Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Trình bày cơ hội hợp tác về thương mại và đầu tư giữa thái lan và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.08 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------------------

BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: Trình bày cơ hội hợp tác về thương mại và đầu tư giữa

Thái Lan và Việt Nam

Học phần: Kinh tế khu vực và ASEAN
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Ngọc Diệp
Nhóm thảo luận: 06
Mã LHP: 2169FECO2031

Hà Nội - 2021
1


2


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 6
(Lần 1)
I. Thời gian: 20h30 ngày 09//10/2021.
II. Địa điểm: Zalo, Google Meet
III. Thành viên tham gia:
1. Nguyễn Nhật Linh
2. Phạm Thị Linh
3. Trần Phương Linh


4. Trần Thảo Linh
5. Hà Thị Cẩm Ly
6. Nguyễn Thị Phương Mai
7. Trần Thị Mai
8. Hoàng Thùy Linh
IV. Mục tiêu
- Chốt dàn ý đề tài.
V. Nội dung cuộc họp
- Nhóm trưởng đưa dàn ý và phân cơng cơng việc đến từng thành viên.
- Thống nhất thời gian thực hiện và nộp tài liệu.
VI. Kết thúc cuộc họp
- Tất cả thành viên đều có mặt.
- Mọi thành viên đều đồng ý với sự phân công và hạn nộp tài liệu.
Cuộc họp kết thúc lúc: 22 giờ cùng ngày
Ngày 09 tháng 10 năm 2021
Nhóm trưởng
Linh
Nguyễn Nhật Linh

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

3


BIÊN BẢN HỌP NHÓM 6
I.
II.
III.


IV.
V.
VI.

(Lần 2)
Thời gian: 20h30 ngày 12/10/2021.
Địa điểm: Zalo
Thành viên tham gia:
1.
Nguyễn Nhật Linh
2.
Phạm Thị Linh
3.
Trần Phương Linh
4.
Trần Thảo Linh
5.
Hà Thị Cẩm Ly
6.
Nguyễn Thị Phương Mai
7.
Trần Thị Mai
8.
Hoàng Thùy Linh
Mục tiêu:
- Chỉnh sửa lại bản Word.
Nội dung cuộc họp:
- Chỉnh sửa lại các mục của bản Word.
- Thuyết trình kết hợp với slide.
Kết thúc cuộc họp:

- Tất cả các thành viên đều đồng ý với bản thảo luận.

Cuộc họp kết thúc lúc: 22 giờ 30 phút cùng ngày.
Ngày 09 tháng 10 năm 2021
Nhóm trưởng
Linh
Nguyễn Nhật Linh

BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ
STT
1

HỌ VÀ TÊN
Nguyễn Nhật Linh

NHIỆM VỤ
Thuyết trình, mục II (1)
4

MỨC ĐỘ HOÀN
THÀNH


2

Phạm Thị Linh

Mục II (2.2)

3


Trần Phương Linh

Làm Powpoint

4

Trần Thảo Linh

Mục II (2.1)

5

Hà Thị Cẩm Ly

Mục III

6

Nguyễn Thị Phương Mai

Làm Word

7

Trần Thị Mai

Mục I

8


Hoàng Thùy Linh

Mục IV

MỤC LỤC
A – PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................6
B – NỘI DUNG...................................................................................................................... 7
I. Tổng quan về kinh tế Thái Lan và Việt Nam.......................................................................7
1.1 Tổng quan về kinh tế Việt Nam.........................................................................................7
1.2. Tổng quan về kinh tế Thái Lan.........................................................................................8
5


1.3. Điều kiện thuận lợi để hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan..........9
II. Cơ hội hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan (1995 – nay)..............10
1. Cơ sở hình thành mối quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam – Thái Lan.....10
2. Thực trạng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan (1995 – nay)
.............................................................................................................................................. 11
2.1. Hợp tác về thương mại...................................................................................................11
2.1.1. Xuất khẩu.................................................................................................................... 11
2.1.2. Nhập khẩu................................................................................................................... 15
2.1.3. Kim ngạch xuất, nhập khẩu.........................................................................................17
2.1.4. Đánh giá...................................................................................................................... 18
2.2. Hợp tác về đầu tư...........................................................................................................18
2.2.1. Hình thức đầu tư..........................................................................................................18
2.2.2. Quy mơ đầu tư.............................................................................................................20
2.2.3. Lĩnh vực đầu tư...........................................................................................................21
2.2.4. Đánh giá...................................................................................................................... 22
III. Cơ hội cho tương lai về mối quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Thái

Lan........................................................................................................................................ 23
3.1. Thuận lợi........................................................................................................................23
3.2. Khó khăn........................................................................................................................ 23
3.3. Dự báo về quan hệ hợp tác thương mại..........................................................................23
3.4. Dự báo quan hệ hợp tác đầu tư.......................................................................................24
IV. Giải pháp tăng cường quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan..............24
4.1. Giải pháp chung.............................................................................................................24
4.1.1. Hoàn thiện hành lang pháp lí và cải cách thủ tục hành chính......................................24
4.1.2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng...............................................................................................25
4.2. Giải pháp đối với quan hệ hợp tác thương mại...............................................................25
4.2.1. Phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực...............................................................25
4.2.2. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại...................................................................................26
4.2.3. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh............................................26
4.2.4. Nghiên cứu thị trường Thái Lan..................................................................................26
4.3. Giải pháp đối với quan hệ hợp tác đầu tư.......................................................................26
6


4.4. Tiểu kết........................................................................................................................... 27
C – KẾT LUẬN................................................................................................................... 28

A – PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, quan hệ thương mại và đầu tư đóng một vai trị vơ cùng quan trọng
trong việc gắn kết quan hệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia, đưa các
quốc gia cùng nhau đi lên cùng nhau vững mạnh. Việt Nam và Thái Lan cũng vậy.
Hai quốc gia đã có với nhau hơn 45 năm hợp tác cùng phát triển. Kể từ năm 1976 –
chính thức xác nhận quan hệ hợp tác đến nay, hai nước đã phải trải qua nhiều thăng
trầm và xung đột, nhưng đến cuối cùng vẫn bỏ qua những mâu thuẫn mà tái hợp tác
7



và cùng nhau nỗ lực hoàn thiện mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ thương mại và đầu
tư. Trong suốt 45 năm, Việt Nam và Thái Lan đã cùng nhau đạt được nhiều thỏa thuận
có ý nghĩa sâu sắc về mặt thương mại và đầu tư. Bài tiểu luận này sẽ cung cấp thơng
tin về cơ sở hình thành mối quan hệ thương mại, điện tử giữa hai quốc gia và phân
tích mối quan hệ này xuyên suốt quá trình từ năm 1995 đến nay. Sau đó là những dự
báo và giải pháp giúp thắt chặt và phát triển quan hệ thương mại và điện tử giữa Việt
Nam và Thái Lan trong tương lai.

B – NỘI DUNG
I. Tổng quan về kinh tế Thái Lan và Việt Nam
1.1 Tổng quan về kinh tế Việt Nam.
Việt Nam nằm ở rìa phía đông của bán đảo Đông Dương tiếp giáp Biển Đông
gần trung tâm Đông Nam Á, trên các đường hàng hải, đường bộ và đường hàng không
quốc tế. Việt Nam nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, khu vực có hoạt
8


động kinh tế sơi động nhất thế giới. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cùng với sự da
dạng về tài nguyên thiên nhiên (đất, sinh vật, biển,…) và tài ngun khống sản (dầu
khí, than đá, apatit, đất hiếm, đá vôi, quặng titan,…) rất thuận lợi cho việc chăn nuôi
trồng trọt, phát triển nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản và mở rộng dịch
vụ du lịch…
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
tiếp nước ngồi. Chính phủ Việt Nam tự nhận rằng kinh tế Việt Nam là một nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường, nhiều nước và khối kinh tế bao gồm cả một số nền
kinh tế thị trường tiên tiến cũng công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên, cho đến nay Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản vẫn chưa công nhận kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường. Tổ chức Thương mại Thế giới công nhận Việt Nam là nền kinh

tế đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi. Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là
quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc (UN), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á,
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, ASEAN.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh
chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần,
đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng trưởng GDP
ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng
trưởng kinh tế dương.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt
khoảng 343 tỷ USD, đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư
ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ 6 ASEAN.
Một số ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam: nông ngư nghiệp (xuất khẩu gạo
đứng thứ hai thế giới năm 2020 chỉ sau Ấn Độ), ngành công nghiệp chế biến, chế tạo,
cơng nghiệp hóa chất, phân bón, du lịch.
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam là 287,76 tỷ USD vào
năm 2020 theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam
tăng 8,04 tỷ USD so với 2019. Các mặt hàng xuất khẩu chính là máy móc thiết bị, phụ
9


tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt thép, dệt may,
giày dép, xăng dầu,… Các thị trường chính là Hoa Kỳ, Trung Quốc, ASEAN,…
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam là 279,84 tỷ USD
vào năm 2020 theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Giá trị nhập khẩu của Việt
Nam tăng 8,47 tỷ USD so với 2019. Các mặt hàng nhập khẩu chính là: áy vi tính, sản

phẩm điện tử và linh kiện, nguyên phụ liệu dệt may, phế liệu sắt thép,… Thị trường
chính là Trung Quốc, Hàn Quốc,…
1.2. Tổng quan về kinh tế Thái Lan.
Thái Lan cũng là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, biển,…) và
khoáng sản (thiếc, cao su, khí tự nhiên, gỗ, chì, thạch cao,…) vơ cùng phong phú tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của 3 ngành kinh tế chính là nơng nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ.
Kinh tế Thái Lan là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới phụ thuộc lớn
vào du lịch và xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 60% GDP. Trong
bốn thập kỷ qua, Thái Lan đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong phát triển kinh tế
và xã hội, chuyển từ một quốc gia có thu nhập thấp lên một quốc gia có thu nhập
trung bình cao trong vịng chưa đầy một thế hệ. Nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng với
tốc độ trung bình hàng năm là 7,5% trong những năm bùng nổ 1960-1996 và 5%
trong giai đoạn 1999 - 2005 sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Châu Á.
Trong những năm gần đây, tăng trưởng kinh tế chậm lại từ 4,2% năm 2018
xuống 2,4% năm 2019. Các động lực chính khiến tăng trưởng chậm lại là nhu cầu
xuất khẩu yếu hơn phản ánh tác động của căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, đầu tư
công chậm lại và hạn hán, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế ở Thái Lan giảm xuống 6,1% vào năm 2020 do nhu cầu bên
ngoài giảm ảnh hưởng đến thương mại và du lịch, gián đoạn chuỗi cung ứng và tiêu
dùng nội địa suy yếu. Sự bùng phát COVID-19 đã tạo ra thêm một số thách thức trên
thị trường lao động. Tác động chính là tỷ lệ thất nghiệp tăng đột biến, tăng gấp đôi từ
1% trong quý đầu tiên của năm 2019 lên 2% trong quý thứ hai năm 2020.
Theo các số liệu của UN, IMF và Ngân hàng Thế giới; tính cho đến hết năm
2020, GDP danh nghĩa của Thái Lan được ước tính vào khoảng 130.9 USD hoặc
17287 USD nếu xét theo GDP sức mua tương đương. GDP bình quân đầu người theo
sức mua tương đương đạt mức 6094.43 USD/người. Thái Lan là nền kinh tế lớn thứ 2
tại Đông Nam Á, đứng thứ 8 châu Á và xếp hạng 22 trên thế giới theo danh nghĩa
10



hoặc thứ 7 châu Á và 20 toàn cầu nếu xét theo sức mua- đây là vị trí mà quốc gia này
đã nắm giữ và duy trì trong nhiều năm qua.
Một số ngành kinh tế được Thái Lan xác định là trọng điểm gồm: du lịch, nông
ngư nghiệp (xuất khẩu gạo đứng thứ nhất thế giới, xuất khẩu hải sản đứng thứ ba thế
giới), tự động hóa và phụ tùng ô tô, điện tử, thực phẩm và kinh doanh nông phẩm.
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Thái Lan là 258,07 tỷ USD vào
năm 2020 theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Giá trị xuất khẩu của Thái Lan
giảm -65,70 tỷ USD so với 2019. Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan bao
gồm lúa gạo; hải sản; ôtô và phụ tùng ôtô; đá quý và trang sức; sản phẩm từ cao su;
nhiên liệu; phụ tùng máy móc, linh kiện; sắt và thép. Các thị trường xuất khẩu chính
là: Trung Quốc, Nhật Bản, EU,…
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Thái Lan là 233,33 tỷ USD
vào năm 2020 theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng thế giới. Giá trị nhập khẩu của Thái
Lan giảm -39,58 tỷ USD so với 2019. Các mặt hàng nhập khẩu: máy móc thiết bị, sản
phẩm điện và điện tử, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm, xe cộ, ngọc và trang sức, đồ
nhựa,… với các thị trường chính là Nhật Bản, Trung Quốc, EU,…
1.3. Điều kiện thuận lợi để hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái
Lan
Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đang tích cực, chủ động triển khai
chiến lược, chính sách về hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng thúc đẩy kinh tế số và
các thỏa thuận, thương mại quốc tế thế hệ mới.
Và trong khu vực, các quốc gia cùng tham gia vào hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN). ASEAN tạo mơi trường và khơng khí thuận lợi để Việt Nam và
Thái Lan thúc đẩy quan hệ láng giềng, giải quyết các vấn đề trong quan hệ song
phương.
Mái nhà chung Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp thêm động
lực cho quan hệ song phương Việt Nam - Thái Lan mở rộng và phát triển mạnh mẽ
sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức khu vực này vào ngày
28/7/1995. Sau thời điểm đó, quan hệ hai bên khơng ngừng được vun đắp, ngày càng

tăng cường và củng cố về mọi mặt.
Hai bên đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược nhân chuyến thăm của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Thái Lan tháng 6/2013 và hiện có hơn 50 hiệp định,

11


thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực cùng 13 cặp tỉnh/thành kết nghĩa và đặt quan hệ
hữu nghị.
Chính bối cảnh thế giới và khu vực cùng với quan hệ ngoại giao giữa hai nước
đã tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái
Lan.

II. Cơ hội hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan
(1995 – nay)
1. Cơ sở hình thành mối quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và
Thái Lan.
Xét về nhiều mặt, Thái Lan có một vị trí đặc biệt trong chính sách của Việt Nam
đối với Đơng Nam Á. Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia lớn của Đông Nam Á lục
địa. Sự gần gũi về địa lý khiến Thái Lan nhạy cảm nhất với những diễn biến ở Đông
Dương mà Việt Nam đặc biệt coi trọng. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa Việt Nam và
Thái Lan luôn là thước đo của mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN, đặc
biệt là trước khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội. Maisrikrod lưu ý rằng “Trật tự khu vực
ở Đông Nam Á trong hầu hết những năm 1980 đều tập trung vào mối quan hệ TháiViệt.”
Cơ sở quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan được hình
thành thơng qua 3 sự kiện có ý nghĩa quan trọng.
Thứ nhất là sự kiện Việt Nam và Thái Lan thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày
6 tháng 8 năm 1976, thông qua cuộc gặp mặt và ký kết giữa ông Pichai Rattakul - Bộ
trưởng Ngoại giao Thái Lan và ông Nguyễn Duy Trinh – Bộ trưởng ngoại giao Việt
Nam ngay sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc. Đây là cơ sở và tiền đề quan trọng

cho việc thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Thái
Lan.
Tuy nhiên, quan hệ giữa hai nước đã rơi vào tình trạng thù địch khi Thái Lan trở
thành quốc gia bình phong của ASEAN để phản đối cái gọi là “Việt Nam chiếm đóng
Campuchia ”. Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, quan hệ giữa Việt Nam và Thái
Lan đã phản ánh xu hướng chung hướng tới hợp tác khu vực nhiều hơn.
Thế nhưng vào năm 1979, quyết định đưa quân vào Campuchia và sự phát triển
quan hệ thân thiết với Liên Xô của Việt Nam khiến Thái Lan cho rằng sẽ gây ảnh
hưởng xấu tới an ninh của quốc gia này lại khiến mối quan hệ Việt Nam – Thái Lan
trở nên khơng “hịa thuận”.
12


Sự kiện quan trọng thứ hai là tháng 9/1988, thủ tướng mới của Thái Lan – ông
Chatichai Choonhavan tuyên bố chính sách “Biến Đơng Dương từ chiến trường thành
thị trường, đồng thời điều chỉnh chính sách ngoại giao thì mối quan hệ giữa hai quốc
gia mới khơi phục hồn tồn. Điều này mở ra một thời kì mới trong quan hệ kinh tế,
thương mại và đầu tư giữa Thái Lan và Việt Nam. Kể từ đó quan hệ hợp tác giữa hai
nước đã từng bước được cải thiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Hai quốc gia bắt đầu
xây dựng lại một mối quan hệ vẹn trịn, được phía Việt Nam mô tả là “thân thiện và
tốt đẹp hơn bao giờ hết”, cịn phía Thái Lan là “đơi bên cùng có lợi” dựa trên “tình
hữu nghị, sự tin cậy và sự tôn trọng lẫn nhau”
Sang đến những năm 1990, cả hai quốc gia đã rất nỗ lực để cùng nhau phát triển
thông qua một số hoạt dộng thăm hỏi và ký kết hợp tác. Điển hình như tháng 9 năm
1991, Việt Nam và Thái Lan thống nhất ký thiết lập “Ủy ban Hợp tác về thương mại
và kinh tế” nhân chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Ngoại giao Arsa Sarasin. Tiếp
đó đến tháng 10 năm 1991, quan hệ hai bên lại tiến thêm một bước khi thủ tướng Việt
Nam Võ Văn Kiệt sang thăm Thái Lan và ký kết văn kiện “Hiệp định thúc đẩy và bảo
vệ đầu tư” và “Bản ghi nhớ về hợp tác năng lượng và dầu mỏ” giữa hai nước. Bên
cạnh đó vẫn cịn rất nhiều những hoạt động thể hiện rõ sự nỗ lực gắn kết quan hệ

ngoại giao nhằm tạo sự thuận tiện cho việc hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai
quốc gia.
Sự kiện thứ ba cũng là sự kiện nổi bật nhất tạo cơ sở cho việc hình thành quan hệ
hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan chính là việc Việc Việt Nam
gia nhập ASEAN vào tháng 7/1995. Nó đã mở ra những triển vọng mới cho hợp tác
kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác, trong đó có Thái Lan. Nó giúp mối
quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan lần nữa được thắt chặt. Hơn thế nữa, cộng đồng
kinh tế AEC với các hiệp định kinh tế như ATISA, ATIGA,… lại càng tạo điều kiện
thuận lợi cho hai quốc gia tiếp tục hợp tác về thương mại và đầu tư.
2. Thực trạng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Thái Lan
(1995 – nay)
2.1. Hợp tác về thương mại
2.1.1. Xuất khẩu
a. Giai đoạn 1995 - 2015
Trong giai đoạn 1995-2015, giá trị xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Thái
Lan đã tăng lên từ 101,30 triệu USD lên 3.177,70 triệu USD. Kể từ khi Việt Nam gia
13


nhập ASEAN năm 1995 đến 2015, quan hệ giữa hai nước thành viên ASEAN có
chung lợi ích cả chiều rộng và chiều sâu này đã có những bước phát triển thương mại
nhảy vọt.
Do tính tương đồng về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của hai nước cho nên các mặt
hàng của Việt Nam nói chung và nơng sản nói riêng khó thâm nhập vào thị trường
Thái Lan. Những mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan như nhiên liệu
(dầu thơ, than đá); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; thuỷ sản; nông sản; dệt
may, giày dép... Từ năm 1995, Thái Lan luôn là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam
trong ASEAN. Việt Nam đã đề nghị Thái Lan tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan, như: dành ưu đãi thuế quan đặc biệt với một
số mặt hàng nông sản đang bịáp dụng hạn ngạch thuế quan nhằm giảm cán cân

thương mại do Việt Nam nhập siêu từ Thái Lan.
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Công nghệ Thông tin, Bộ Thương mại Thái
Lan, xuất khẩu từ Việt Nam sang Thái Lan tăng mạnh liên tục từ 43,06 triệu USD lên
đến 345,07 triệu USD.
Năm
1995

Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan
(triệu USD)
43,06

1996

62,5

1997

177,6

1998

231,55

1999

227,75

2000

345,07

(Xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan giai đoạn từ 1995 – 2000).

Từ năm 2000 đến năm 2011, tình hình xuất khẩu hàng hóa từ Viêt Nam sang
Thái Lan cũng rất khả quan.
Thái Lan nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 20 mặt hàng với giá trị khoảng 388,9
triệu USD. Kể từ 2000 so với 1996, xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan tăng gấp 6
lần. Vào năm 2002 quan hệ thương mại Việt Nam –Thái Lan đạt 1.18 tỷ USD, năm
2003 đạt 1,6 tỷ USD và tăng mạnh vào năm 2004 đạt 2,3 tỷ USD. Việt Nam ưu tiên
14


đưa vấn đề hợp tác kinh tế thương mại với Thái Lan lên hàng đầu và luôn đánh giá
cao tiềm năng kinh tế của Thái Lan.
Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan trong năm 2008 so với 1996 tăng gần 23 lần
(1450,5 so với 62,5 triệu USD). Năm 2019, do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu, Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan chỉ 1,226 tỷ USD
Quan hệ kinh tế - thương mại tăng trưởng nhanh, trước hết là do tác động tích
cực của chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Nhiều mặt hàng
của Việt Nam sản xuất, Thái lan cũng có, nhưng vẫn thâm nhập được vào thị trường
nước này. Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những thay đổi trong hoạt động
tìm kiếm thị trường. Thứ ba, vai trò của các cơ quan Nhà nước hữu quan đã hỗ trợ
tháo gỡ khó khăn trong chính sách và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu của cả hai nước.
Từ 2011 đến 2015, xuất khẩu Việt Nam sang Thái Lan chỉ tăng ở giai đoạn đầu
và có dấu hiệu chững lại sau năm 2013, đồng thời vẫn còn ở mức thấp.
Năm

Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan (triệu
USD)
2012
2.832

2013
3.103
2014
3.475
2015
3.176
Những mặt hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan gồm: linh kiện vi
tính, dầu thơ, hải sản, than đá và nhiều mặt hàng khác như hàng điện tử, lạc nhân, sản
phẩm nhựa, máy móc và thiết bị điện, mỹ phẩm, sản phẩm sắt thép, da thuộc...
Giai đoạn 2005-2015, nhóm hàng nhiên liệu chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan là: dầu thô và than đá chiếm, các
mặt hàng chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu hai nước bao gồm: máy
vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, thủy sản, nông sản.

15


(Trị giá xuất khẩu hàng hóa sang Thái Lan của Việt Nam 1995-2015)

Nhìn chung, giai đoạn 1995-2015, hai quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu
trong kinh tế, xuất khẩu từ Việt Nam sang Thái Lan ngày một tăng, đưa Thái Lan trở
thành một trong những đối tác quan trọng về kinh tế của Việt Nam.
b. Giai đoạn 2016 - nay
Từ năm 2016 đến nay trị giá xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Thái Lan tiếp
tục tăng và có sự giảm nhẹ vào năm 2019 và 2020 do ảnh hưởng của dịch covid 19.
Tháng 8/2016, xuất khẩu của Việt Nam đạt trị giá 341,97 triệu USD, tăng 8,9 %
so với tháng 7/2016; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu sang Thái Lan trong 8 tháng đầu
năm 2016 lên 2,42 tỷ USD, tăng trưởng 10,6% so với cùng kỳ năm 2015. Những
nhóm hàng của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Thái Lan chủ yếu gồm: điện thoại
và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; phương tiện vận tải phụ tùng;

hàng thủy sản; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng; sắt thép các loại…Máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện là mặt hàng đứng thứ hai về kim ngạch, đạt 266,63 triệu
USD, tăng 55,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 11,0% tổng kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường Thái Lan. Xếp thứ ba trong bảng xuất khẩu là nhóm hàng phương tiện
vận tải và phụ tùng, kim ngạch xuất khẩu đạt 213,53 triệu USD, chiếm 8,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường này, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2015, chiếm
8,8% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này. Đáng chú ý là nhóm hàng thức
ăn gia súc và nguyên liệu, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 34,98 triệu USD nhưng so với
cùng năm ngối lại có mức tăng vượt trội với 366,2%. Bên cạnh đó, một số nhóm
hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao trong 8 tháng đầu năm nay gồm: hóa
chất tăng 76,4%; hàng dệt may tăng 68,0%; sản phẩm từ sắt thép tăng 59,2%; hàng
rau quả tăng 28,2%. Ngược lại, một số nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường Thái Lan
lại có kim ngạch sụt giảm trong 8 tháng qua so với cùng kỳ như: phân bón các loại
giảm 51,8%; sắt thép các loại giảm 49,8%; sản phẩm từ cao su giảm 35,7%.
16


Năm 2016, xuất khẩu đạt 3,69 tỷ USD, tăng 15,9% so với năm 2015 và tăng hơn
31 lần so với năm 1996; nhập khẩu năm 2016 đạt 8,85 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm
2015, và tăng 16,7 lần so với năm 1996. Thái Lan cũng là thị trường có thâm hụt
thương mại lớn nhất với Việt Nam trong khối ASEAN, tới 5,16 tỷ USD, gấp 1,4 lần
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Thái Lan trong năm 2017
gồm: điện thoại các loại và linh kiện (1.231 triệu USD, tăng 72%); máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện (479 triệu USD, tăng 15,5%); dầu thô (445 triệu USD, tăng
182%); phương tiện vận tải và phụ tùng (333 triệu USD, tăng 3,9%); máy móc, thiết
bị, dụng cụ phụ tùng (331 triệu USD, tăng 10,5%); thủy sản (246 triệu USD, tăng
1,4%).Việt Nam đứng thứ 12 trong các nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu vào Thái
Lan, nước này chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Malaysia, Hàn
Quốc, Đài Loan, Singapore, Indonesia, các Tiểu vương quốc Ả Rập, Đức, Ả Rập Xê

út và Việt Nam.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan ngày càng phát triển, kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Thái Lan liên tục tăng trưởng. Theo số liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường
Thái Lan trong tháng 7/2017 đạt trị giá 442,92 triệu USD, tăng 9,2% so với tháng
6/2017; nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sang Thái Lan trong 7 tháng đầu năm 2017
lên 2,64 tỷ USD, tăng trưởng 26,9 % so với cùng kỳ năm 2016.
Năm 2018, hàng hóa Việt xuất sang Thái đạt 5,5 tỷ USD, tăng 14,79% so với
năm 2017. Trước đó, năm 2017, kim ngạch xuất khẩu sang Thái cũng đạt 4,8 tỷ USD,
tăng 29% so với năm 2016.Trong nhóm hàng nơng sản, các sản phẩm như thuỷ sản,
rau quả, hạt điều, cà phê, hạt tiêu cũng đã tiếp cận được thị trường này. Nhiều mặt
hàng nông sản trái cây tươi đến nay Thái Lan vẫn đang phụ thuộc vào nhập khẩu từ
Việt Nam.
Năm 2019, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đạt 5,3 tỷ USD, giảm
3,4% so với năm 2018.
Và đến năm 2020,do ảnh hưởng của đại dịch Covid19, xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường Thái Lan trong 10 tháng đầu năm đạt 4,05 tỷ USD, giảm
10,12% so với cùng kỳ năm 2019. Tính riêng tháng 10/2020 kim ngạch xuất khẩu đạt
431,66 triệu USD, giảm 2,33% so với tháng trước đó.
Trong số rất nhiều nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường Thái Lan, đứng đầu về
kim ngạch là nhóm hàng điện thoại và linh kiện với 628,78 triệu USD, chiếm 15,50%
17


trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang thị trường này, giảm 43,21%
so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ 2 về kim ngạch là nhóm máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện đạt 376,56 triệu USD, tăng 1,43%, chiếm 9,28%. Tiếp đến nhóm
hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 343,94 triệu USD, tăng 1,99%,
chiếm 8,48%. Trong 10 tháng đầu năm 2020, một số mặt hàng xuất khẩu sang thị
trường Thái Lan tăng trưởng mạnh: xuất khẩu sắt thép các loại tăng 78,56%; xuất

khẩu rau quả tăng tới 174,99%; xuất khẩu đá quý và kim loại quý tăng 32,59%; phân
bón tăng 28,88%. Một số mặt hàng xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước:
xuất khẩu sản phẩm từ sắt thép giảm 34,93%; xăng dầu các loại giảm 79,59%; hạt tiêu
giảm 28,32%.
Và theo số liệu từ tổng cụ thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2021, dẫn đầu kim
nghạch xuất khẩu là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện, đạt 403,2 triệu USD,
tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 13,3% tỷ trọng xuất khẩu. Xuất khẩu
nhóm mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác trong tháng 6 đạt trên 44,8
triệu USD, tăng 47% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch 6 tháng đạt trên 274,2
triệu USD, tăng 47% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 9% tỷ trọng xuất khẩu. Hàng
hóa xuất khẩu sang Thái Lan 6 tháng đầu năm 2020 nhìn chung tăng kim ngạch so với
6 tháng đầu năm 2020. Trong đó, xuất khẩu tăng khá ở các nhóm hàng như: sắt thép
các loại tăng 49,8%; kim loại thường khác và sản phẩm tăng 443,4%; dây điện và dây
cáp điện tăng 72,3%; hóa chất tăng 92,%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 99,9%.
Ngược lại nhóm mặt hàng xuất khẩu giảm: Hàng rau quả giảm 20,5%; phân bón giảm
35,5%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 49,49%; quặng và khống sản giảm
70,8%.

(Trị giá xuất khẩu hàng hóa sang Thái Lan của Việt Nam 2016- sơ bộ 2020)

18


Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
sang thị trường Thái Lan trong 10 tháng đầu năm 2020 đạt 4,05 tỷ USD, giảm 10,12%
so với cùng kỳ năm 2019. Tính riêng tháng 10/2020 kim ngạch xuất khẩu đạt 431,66
triệu USD, giảm 2,33% so với tháng trước đó.
Trong số rất nhiều nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường Thái Lan, đứng đầu về
kim ngạch là nhóm hàng điện thoại và linh kiện với 628,78 triệu USD, chiếm 15,50%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang thị trường này, giảm 43,21%

so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ 2 về kim ngạch là nhóm máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện đạt 376,56 triệu USD, tăng 1,43%, chiếm 9,28%. Tiếp đến nhóm
hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 343,94 triệu USD, tăng 1,99%,
chiếm 8,48%.
Trong 10 tháng đầu năm 2020, một số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Thái
Lan tăng trưởng mạnh: xuất khẩu sắt thép các loại tăng 78,56%; xuất khẩu rau quả
tăng tới 174,99%; xuất khẩu đá quý và kim loại quý tăng 32,59%; phân bón tăng
28,88%.
Một số mặt hàng xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: xuất khẩu sản
phẩm từ sắt thép giảm 34,93%; xăng dầu các loại giảm 79,59%; hạt tiêu giảm
28,32%.
2.1.2. Nhập khẩu
a. Giai đoạn 1995 - 2015
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Công nghệ Thông tin, Bộ Thương mại Thái
Lan, sau năm1995, nhập khẩu từ Thái Lan sang Việt Nam liên tục tăng từ 22,34 triệu
USD lên 581,20 triệu USD. Nhưng từ năm 1997 đến năm 1999, do cuộc khủng hoảng
kinh tế (năm 1997) nhập khẩu từ Thái Lan sang Việt Nam đã bị giảm sút. Tuy nhiên
sang đến năm 2000, quan hệ hai nước lại hồi phục và nhập khẩu Thái Lan từ Việt
Nam lại tăng trở lại.
Năm
1995
1996
1997
1998
1999

Việt Nam nhập khẩu từ Thái Lan
(triệu USD)
470,5
581,2

548,7
591,7
572,8
19


2000

847,4

Giai đoạn từ 2001 – 2011, hàng hóa Thái Lan xuất khẩu sang Việt Nam tăng đều
đặn và liên tục, năm 2011 so với 2001 chênh lệch lên tới gần 9 lần. trong năm 2009,
do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, Việt Nam chỉ nhập khẩu từ Thái
Lan giảm từ 5,017 tỷ USD xuống còn 4,678 tỷ USD. Tuy nhiên sang năm 2010, nhập
khẩu của Việt Nam lại có dấu hiệu tăng trở lại.
Việt Nam nhập của Thái Lan: xăng, xe máy, hàng tiêu dùng, hàng điện tử, dụng
cụ thể thao, các nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp: dệt may, sắt thép,
chế biến gỗ...
Nhìn chung, từ năm 1995 đến năm 2015, trị giá nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan
về Việt Nam tăng mạnh từ 439,8 triệu USD lên 8275,5 triệu USD ( tức tăng gần 19
lần), đặc biệt là giai đoạn từ 2006 đến 2015.
Trong giai đoạn 2008-2015, các mặt hàng chính mà Việt Nam nhập khẩu từ
Thái-lan là linh kiện, phụ tùng ơ-tơ, chất dẻo ngun liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng
khác, xăng dầu, linh kiện, phụ tùng xe máy, sắt thép các loại,…

(Trị giá nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan của Việt Nam 1995-2015)

Quan hệ thương mại Việt Nam - Thái Lan ngày càng phát triển; kim ngạch
thương mại song phương giữa Việt Nam và Thái Lan luôn đạt mức tăng trưởng cao.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, trị giá nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan và

Việt Nam năm 2016 đạt 8,85 tỷ USD, tăng 6,9% so với năm 2015, và tăng 16,7 lần so
với năm 1996.
20


Theo tính tốn từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng
đầu năm 2017, kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều đạt 12,4 tỷ USD; trong đó xuất
khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đạt 3,92 tỷ USD (tăng 29%) và nhập khẩu từ Thái
Lan 8,48 tỷ USD (tăng 21,4%).
Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Thái Lan trong năm 2017 gồm:
sản phẩm điện gia dụng và linh kiện (882 triệu USD, giảm 7,1%); máy móc, thiết bị,
dụng cụ phụ tùng (904 triệu USD, tăng 11,3%); xăng dầu các loại (941 triệu USD,
tăng 44,7%); hàng rau quả (857 triệu USD, tăng 109%); ô tô nguyên chiếc (703 triệu
USD, tăng 8,9%); chất dẻo nguyên liệu (654 triệu USD, tăng 21,5%); máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện (632 triệu USD, tăng 58,7%).
Các nhóm hàng nhập khẩu nhiều nhất từ thị trường Thái Lan gồm có: nhóm điện
gia dụng và linh kiện đạt 748,59 triệu USD chiếm 8,8% trong tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng hóa các loại từ thị trường này, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2016; máy
móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 743,17 triệu USD, chiếm 8,77%, tăng 13%; xăng
dầu đạt 726,15 triệu USD, chiếm 8,6%, tăng 83,5%; rau quả chiếm 8,5% trong tổng
kim ngạch, đạt 721,73 triệu USD, tăng mạnh 120,4% so với cùng kỳ; ô tô nguyên
chiếc đạt 530,31 triệu USD, chiếm 6,3%, tăng 5,5%.
Năm 2019, có bốn nhóm hàng nhập khẩu từ Thái Lan có kim ngạch trên 500
triệu USD và gần chạm mức 1 tỷ USD. Cụ thể, nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh
kiện giảm 3,44% đạt 913,79 triệu USD; chất dẻo nguyên liệu giảm 15,6% đạt 820,37
triệu USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 908,66 triệu USD tăng
36,97%; linh kiện, phụ tùng ô tô đạt 645,19 triệu USD, tăng 4,04% so với năm ngoái.
Việt Nam còn nhập một lượng lớn rau quả từ Thái Lan, với mức chi nhập khẩu đạt
487 triệu USD, giảm 28,5% so với 2018. Nhập khẩu vải 279,4 triệu USD, giam gần
4%, xăng dầu 393 triệu USD, giảm 60%, nhập khẩu kim loại thường các loại đạt 346

triệu USD, giảm 5,16%... Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu dưới chục triệu
USD là: Phân bón các loại đạt 9,33 triệu USD, tăng 25,31% so với năm ngoái; nguyên
phụ liệu thuốc lá đạt 875.844 USD, tăng 85,73%; nguyên phụ liệu dược phẩm đạt
785.273 USD, giảm 46,63% so với năm 2018.
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, trao đổi thương mại song phương Việt
Nam và Thái Lan trong chín tháng năm 2020 giảm 12,2%, nhập khẩu của Việt Nam từ
Thái Lan giảm 12,4%, đạt 7,7 tỷ USD.

21


(Trị giá nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan của Việt Nam 2016- sơ bộ 2020)

2.1.3. Kim ngạch xuất, nhập khẩu
Từ năm 1995, khi Việt Nam trở thành thành viên Hiệp hội các quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN), quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Thái-lan ngày càng
phát triển nhanh.
22


Việt Nam và Thái Lan đã thoả thuận giảm thuế 92% các mặt hàng sản xuất, nhập
khẩu giữa hai nước. Đây là cơ hội để doanh nghiệp hai nước thúc đẩy hơn nữa các
hoạt động thương mại và tận dụng lợi thế so sánh trong quyết định kinh doanh của
mình.
Từ năm 2000 đến năm 2011, giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt
kết quả khá cao.
Tổng kim ngạch buôn bán của năm 2000 so với năm 1996 (một năm sau khi Việt
Nam gia nhập ASEAN) đã tăng gần hai lần, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang
Thái-lan tăng gần sáu lần. Tổng kim ngạch buôn bán song phương năm 2008 so với
năm 1996 tăng gần 10 lần, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Thái-lan tăng gần 22
lần.

Giai đoạn 1995-2008, kim ngạch thương mại hai chiều tăng từ mức 541 triệu
USD năm 1995 lên mức 6,2 tỷ USD năm 2008 (tăng trên 11,4 lần) với tốc độ tăng
trưởng trung bình vào khoảng gần 20,6%/năm. Mức nhập siêu từ thị trường Thái Lan
cũng tăng từ 339 triệu USD năm 1995 lên 3,62 tỷ USD năm 2008, tăng trung bình
20%/năm cho cả giai đoạn 1995-2008.
Kim ngạch thương mại hai nước trong năm 2008 đạt hơn 6,2 tỷ USD và tăng
31% so với năm 2007. Năm 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tồn
cầu, tổng kim ngạch của hai nước giảm mạnh chỉ đạt 5,74 tỷ USD. Tuy nhiên trong
năm 2010, trong vòng 11 tháng tổng kim ngạch thương mại của hai nước vươn lên đạt
6,06 tỷ USD.
Trong giai đoạn 2009-2016, tốc độ tăng trưởng thương mại Việt Nam - Thái Lan
ở mức thấp, đạt khoảng 11,7%/năm. Năm 2015, kim ngạch xuất - nhập khẩu hai chiều
đạt 11,5 tỷ USD (tăng 8,6% so với năm 2014). Sang năm 2016, kim ngạch hai chiều
Việt Nam – Thái Lan đạt gần 12.5 tỷ USD tăng 8.98% so với 2015, xuất khẩu của
Việt Nam sang Thái Lan vẫn còn thấp, chỉ đạt gần 30% tổng kim ngạch từ mức 5,78
tỷ USD. Nhập siêu tăng từ 3,25 tỷ USD năm 2009 lên 5,16 tỷ USD năm 2016.

23


Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan trong gian đoạn
2016 - 2019 chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với tất
cả các nước trong ASEAN. Riêng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào
Thái Lan chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN. Thái Lan luôn
duy trì vị trí thị trường xuất khẩu số 1 của Việt Nam trong ASEAN
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, trao đổi thương mại song phương Việt
Nam và Thái Lan trong 9 tháng năm 2020 giảm 12,2%. Xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường này giảm 11,9% so với cùng kỳ năm 2019, đạt 3,6 tỷ USD. Ở chiều ngược
lại, nhập khẩu của Việt Nam từ Thái Lan giảm 12,4%, đạt 7,7 tỷ USD.
Theo các số liệu thu thập được, có thể thấy kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt

Nam và Thái Lan vẫn còn chênh lệch cao, mức nhập siêu của nước ta vẫn còn rất cao
làm mất cân bằng cán cân thương mại và ảnh hưởng tiêu đến các ngành sản xuất cũng
như tiêu dùng trong nước. Chính phủ nên có những chính sách phù hợp để giảm thiểu
tình trạng này.
2.1.4. Đánh giá
24


Những năm gần đây, quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan
phát triển mạnh, hai nước đã cùng ký kết các hiệp định song phương và đa phương và
mở cửa thị trường để các doanh nghiệp hai nước có thể thuận lợi bn bán và hỗ trợ
nhau. Các doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết nhiều hợp đồng buôn bán, đầu tư với các
doanh nghiệp Thái Lan.
Tuy nhiên, quan hệ này vẫn ở mức thấp so với tiềm năng hai nước. Mặc dù, đạt
được những tiến bộ song, nhìn vào kim ngạch thương mại hai nước, Việt Nam thường
xuyên nhập siêu từ Thái Lan. Hơn nữa, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Thái Lan có
rất nhiều ngun liệu thơ, nơng sản thơ… như dầu thô, lạc nhân, hải sản, sản phẩm gỗ,
hạt điều… Các doanh nghiệp Thái Lan nhập khẩu những mặt hàng này rồi tái chế, bán
trong nước hoặc xuất khẩu sang các nước khác với thương hiệu của họ và giá cao hơn.
Có những mặt hàng, kim ngạch xuất khẩu đạt khá cao trong mấy năm gần đây như
máy tính và linh kiện điện tử chủ yếu do các liên doanh nước ngồi tại Việt Nam xuất
khẩu.
Việt Nam và Thái Lan có những nét tương đồng trong các mặt hàng xuất khẩu.
Do đó, thay vì cạnh tranh, đối đầu trên thương trường, hai nước cần tìm phương thức
hợp tác để cùng khai thác những lợi thế chung. Nếu không, hai bên sẽ sa vào cuộc
cạnh tranh không cần thiết mà để các đối thủ khác lấn át. Chính vì thế cả hai quốc gia
đều nên chú trọng phát triển thế mạnh của mình và hỗ trợ lẫn nhau và cùng phát triển.
2.2. Hợp tác về đầu tư
2.2.1. Hình thức đầu tư
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1976 và Luật Đầu tư nước ngồi sửa đổi

có hiệu lực vào năm 1992, các doanh nghiệp lớn của Thái Lan liên tục rót vốn vào thị
trường Việt Nam. Trong thập kỷ gần nhất, dòng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Năm
tăng bình quân 13% mỗi năm.

25


×