:
1 305 x 6 = 7 830 (cm)
Đáp số: Đoạn 1: 1 305 cm,
Đoạn 2: 7 830 cm.
Xét tính hợp lý của đáp số, ta thấy chiều dài của cả sợi dây, trừ đi độ dài của
đoạn 2, thì cịn lại chiều dài của đoạn 1:
9 135 - 7 830 = 1 305 (cm).
Từ đó ta khẳng định đáp số trên là kết quả đúng.
* Hình thức kiểm tra, đánh giá.
Như trên đã phân tích, ta thấy việc kiểm tra đánh giá lại bài làm là vơ cùng cần
thiết. Cho nên hình thức tự kiểm tra được sử dụng thường xuyên, và cần hình
thành cho mỗi học sinh thói quen tự kiểm tra, đánh giá bài làm của mình. Bên
cạnh đó để việc kiểm tra, đánh giá đạt hiệu quả cao, không nhàm chán, các học
sinh có cơ hội giao lưu, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ thì giáo viên cũng có thể cho
học sinh kiểm tra, đánh giá lẫn nhau. Sau khi kiểm tra, các học sinh có thể đưa
ra lời nhận xét, góp ý phù hợp giúp bạn mình tiến bộ hoặc thơng qua đó có thể
được nghe ý kiến hay của bạn để mình học tập.

15


4. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh:
4.1. Mục tiêu.
Việc rèn kĩ năng giải toán cho học sinh giúp hình thành năng lực khái qt
hố và kĩ năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong giờ học tập cho học
sinh.
4.2. Cách tiến hành.
Có thể tiến hành rèn kĩ năng giải toán cho học sinh bằng các cách sau :
a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan hệ giữa các số
đã cho và số phải tìm, hoặc điều kiện của bài tốn

b. Giải bài tốn có nhiều cách giải khác nhau.
c. Tiếp xúc với các bài toán thiếu và thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán
d. Lập và biến đổi bài tốn, hoạt động này có thể tiến hành dưới những hình
thức sau:
- Đặt câu hỏi cho bài tốn mới chỉ biết dữ kiện hoặc điều kiện.
- Đặt điều kiện cho bài toán.
- Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài tốn cịn thiếu số liệu.
- Lập bài tốn tương tự với bài toán đã giải.
- Lập bài toán ngược với bài toán đã giải.
- Lập bài toán theo bảng tóm tắt hoặc sơ đồ minh hoạ.
- Lập bài tốn theo cách giải cho sẵn.
Ví dụ giáo viên đưa bài toán thiếu dữ kiện : Túi gạo thứ nhất bằng 1/3 túi
gạo thứ hai. Hỏi túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất bao nhiêu kilô-gam gạo ?
Ở bài tốn này học sinh cần tìm hiểu đề bài, phân tích để thấy được bài
tốn này thiếu dữ kiện. Túi gạo thứ nhất, túi gạo thứ hai đựng bao nhiêu ki-lôgam gạo chưa cụ thể, mới chỉ có mối quan hệ giữa số gạo của hai túi, do đó cần
thêm dữ kiện vào và giải bài tốn. Chẳng hạn, ta có thể thêm dữ kiện để được
bài toán như sau :
Bài toán: Túi gạo thứ nhất đựng 8 kg gạo và bằng 1/3 số gạo của túi thứ hai.
Hỏi túi thứ hai đựng nhiều hơn túi thứ nhất bao nhiêu kilôgam gạo ?

16


Bài giải
Túi gạo thứ hai đựng số gạo là:
8 x 3 = 24 (kg)
Túi gạo thứ hai đựng nhiều hơn túi gạo thứ nhất số ki-lô-gam gạo là:
24 - 8 = 16 (kg)
Đáp số: 16 kg gạo
Ví dụ: Bài 3(SGK tốn 3 trang 129)

Lập bài tốn theo tóm tắt sau rồi giải bài tốn đó:
Tóm tắt : 4 xe : 8 520 viên gạch.
3 xe : …...... viên gạch?
Nhìn vào phần tóm tắt trên học sinh phát hiện ngay được bài thuộc dạng toán
“Toán hợp giải bằng hai phép nhân chia, có liên quan đến việc rút về đơn vị” và
từ đó dễ dàng đặt được đề tốn như sau :
Bài tốn : Bốn xe ơ tơ chở được 8 520 viên gạch. Hỏi 3 xe ô tô như thế chở
được bao nhiêu viên gạch?
Bài giải
Mỗi xe ô tô chở được số viên gạch là:
8 520 : 4 = 2 130 (viên gạch)
Ba xe ô tô chở được số viên gạch là:
2 130 x 3 = 6 390 (viên gạch)
Đáp số: 6 390 viên gạch
5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập
5.1. Mục tiêu.
Đặc điểm chung của học sinh Tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện. Do đó giáo viên cần động viên khích lệ kịp
thời giúp các em hứng thú trong học tập, từ đó các em sẽ chủ động và nâng cao
hiệu quả việc học giải tốn có lời văn nói riêng và việc học nói chung.
5.2. Cách tiến hành.
Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tơi ln luôn chú
ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một

17


“tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và
mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện
vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Rõ ràng việc khen học sinh là cần thiết

tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ
không có tác dụng kích thích. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng
đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngồi ra, việc áp dụng các trị chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu
tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập,
mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì
chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp ba nói riêng có trí
thơng minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề
tốt cho việc phát triển tư duy toán học tuy nhiên các em cũng rất dễ bị phân tán,
rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa, cơ thể của các em cịn
đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan cịn chưa
hồn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể cịn thấp nên trẻ khơng thể ngồi lâu
trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy,
muốn giờ học có hiệu quả thì địi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương
pháp dạy học tức là kiểu dạy học: “Lấy học sinh làm trung tâm.” hướng tập
trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi
thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách
chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng,
vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã
học… Một số trị chơi có thể sử dụng củng cố cuối tiết học là Ong đi tìm nhụy ;
A-la-đanh và cây đèn thần ; Ai nhanh, ai đúng ? ; Sai ở đâu, sửa ở đó …
Tóm lại: Trong q trình dạy học, người giáo viên khơng chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.

18


V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu

được những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải tốn có lời văn” nói riêng
và trong chất lượng mơn Tốn nói chung bởi vì “Giải tốn có lời văn” là dạng
tốn khó và nhiều dạng bài mới so với học sinh khối lớp 3.
Ngay từ đầu năm học mới, sau khi nhận lớp, tôi đã thử nghiệm ngay những
ý tưởng của mình và đến nay đã đạt được kết quả như sau:
Thời gian
thử

Giải
Sĩ số

thạo
SL

nghiệm
Trước
thử
nghiệm
Sau thử
nghiệm

thànhHiểu các dạng tốn tuyChưa nắm được
nhiên kĩ năng giải chậm

cách giải

%

SL


%

SL

%

33HS

7

21%

18

55%

8

24%

33HS

13

39%

14

43%


6

18%

Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác
của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh yếu tuy vẫn còn nhưng chỉ
còn với tỉ lệ khá nhỏ, số học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì kết
quả trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi
mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan.
Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn
tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài tốn có lời văn u cầu ở mức độ cao
hơn

KẾT LUẬN
19


1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học giải tốn có lời văn thực sự là "hịn đá thử vàng" của dạy học toán,
là một yêu cầu quan trọng trong u cầu chung của mơn tốn, việc vận dụng,
tìm kiếm những biện pháp dạy học giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 3 nói
riêng và học sinh Tiểu học nói chung là địi hỏi cấp thiết và cũng là mong muốn
của học sinh Tiểu học nói chung, là đòi hỏi cấp thiết và mong muốn của những
người quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là giáo dục Tiểu học.
Từ lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: giúp học sinh giải tốn có lời văn
tốt ở lớp 3 có vị trí hết sức quan trọng, là cầu nối logic của mơn tốn từ lớp đầu
cấp đến các lớp cuối cấp với yêu cầu ngày một cao hơn.
2. Những nhận định chung về việc áp dụng và khả năng phát triển của

sáng kiến kinh nghiệm:
Qua kết quả nghiên cứu của đề tài dù còn rất hạn hẹp, mới chỉ là kết quả thử
nghiệm ban đầu, song tôi cũng nhận thấy đề tài cũng đã giúp cho việc nâng cao
chất lượng giải toán cho học sinh lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng mơn
Tốn trong trường Tiểu học
Để học sinh có phẩm chất của người lao động mới, việc giúp học sinh giải
toán là một nội dung quan trọng trong chương trình tốn ở Tiểu học. Bởi vì giải
tốn được coi là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí
tuệ của học sinh.
3. Bài học kinh nghiệm:
Qua những vướng mắc thực tế, cùng với lịng say mê, nhiệt tình nghiên cứu
và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tơi hồn thành ý tưởng
của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học, tôi lại rút ra được
một vài kinh nghiệm sau:
- Dạy giải toán có lời văn cho học sinh là phương pháp dạy học mang tính tư
duy khoa học và hệ thống kiến thức xun suốt ở các lớp.
- Dạy giải tốn có lời văn cho học sinh cần tuân thủ quy trình và hệ thống nhận
thức khoa học. Chú trọng việc phân tích bài tốn giúp học sinh tìm ra mối quan

20


hệ giữa các số liệu trong bài tốn, từ đó nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải
bài toán.
- Dạy giải tốn có lời văn hướng tới đích cuối cùng là giúp học sinh đặt lời giải
đúng, phép tính đúng đi đến kết quả đúng.
- Người giáo viên phải thực sự có lịng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với
lương tâm trách nhiệm của người thầy.
- Trong quá trình giảng dạy phải ln nắm bắt, đúc rút những vướng mắc, khó
khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt

nhất.
- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm,
đúng nội dung ở từng bài học.
- Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó
khăn để học tập tốt hơn.
- Trong q trình hướng dẫn giải tốn có lời văn (ở lớp 3) giáo viên cần lưu ý
hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em cách đặt câu lời giải cho đúng và rõ
ràng.
- Để giúp học sinh có kĩ năng giải tốn thành thạo, người giáo viên cần chú ý
nhiều đến kĩ năng: nghe - đọc - nói - viết, kĩ năng hỏi – đáp.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi
dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo
viên trong mọi lúc của giờ học.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều
hình thức hoạt động học tập và tập trung chú ý tới cả 3 đối tượng học sinh để
giúp các em học tốt hơn.
- Người giáo viên cần phải ln ln có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức
để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội.
Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tơi tin rằng
chất lượng mơn tốn nói chung và phần giải tốn có lời văn nói riêng của các

21


em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học tốt
hơn ở các lớp sau.
4. Khuyến nghị và đề xuất:
Qua thực hiện sáng kiến này, tơi có một số khuyến nghị và đề xuất như
sau:

a. Đối với nhà trường:
- Tiếp tục tổ chức các chuyên đề các cấp về“ Giải toán có lời văn ở tất cả
các khối lớp để giáo viên được học hỏi, trau dồi kinh nghiệm
b. Đối với giáo viên:
-Về lâu dài muốn đạt hiệu quả cao về “Giải tốn có lời văn” địi hỏi tất
cả giáo viên trong tổ, trường phải có lịng nhiệt tình phát huy cao độ vai trị,
trách nhiệm của người giáo viên.
- Tìm hiểu vị trí, mục đích yêu cầu của việc dạy học giải toán lớp 3 ở
trường Tiểu học, đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 3
- Tìm hiểu các cơ sở khoa học của việc giúp học sinh giải tốn ở lớp 3
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học giải toán lớp 3 ở trường Tiểu học

22



×