BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
ĐẶNG THỊ HUYỀN
TÍNH NHÂN VĂN TRONG THƠNG TIN VỀ VỤ ÁN
TRÊN CHUN ĐỀ AN NINH THẾ GIỚI HIỆN NAY
(Khảo sát từ năm 2008 đến năm 2013)
Ngành
: Báo chí học
Mã số
: 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS ĐỖ THỊ THU HẰNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên
cứu. Các nội dung trong luận văn có cơ sở rõ ràng và trung
thực. Các kết luận của luận văn chưa từng được công bố
trong các công trình nghiên cứu khác.
Hà Nội ngày 15 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đặng Thị Huyền
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TÍNH
NHÂN VĂN TRONG THƠNG TIN VỀ VỤ ÁN TRÊN BÁO CHÍ
1.1. Tính nhân văn - ngun tắc trong thơng tin về vụ án trên báo chí
1.2. Những thách thức trong thực tiễn thực thi nguyên tắc tính nhân
văn trong thơng tin vụ án trên báo chí ở nước ta hiện nay
10
10
20
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUN TẮC TÍNH NHÂN
VĂN KHI THƠNG TIN VỤ ÁN TRÊN CHUYÊN ĐỀ AN
NINH THẾ GIỚI
2.1. Sơ lược về loạt bài chọn khảo sát
2.2. Hàm lượng tính nhân văn và tỷ lệ vi phạm tính nhân văn trong
các tác phẩm báo chí chọn khảo sát
2.3. Phương pháp thực thi tính nhân văn
2.4. Thực trạng và nguyên nhân vi phạm tính nhân văn
2.5. Đánh giá chung về việc thực hiện nguyên tắc tính nhân văn trong
thơng tin vụ án trên An ninh thế giới
28
28
30
35
53
63
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TÍNH NHÂN
VĂN TRONG THƠNG TIN VỤ ÁN
3.1. Đề xuất một số yêu cầu về nâng cao nghiệp vụ báo chí và đạo đức
báo chí cho nhà báo nhằm đảm bảo ngun tắc tính nhân văn khi
thơng tin vụ án
3.2. Đề xuất một số yêu cầu về đào tạo nghiệp vụ báo chí nhằm đảm
bảo nguyên tắc tính nhân văn khi thông tin vụ án
3.3. Các giải pháp quản lý nhà nước về báo chí và quản lý tịa soạn
3.4. Bổ sung những nghiên cứu về nguyên tắc tính nhân văn
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
65
65
69
76
84
86
89
93
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ANTG
:
An ninh thế giới
Nxb
:
Nhà xuất bản
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Mô tả đánh giá của công chúng về các biểu hiện của
nguyên tắc tính nhân văn trong thơng tin vụ án trên
ANTG
32
Biểu đồ 2.2: Mô tả đánh giá của công chúng về số lượng các chi tiết
rùng rợn, phản cảm trong thông tin vụ án trên ANTG
33
Biểu đồ 2.3: Mô tả mức độ gây tổn thương đối với thân nhân người
gây án
Biểu đồ 2.4: Mô tả cơ hội người gây án được lý giải về hành vi của mình
34
34
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà mọi nền báo chí đều vì con người với quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Ủng hộ các giá trị chung
của chủ nghĩa nhân văn và trước hết là hịa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội,
quyền con người và giải phóng dân tộc” là một trong các nguyên tắc quốc tế
của đạo đức nhà báo “ được thông qua trong cuộc gặp gỡ tư vấn lần thứ 4
của các tổ chức nhà báo khu vực và quốc tế diễn ra năm 1984 ở Paris và
Praha [25, tr.66].
Ngay trong thời kỳ tồn cầu hóa như hiện nay, khi biên giới cứng của các
quốc gia, dân tộc bị vượt qua, khi thế giới trở nên phẳng và nguy cơ những
khn khổ văn hóa, giá trị truyền thống bị mai một, bị phá vỡ hay bị biến đổi
theo chiều hướng khơng mong muốn thì báo chí truyền thông càng phải coi
trọng và giữ vững nguyên tắc nhân văn. Đó chính là yếu tố căn cốt để báo chí
truyền thơng mang lại những giá trị tốt đẹp cho con người trong một thời đại
tồn cầu hóa nhiều thuận lợi nhưng cũng đầy rẫy những nguy cơ, trong những
mâu thuẫn, đối nghịch chính trị thể hiện đầy khốc liệt vẫn đang hiện diện tại
nhiều vùng, nhiều lãnh thổ trên trái đất này. GS.TS. Tạ Ngọc Tấn - Uỷ viên
Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong bài tham luận "Phát triển nền báo chí nhân văn trong điều kiện tồn cầu
hố" tại Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Báo chí trong q trình tồn
cầu hóa - Cơ hội, thách thức và triển vọng" đã nhấn mạnh:
... Báo chí trong thời đại tồn cầu hóa đương nhiên phải là nền báo
chí tiến bộ hơn, tiến đến những giá trị nhân văn hồn thiện, hồn mỹ
hơn... Đó là nền báo chí vì con người, đặt con người lên trên hết,
quan tâm nhiều nhất đến hạnh phúc con người, phục vụ cho cuộc
sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn, vì sự phát triển ngày
càng toàn diện và hoàn thiện của con người [39].
2
Báo chí cách mạng Việt Nam trên tinh thần và nguyên tắc thấm đẫm tính
nhân văn đã, đang và sẽ tiếp tục bảo vệ quyền con người và những giá trị
nhân văn cao cả. Lý luận báo chí cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng, tính
nhân văn là một trong 5 ngun tắc hoạt động của báo chí. Đó cũng chính là
cơ sở phương pháp luận của hoạt động báo chí và là một trong những yếu tố
cơ bản giúp báo chí đạt được mục đích hoạt động của mình.
Nhưng đáng tiếc là hiện nay báo chí nước ta đang tồn tại một thực trạng.
Đó là vì mải chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận nhỏ mà quên đi
nguyên tắc tính nhân văn như một yếu tố căn cốt để tạo lập và gìn giữ niềm
tin của công chúng. Báo cáo tổng kết công tác báo chí năm 2014 tại Hội nghị
tổng kết cơng tác báo chí năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015, nhận định
một trong những khuyết điểm của cơng tác báo chí là:
Khơng ít ấn phẩm phụ của báo in và báo điện tử đưa quá nhiều tin
tiêu cực, giật gân câu khách, trái thuần phong mỹ tục, miêu tả tỉ mỉ,
chi tiết các hành vi tội ác, thơng tin mê tín dị đoan, chuyện thần bí
khơng có cơ sở khoa học mà chưa chú trọng phản ánh các gương
người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến, các thành tựu kinh tế - xã hội
đã gây cảm giác nặng nề, u ám trong đời sống xã hội, phản cảm cho
người đọc [1].
Thông tin thiếu nhân văn thể hiện trong nhiều dạng bài nhưng nhiều
nhất, phổ biến nhất, đó là trong các thơng tin về vụ án.
Một bộ phận báo chí chọn thơng tin về vụ án theo phương cách giật giân
câu khách bằng những chi tiết dã man, rùng rợn; bằng cách khoét thêm nỗi
đau của những người trong cuộc; thậm chí chà đạp nhân phẩm của những
người có liên quan.
Tình trạng này, nếu khơng được ngăn chặn thì báo chí sẽ có nguy cơ bị
mất niềm tin của cơng chúng và khi báo chí cứ viết nhiều, viết mãi về tội ác
với tồn những man rợ, thấp hèn thì chính nó sẽ gây ra những hậu quả khôn
3
lường cho xã hội. Như, sẽ gây ảnh hưởng xấu đối với nhận thức của một bộ
phận công chúng; làm gia tăng tình trạng bạo lực trong xã hội, làm mất đi vai
trị cao cả của báo chí đối với xã hội.
Cũng bởi vậy mà vấn đề đảm bảo nguyên tắc nhân văn của báo chí, đặc biệt
trong thơng tin về vụ án chưa bao giờ lại trở nên cấp bách như lúc này. Chính vì
thế, luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu về tính nhân văn trong thơng tin về vụ án
trên một ấn phẩm báo chí thuộc ngành công an, nơi mà dung lượng thông tin về
vụ án chiếm khá nhiều. Từ đó, đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo tốt nhất
tính nhân văn trong thơng tin về vụ án trên báo chí hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nghiên cứu liên quan đến nguyên tắc nhân văn của báo chí gồm:
Nghiên cứu tính nhân văn ở góc độ lý luận báo chí có các giáo trình dùng
để giảng dạy tại Khoa Báo chí Học viện Báo chí Tuyên truyền của tác giả
PGS.TS Nguyễn Văn Dững gồm: Cơ sở lý luận Báo chí, Nxb Lao động 2012;
Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động 2011; GS Tạ Ngọc Tấn (chủ biên),
Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa Thông tin, 1992; PGS.TS Nguyễn Văn
Dững (chủ biên) - Đỗ Thị Thu Hằng, Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ
bản, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, 2012. Trong đó, có phần bàn về nguyên
tắc nhân văn trong hoạt động báo chí.
Nghiên cứu tính nhân văn ở góc độ tác động, ảnh hưởng của nó tới dư
luận xã hội, tới sự tiếp nhận của công chúng, các cuốn sách, các bài báo sau
đây có phần nghiên cứu về sự tác động của báo chí đối với niềm tin của cơng
chúng, trong đó có đề cập tới tính nhân văn của thơng tin.
PGS.TS Nguyễn Văn Dững, Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động 2011.
PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng, Tâm lý học ứng dụng trong nghề báo, Nxb
Thơng tấn, 2013.
TS Đỗ Chí Nghĩa, Vai trị của báo chí trong định hướng dư luận xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia 2012, Hà Nội.
4
Mai Quỳnh Nam (1996), Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp
chí Xã hội học số 1 (53)/1996.
Nghiên cứu tính nhân văn ở góc độ đạo đức nhà báo:
G.V.Ladutina, Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo
(Hồng Anh biên dịch), Nxb Lý luận chính trị 2003, có phần đề cập đến bổn
phận của nhà báo là ủng hộ các giái trị chung của chủ nghĩa nhân văn.
Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo,
Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thị Trường Giang, 100 bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế
giới, Nxb Chính trị quốc gia 2014 đề cập đến tính nhân văn trong những nguyên
tắc, tiêu chuẩn chung trong các bản quy tắc đặc đức nghề báo trên thế giới.
Nguyễn Thu Hồng, Mối quan hệ giữa tính pháp lý và tính nhân văn
trong báo chí điều tra (Khảo sát qua các tác phẩm điều tra trên báo),
Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2013. Khóa luận này đã đi sâu và phân tích mối quan hệ giữa tính
pháp lý và tính nhân văn trong tác phẩm điều tra báo chí qua khảo sát
ngẫu nhiên 41 tác phẩm điều tra đoạt giải của Hội Nhà báo Việt Nam của
các năm 1999, 2001, 2005, 2007 và 32 tác phẩm điều tra báo chí trên một
số tờ báo. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường tính pháp lý
và tính nhân văn để từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của các tác
phẩm điều tra.
Nghiên cứu tính nhân văn ở góc độ tiếp cận quyền và thái độ ứng xử đối
với nhóm cơng chúng dễ bị tổn thương như trẻ em:
PGS,TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên, Báo chí với trẻ em, Nxb Lao động (2004).
TS Nguyễn Thị Trường Giang, Nguyên tắc đạo đức nghề báo khi đưa tin
về trẻ em, Tạp chí Người làm báo tháng 5-2014
TS Nguyễn Ngọc Oanh, Nhà báo với trẻ em - kiến thức và kỹ năng, Nxb
Thông tấn, 2014.
5
PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng, Tiếp cận dựa trên quyền trong báo chí truyền thơng về đề tài chiến tranh và xung đột, Hội thảo quốc tế "Báo chí về
đề tài chiến tranh" do Hội Nhà báo Việt Nam, Học viện Báo chí và tun
truyền, Thơng tấn xã Việt Nam, báo Quân đội Nhân dân, Truyền hình Viettel
và Đại học Tổng hợp Viên - Cộng hòa Áo phối hợp tổ chức từ 24 đến
28/4/2015 tại Hà Nội
Các nghiên cứu này đề cập tới tiếp cận dựa trên quyền, như một phương
pháp tiếp cận của nhà báo, nhà truyền thông, cơ quan báo chí - truyền thơng
và cơ quan quản lý báo chí - truyền thơng khi làm việc với chủ đề chiến tranh và
xung đột, chủ đề về trẻ em. Mục tiêu của mọi hoạt động báo chí đều phải hướng
vào việc thúc đẩy thực hiện quyền con người. Phương pháp tiếp cận quyền con
người là một công cụ tốt cho nhà báo/ nhà truyền thông khi tác nghiệp.
Các nghiên cứu liên quan đến hiện tượng bỏ qua hoặc xem nhẹ tính nhân
văn trong thơng tin vụ án bao gồm:
TS Hồng Đình Cúc, Đặc điểm nghề báo những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia 2003 có đề cập đến hiện tượng báo chí đăng tải
q nhiều các vụ án mạng, mặt trái của xã hội.
Th.S Vũ Thanh Vân, Quyền riêng tư và ứng xử của nhà báo, Văn hóa
truyền thơng trong thời kỳ hội nhập, Nxb Thông tin và truyền thông 2013, đề
cập đến những tác động xấu khi thông tin về vụ án mà thiếu tính nhân văn.
Nguyễn Thị Trường Giang, Đặc điểm nghề nghiệp của nhà báo hiện nay,
Luận án tiến sỹ truyền thơng đại chúng, Học viện Báo chí và Tun truyền,
2010. Nghiên cứu về đạo đức nhà báo, luận án này đã có một phần đánh giá
về tình trạng báo chí không tuân thủ nguyên tắc nhân văn, đăng tải quá nhiều
các vụ án mạng và mặt trái của xã hội, miêu tả chi tiết những cảnh đầu rơi
máu chảy gây hoang mang trong dư luận.
Káp Thành Long, Kỹ năng xử lý đề tài pháp luật trên báo in hiện nay,
Luận văn ThS. Báo chí - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
6
học Quốc gia Hà Nội, 2008. Luận văn đã trình bày đề tài pháp luật và kỹ năng
xử lý đề tài pháp luật trên báo in hiện nay; Đưa ra một số kiến nghị, đề xuất
về những bất cập trong việc bảo vệ phóng viên khi tác nghiệp, các vấn đề cần
thay đổi trong việc quản lý, điều động phóng viên khi theo dõi mảng đề tài
pháp luật nói chung và phóng viên làm điều tra nói riêng.
Nguyễn Hải Hồng, Thực trạng thông tin “giật gân, câu khách” trên báo
in hiện nay (Khảo sát các báo Thanh niên, Tiền phong và An ninh Thủ đô từ
tháng 1/2007 đến tháng 6/2008), Luận văn Th.s Báo chí học, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền 2008. Tác giả luận văn đã dành một phần trong luận văn
để nghiên cứu, đánh giá thực trạng thông tin về vụ án theo kiểu giật gân câu
khách, chỉ chiều theo thị hiếu thấp hèn của một bộ phận công chúng mà xem
nhẹ nguyên tắc nhân văn trong hoạt động báo chí.
Trần Thị Thu Trang, Cạnh tranh thơng tin trên báo mạng điện tử Việt
Nam hiện nay (Qua khảo sát VnExpress, VnMedia.vn, Vov.vn từ tháng 1/2011
đến tháng 6/2012), Luận văn Th.s Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2012. Khảo sát về tình hình cạnh tranh thơng tin trên các báo mạng
điện tử nói trên, luận văn đã đề cập một phần đến vấn đề cạnh tranh trong
thông tin vụ án. Nghiên cứu của luận văn cho thấy để câu view, nhiều vụ án
đã bị các báo điện tử này thông tin theo kiểu giật gân, câu khách.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nguyên
tắc nhân văn của thông tin báo chí trên nhiều góc độ tiếp cận. Tuy nhiên,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về tính nhân văn ở trong
thông tin vụ án, một loại thông tin mà bản thân nó đã chứa đựng yếu tố man
rợ - "đầu rơi máu chảy". Những vấn đề khác có liên quan cũng chưa được đề
cập, như: Đâu là tiêu chí nhận diện tính nhân văn trong tác phẩm báo chí,
trong đó có thơng tin về vụ án? Khi thơng tin về vụ án thì sẽ có những yếu tố
nào tác động đến tính nhân văn? Làm thế nào để vẫn đảm bảo thông tin
khách quan trung thực tới cơng chúng mà vẫn đảm bảo tính nhân văn, trong
7
khi trong bản thân thông tin đã chứa đựng yếu tố man rợ như thơng tin vụ
án? Tính nhân văn có xung đột với các ngun tắc khác của thơng tin báo
chí, trong đó có tính khách quan chân thực của thông tin như thông tin vụ án
hay không? Mặt khác, trong tất cả các cơng trình nêu trên, cũng chưa cơng
trình nào đề cập đến các giải pháp nhằm gia tăng tính nhân văn trong thơng
tin vụ án.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thơng qua việc phân tích thực trạng thực thi nguyên tắc tính nhân văn
trong khi thông tin về vụ án ở Chuyên đề ANTG, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm đảm bảo và gia tăng hàm lượng văn hóa, tính nhân văn trong thơng tin
vụ án trên ANTG nói riêng và báo chí nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, có 3 nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Xác lập cơ sở lý thuyết về nguyên tắc nhân văn trong hoạt động báo chí
nói chung và trong thơng tin về vụ án nói riêng
- Khảo sát, phân tích hàm lượng tính nhân văn, tần suất vi phạm trong
các thơng tin về vụ án trên một số tuyến bài tiêu biểu của Chuyên đề ANTG
trong 5 năm từ 2008 đến 2013. Từ đó có những nhận định chính xác về thành
công và hạn chế của ANTG về mảng đề tài này.
- Xác định những vấn đề đặt ra về giải pháp nhằm nhằm đảm bảo và gia
tăng hàm lượng văn hóa, tính nhân văn trong thơng tin về vụ án trên các ấn
phẩm của ANTG nói riêng và báo in nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là tính nhân văn trong các tác phẩm báo chí viết
về vụ án trên các ấn phẩm của Chuyên đề An ninh Thế giới
- Phạm vi nghiên cứu: Do số lượng các tác phẩm báo chí viết về vụ án
trên các ấn phẩm của Chuyên đề An ninh Thế giới khá nhiều nên luận văn chỉ
8
nghiên cứu trong phạm vi từ năm 2008 đến năm 2013 với 10 tuyến bài về các
vụ án lớn, có ảnh hưởng nhiều tới công chúng và dư luận xã hội
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận báo chí truyền
thơng về cơng chúng báo chí, về chức năng xã hội cơ bản của báo chí, về các
nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí.
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong luận văn:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu để hệ thống hóa lý thuyết,
xác định cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Các đối tượng lựa chọn phỏng vấn gồm:
lãnh đạo báo chí (1Tổng biên tập, 1 Phó tổng biên tập), Thư ký Tịa soạn và
Biên tập viên (3 người), phóng viên chuyên viết pháp luật (2 người). Mục đích
của các phỏng vấn sâu nhằm để thu thập thông tin về hiện trạng về hàm lượng
tính nhân văn trong các tác phẩm báo chí viết về vụ án trên ANTG, về nguyên
nhân vi phạm tính nhân văn, về giải pháp đảm bảo và nâng cao tính nhân văn
trong thơng tin vụ án nói chung và trên ANTG nói riêng.
- Phương pháp bảng hỏi anket: Nhằm xác định hàm lượng tính nhân văn,
tần suất vi phạm, tiêu chí nhận diện tính nhân văn trong thông tin vụ án trên
ANTG. Các phiếu khảo sát này được tiến hành đối với công chúng (kể cả
những công chúng không đọc ANTG) ở hai địa bàn phát hành báo với số
lượng lớn nhất là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
- Phương pháp phân tích nội dung: Được sử dụng nhằm phân tích hàm
lượng tính nhân văn, tiêu chí nhận diện tính nhân văn, những biểu hiện vi
phạm tính nhân văn trên 10 bài và tuyến bài chọn khảo sát. Đây là các bài và
tuyến bài tiêu biểu viết về các vụ án lớn, có tính chất nghiêm trọng, có ảnh
hưởng xã hội mạnh mẽ trên ANTG trong vòng 5 năm từ 2008 đến 2013.
Các phương pháp nghiên cứu kể trên được tiến hành song song và bổ trợ
lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu.
9
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận văn
- Luận văn tổng kết về mặt lý luận, cung cáp dẫn chứng, góp phần làm rõ
hơn khung lý luận về tính nhân văn trong thơng tin báo chí và những vấn đề
đặt ra cho các nhà báo về nội dung, phương pháp, hình thức thực thi trong khi
thơng tin về vụ án trên báo chí.
- Luận văn nếu làm thành công sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho những
người làm báo chuyên về đề tài an ninh trật tự, cung cấp thêm một góc nhìn
thực tiễn về tính hấp dẫn đích thực của các tác phẩm báo chí về đề tài vụ án.
Đối với các sinh viên báo chí và những nhà nghiên cứu báo chí muốn có dữ
liệu thực tiễn thì luận văn này sẽ đáp ứng được yêu cầu đó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 10 tiết.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TÍNH NHÂN VĂN
TRONG THƠNG TIN VỀ VỤ ÁN TRÊN BÁO CHÍ
1.1. Tính nhân văn - ngun tắc trong thơng tin về vụ án trên báo chí
1.1.1. Khái niệm tính nhân văn và nguyên tắc tính nhân văn trong
hoạt động báo chí
Các khái niệm tính nhân văn, tính nhân đạo có cùng phạm trù ngữ nghĩa
nhưng biểu hiện ở các cấp độ ngữ nghĩa khác nhau.
Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, “nhân văn” được giải thích "nhân là
người, văn là vẻ đẹp" [27, tr.1318]. Theo đó, phẩm chất nhân văn là những
giá trị và tình cảm tốt đẹp thuộc về văn hóa con người trong sự phân biệt với
con vật hoặc đồ vật.
Cịn tính nhân đạo theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam “nhân đạo” được
giải thích như sau: “nhân” là người, “đạo” là lẽ phải. “Nhân đạo” là đạo đức
thể hiện ở chỗ tôn trọng quyền lợi, giái trị, phẩm chất của con người; là tỏ
lòng rộng lượng và thương xót. “Chủ nghĩa nhân đạo” là tinh thần tôn trọng
nhân cách của con người [27, tr.1315].
Như vậy, có thể hiểu, tính nhân đạo là những phẩm chất đạo đức thể hiện
ở nhận thức, thái độ và hành vi sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc và bảo vệ
con người, nhất là những con người đang gặp phải khó khăn, bất trắc.
Tính nhân văn nhấn mạnh đến việc báo chí đề cao, quý trọng, ca ngợi và
bảo vệ những giá trị văn hóa chung của cộng đồng, vì cuộc sống và những lợi
ích chính đáng của con người và cộng đồng. Trong báo chí truyền thơng, đó là
thái độ tiếp cận, đánh giá các sự kiện, các vấn đề trong đời sống hàng ngày
liên quan đến cả cộng đồng cũng như số phận riêng của mỗi con người; đó là
những quan điểm, thái độ và nỗ lực khơng mệt mỏi trong cuộc đấu tranh vì
11
quyền con người, dân chủ, dân sinh, vì sự tiến bộ xã hội và những giá trị nhân
đạo chân chính.
Tính nhân văn của báo chí đã khơi thức giá trị trong mỗi con người và
tạo nên sức mạnh cảm xúc trong họ. Tính nhân văn chính là phương tiện kết
nối cộng đồng cùng hướng tới giá trị cao cả nhất - đó là vì con người với
những quyền lợi gần gũi, thiết thực và những giá trị nhân bản vì sự bền vững
của toàn xã hội.
Trong điều kiện toàn cầu hóa, tính chất nhân văn của nền báo chí liên
quan đến nhận thức và hành động nghề nghiệp của nhà báo, theo phân tích
của GS.TS Tạ Ngọc Tấn, bao gồm:
i- sự công bằng giữa những con người ở những quốc gia, dân tộc có
chế độ chính trị, điều kiện sống khác nhau;
ii- sự công bằng và trân trọng đối với những con người có hồn
cảnh, điều kiện sống, địa vị xã hội khác nhau trong mỗi dân tộc, mỗi
đất nước, nhất là đối với những người yếu thế, nghèo khổ, bệnh tật;
iii- bảo vệ và thúc đẩy phát triển đối với các giá trị tốt đẹp của con
người cùng với việc đấu tranh chống cái xấu, loại bỏ cái ác ra khỏi
đời sống xã hội;
iiii- phản biện xã hội, tìm tòi các giải pháp giải quyết các vấn đề mà
cuộc sống đang đặt ra, góp phần xây dựng và thúc đẩy thực hiện
những chính sách mang lại lợi ích chính đáng cho người dân, sự
phát triển tích cực cho xã hội [39].
Tính nhân văn của báo chí vừa là vấn đề có tính chất trìu tượng nhưng lại
rất cụ thể và hiện hữu trong mỗi tác phẩm hay sản phẩm báo chí. Theo
PGS.TS Nguyễn Văn Dững, các cấp độ của tính nhân văn như sau:
Thứ nhất, mảng đề tài mà báo chí quan tâm, chú trọng hướng ưu
tiên cho những sự kiện, vấn đề thời sự - mối quan tâm trong sản
xuất và đời sống hàng ngày của cộng đồng, mà nếu giải quyết được
12
những vấn đề ấy sẽ giúp ích cho sự phát triển bền vững, nâng cao
chất lượng cuộc sống; không nên chú tâm quá mức vào những góc
tù nước đọng để góp phần làm mờ, làm đen tấm gương phản chiếu
cuộc sống hôm nay.
Thứ hai, khi tiếp cận sự kiện và vấn đề thơng tin, nhà báo chọn lựa
góc nhìn nào để ánh lên giá trị nhân bản.
Thứ ba, là tính nhân văn của báo chí thể hiện ở cách thức lựa chọn
chi tiết thông tin về sự kiện và vấn đề trong tác phẩm.
Thứ tư, ngôn từ và giọng điệu trong tác phẩm cũng là công cụ quan
trọng, trực tiếp biểu hiện tính nhân văn của thơng tin báo chí; đồng
thời đó cũng là chỉ báo thang đo đẳng cấp văn hóa và tính chun
nghiệp của nhà báo [5, tr.238-239].
Ngun tắc tính nhân văn có mối quan hệ chặt chẽ với các nguyên tắc
khác của báo chí. Các cấp độ, hình thức, phương pháp biểu đạt của nó góp
phần làm gia tăng tính chân thật của thơng tin báo chí và thống nhất với các
nguyên tắc khác như tính khuynh hướng, tính dân tộc và tính quốc tế.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc thực hiện nguyên tắc nhân văn trong
báo chí và thơng tin vụ án trên báo chí
Báo chí phải tôn trọng quyền được thông tin của độc giả nhưng điều đó
khơng có nghĩa rằng, báo chí được phép bất chấp tất cả để làm thỏa mãn một
cách tối thượng cho độc giả. Nhà báo không phải ở đâu, khi nào và bao giờ
cũng được phép thể hiện trên mặt báo tất cả những gì mình biết. TS Nguyễn
Thị Trường Giang (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) trong bài viết “Báo
mạng điện tử và đạo đức nhà báo” có viết:
Câu hỏi đặt ra là: nhà báo có quyền đưa tất cả những gì biết về nhân
vật của mình? Có những điều nhà báo được nói nhưng cũng rất
nhiều điều nhà báo cần phải cân nhắc kỹ càng. Nếu nhân vật của anh
ta là một quan chức tham nhũng thì đời tư của quan chức đó ắt hẳn
13
sẽ thu hút được công chúng. Song những điều mà cơng chúng quan
tâm chưa chắc đã mang lại lợi ích cho xã hội. Ví như thói hư tật xấu,
bới móc đời tư của một con người chắc hẳn chẳng phục vụ cho lợi
ích chung của xã hội.
Trách nhiệm của nhà báo là đưa tin. Nhưng đi cùng với trách nhiệm
ấy là trách nhiệm của con người trước số phận của những con người
khác. Nhà báo nên biết khai thác như thế nào và dừng lại ở đâu.
Đằng sau mỗi nhân vật là con cái, gia đình, người thân, bạn bè,…
Số phận của họ có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hay xấu khi tác
phẩm của nhà báo được công bố. Sự vơ tình, vơ cảm, thiếu trách
nhiệm, cẩu thả,… của nhà báo có thể tạo nên những định kiến hủy
hoại nhân vật. Trước khi thực hiện thiên chức, mỗi nhà báo phải biết
yêu thương, trân trọng, thông cảm với nhân vật, số phận của những
con người trong chính các tác phẩm của mình [10].
Phóng viên Duy Hồng của Báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh khi tác
nghiệp tại một vụ cháy ở Hải Phòng rạng sáng ngày 29-12-2014 tại Hải
Phòng đã từng bị dằn vặt bởi mâu thuẫn giữa trách nhiệm của người đưa tin
và nỗi đau đớn của các nạn nhân. Vụ cháy xảy ra trong một căn nhà trên
đường Nguyễn Đức Cảnh, Hải Phòng, cả 6 người có mặt trong căn nhà vào
thời điểm đó đều bị chết cháy. Là phóng viên duy nhất có mặt tại hiện
trường, Duy Hoàng muốn đưa máy lên bấm thật nhanh để ghi lại kịp thời
khoảnh khắc… nhưng lại sợ những hình ảnh ấy sẽ là nỗi ám ảnh đối với
người thân ở lại. Muốn đặt câu hỏi để có được thơng tin chân thực, chính
xác nhất nhưng rất sợ vơ tình khơi thêm nỗi đau cho họ. Trên trang Face
Book (FB) cá nhân, anh viết về nỗi hoang mang của riêng anh, nhưng đó
cũng là những vấn đề chung đặt ra đối với các nhà báo. Đó là làm sao để
vừa có những thơng tin khách quan, chân thực mà vừa khơng làm tổn
thương thêm cho những người có liên quan:
14
“... Nhìn những thi thể đen xì, biến dạng nằm xếp lớp mà thấy tim như bị
bóp nghẹt. Khơng dám nhìn q vài giây, khơng nỡ cầm máy lên chụp lại
cảnh tượng đau lịng ấy.
…Có những lúc hoang mang, căng thẳng, rối loạn đến tột độ không biết
xử lý như nào trước nỗi đau quá lớn trong mỗi vụ tai nạn kinh hoàng như này.
Muốn đưa máy lên bấm thật nhanh để ghi lại kịp thời khoảnh khắc… nhưng
lại sợ những hình ảnh ấy sẽ là nỗi ám ảnh đối với người thân ở lại. Muốn đặt
câu hỏi để có được thơng tin chân thực, chính xác nhất nhưng rất sợ vơ tình
khơi thêm nỗi đau cho họ. Cuối cùng thì vẫn chụp ảnh nhưng hỏi thì thường
là khơng, và ngay cả khi thấy đang làm phiền họ thì sẽ quay máy đi chỗ khác.
Sẽ phải giải thích với cơ quan nhưng ít nhất khơng bị dằn vặt. Có những ngày
hoang mang như thế…
Vơ tình nhớ đến một bộ phim đã xem, trong đó nghề báo và nhà báo
khơng phải nội dung chính nhưng lại là nguyên nhân dẫn đến bi kịch cho các
nhân vật khiến mình bị ám ảnh nhiều ngày. Phim cũng mở đầu với một vụ
cháy, những người lính cứu hoả hy sinh vì cố lao vào lửa cứu người khi thấy
có dấu hiệu của sự sống. Người chỉ huy cũng chết trong đám cháy nhưng
khơng tìm thấy xác. Câu chuyện xoay theo một chiều khác, đau đớn khơng
kém gì mất người thân khi các nhà báo suy luận theo hướng người chỉ huy đã
bỏ trốn vì sợ phải chịu tội ngộ sát vì đã đưa ra quyết định không đúng khi huy
động lực lượng vào cứu người.
Chị vợ và hai đứa con nhỏ chưa hết bàng hồng, hoảng loạn khơng biết
người người đàn ơng trụ cột trong gia đình giờ sống chết ra sao thì lại phải
chịu đựng sự bao vây, soi mói của báo chí. Một biên tập viên truyền hình khá
xinh đẹp đã nổi tiếng hơn khi lên hình dẫn bản tin với gương mặt sắc lạnh
khơng chút cảm xúc, chĩa micro về phía đứa con trai út và hỏi gia đình đang
giấu bố ở đâu? Có thấy xấu hổ khi bố cháu làm chết nhiều người vì quyết
định sai? Đứa bé gào lên đau đớn phản kháng lại thì cố ấy chỉ đạo quay phim
15
chĩa máy vào đôi mắt đang hằn lên sự giận dữ kèm lẫn đau đớn, rồi run sợ và
bất lực… Họ nhân danh đi tìm sự thật rồi cho mình cái quyền dẫm đạp lên
những số phận đang bị tổn thương rất lớn, dẫm đạp lên tình u vơ bờ bến,
niềm tự hào của đứa trẻ khi có bố làm lính cứu hoả.
Sau đó vì khơng chịu được sự tủi nhục, đau đớn hơn cả mất người thân
mà dư luận đang dồn vào họ, người mẹ đã đưa cậu con trai út ra bờ vực xem
pháo hoa - lời hứa của người cha vào tối hôm trước khi lao vào lửa chữa
cháy- rồi ôm con nhảy xuống vực… Mọi bi kịch bắt đầu từ những tin, bài trên
các phương tiện truyền thông.
Một câu hỏi luôn thường trực trong đầu từ lâu “làm báo hữu cơ” hay
“làm báo có tình người”??? Trong thời buổi cạnh tranh thông tin, các báo hơn
nhau ở việc tin bài đăng sớm hay muộn, thu hút được bạn đọc bởi những
thông tin “ngược chiều” của vụ việc. Và sẽ càng hấp dẫn hơn khi ngòi bút
vạch mặt một ai đó thậm chí là dồn một con người nào đó - đang có dấu hiệu
mắc sai lầm (hay là có sai lầm thật đi chăng nữa) - vào bước đường cùng. Thế
nhưng sẽ phải trả giá rất đắt vì chỉ một chút sai sót nhỏ thơi thì nhà báo cũng
chẳng khác gì kẻ sát nhân”
Trong thơng tin báo chí, những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp, về
nguyên tắc thông tin, buộc nhà báo phải xem xét cẩn thận cả ba vấn đề.
Thứ nhất là “lợi ích xã hội”; thứ hai là “mối quan tâm của công chúng” và
thứ ba là “quyền lợi của nhân vật”. Một nhà báo giỏi nghề và tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp là nhà báo không chỉ cân nhắc thiệt hơn trong việc lựa
chọn thơng tin đến với cơng chúng mà cịn biết lựa chọn chi tiết sao cho sự
kiện vẫn được thông tin một cách khách quan, chân thực mà vẫn đảm bảo
tính nhân văn. Nói như PGS.TS Nguyễn Văn Dững - Học viện Báo chí và
Tun truyền - thì “khơng phải điều gì cơng chúng muốn cũng có thể đáp
ứng. Nhà báo phải có tầm nhìn cao, xa hơn cơng chúng, tức là tầm nhìn của
một nhà văn hóa” [10].
16
Giá trị nhân văn của thơng tin báo chí khơng chỉ bảo vệ quyền con người
với tất cả sự yêu thương, trân trọng mà ở một tầng bậc cao hơn, chính nó lại tiếp
tục khơi dậy và thắp sáng tính nhân văn trong góc nhìn, trong nhận thức của
cơng chúng. Báo chí, xuất phát từ thực tiễn xã hội nhưng chính nó lại có sức tác
động rất mạnh mẽ - vừa là cơng cụ có sức cơng phá mãnh liệt, vừa là động lực
kích thích sự phát triển, tạo dựng niềm tin nơi hàng triệu triệu công chúng.
Từ thực tiễn kinh tế xã hội tác động đến chủ thể nhà báo để sáng tạo sản
phẩm báo chí. Thơng qua kênh truyền thơng, các sản phẩm báo chí tác động
đến cơng chúng từ đó làm thay đổi thái độ, hành vi của họ. . Thực hiện được
việc thay đổi nhận thức, thái độ và điều chỉnh hành vi của con người và các
nhóm cơng chúng, nhóm đối tượng theo hướng phù hợp với sự phát triển, đó
chính là hiệu quả tác động của báo chí. Giá trị nhân văn của tác phẩm báo chí,
như thế, với cơ chế tác động của báo chí sẽ lan tỏa, khơng chỉ với một cơng
chúng mà với số đông công chúng. Một cách trực tiếp, nó đã góp phần nhân
lên trong cộng đồng những điều tốt đẹp.
Trong thơng tin vụ án cũng vậy.Việc báo chí đưa tin phản ánh về các vụ
phạm tội dựa trên một ý niệm căn bản có mục đích tốt đẹp là nêu lên những
cái xấu trong xã hội để mọi người biết, đấu tranh và tránh, ngăn ngừa tội
phạm. Đưa thơng tin vụ án, nếu đảm bảo hàm lượng tính nhân văn, thì những
thơng tin đó thực sự có lợi ích, có giá trị với con người. Khơng chỉ là để đảm bảo
quyền thông tin cho công chúng mà ở tầng bậc sâu xa hơn, chính những giá trị
nhân văn trong những thơng tin mà sự thực có thể tàn khốc, đau đớn đó sẽ làm
tơn lên những giá trị cao đẹp của cuộc sống, của con người. Viết về cái ác để đề
cao cái thiện; viết về những khoảng tối tăm để đề cao giá trị của ánh sáng; viết
về những lầm lỗi để nhấn mạnh bài học giáo dục... chính là như vậy.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tính nhân văn với các nguyên tắc
báo chí khác
Lý luận báo chí đã chỉ ra 5 nguyên tắc cơ bản của báo chí, bao gồm: tính
khách quan, chân thực; tính khuynh hướng; tính nhân dân và dân chủ; tính
dân tộc và quốc tế; tính nhân văn.
17
Như đã phân tích thì tính nhân văn của tác phẩm báo chí thể hiện ở cách
thức người viết lựa chọn những chi tiết thông tin về sự kiện và vấn đề trong
tác phẩm. Nhà báo không nên tập trung lựa chọn chi tiết để khoét sâu thêm
nỗi bất hạnh của nhân vật và không nên tra tấn công chúng bằng những chi
tiết giật gân câu khách.
Trong khi đó thì ngược lại, tính khách quan trong hoạt động báo chí có
thể được hiểu là việc thơng tin, phản ánh các sự kiện và vấn đề thực tế với đầy
đủ các chi tiết vốn có của nó, khơng thêm bớt, khơng thiên lệch, thiên vị;
thơng tin sự kiện đúng như nó vốn tồn tại trong thực tiễn.
Vậy thì, nguyên tắc nhân văn có mâu thuẫn với ngun tắc khách quan
hay khơng? Liệu trong thơng tin vụ án, nếu đảm bảo tính khách quan tức là
thông tin sự kiện với đầy đủ các chi tiết vốn có của nó thì cũng đồng nghĩa
với việc báo chí khơng cịn có cơ hội để lựa chọn chi tiết - một trong những
cách thức để thực hiện nguyên tắc nhân văn? Hoặc ngược lại, khi nhà báo chỉ
lựa chọn những chi tiết không làm khoét sâu thêm nỗi bất hạnh của nhân vật,
không giật gân câu khách để độc giả không bị tra tấn, tức là nhà báo đã khơng
đảm bảo tính khách quan khi đưa tin?
Cách hiểu “khách quan” theo nghĩa nguyên sơ là “thơng tin sự kiện theo
đúng như nó vốn có trong thực tiễn” nhưng tính khách quan chỉ là tương đối.
“Tương đối” bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan. Như, bởi sự kiện và
vấn đề thời sự rất phức tạp, nhiều chi tiết đan xen và địi hỏi thơng tin nhanh.
Như, bởi mục đích thơng tin và tiêu chí lựa chọn của các tờ báo không giống
nhau. Như, bởi khả năng nhận thức của nhà báo…
Mặt khác, có thể thông tin khách quan nhưng không phản ánh đúng bản
chất tình hình; sự kiện thơng tin tuy có thể xảy ra thật nhưng khơng phản ánh
đúng bản chất tình hình của vấn đề và tiến trình phát triển, tức là thông tin
không chân thật. Bởi vậy, để thông tin chân thật, đúng bản chất tình hình, nhà
báo phải biết cách chọn lọc những sự kiện có khả năng nói lên bản chất vấn
18
đề, bản chất tình hình. Trong thơng tin vụ án, dù vụ án xảy ra với những chi
tiết dã man, rùng rợn nhưng nhà báo không nhất thiết phải lựa chọn những chi
tiết đó.
Bởi, thứ nhất đó là những thơng tin chỉ có tác dụng làm khoét sâu thêm
nỗi đau, nỗi bất hạnh của con người; chỉ làm cho đen tối đi con mắt nhìn đời
của cơng chúng. Đó là những thông tin tra tấn công chúng.
Bởi, thứ hai là ngay trong thông tin về những vụ án mạng dã man, vẫn có
thể tìm lựa chọn những gì khơng làm đau thêm nỗi đau của người trong cuộc,
không khiến cho cơng chúng nhìn cuộc sống đen tối hơn mà vẫn phản ánh
đúng bản chất của sự kiện. Bằng phương cách xử lý thông tin như thế, thông
tin đảm bảo nguyên tắc nhân văn và vẫn đảm bảo nguyên tắc khách quan,
chân thật.
Vì vậy, có thể khẳng định, ngun tắc tính nhân văn khơng có gì mâu
thuẫn với ngun tắc khách quan, chân thật. Giữa các nguyên tắc này có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Những nguyên tắc báo chí phản ánh q trình
nhận thức về mục đích hành nghề, về đối tượng phục vụ,về con đường và
cách thức để đạt được những mục tiêu tốt đẹp mà báo chí hướng tới.
Nguyên tắc nhân văn, như trên đã phân tích, không chỉ không mâu thuẫn
với nguyên tắc khách quan chân thật mà các cấp độ, hình thức, phương pháp
biểu đạt của nó cịn góp phần làm gia tăng tính chân thật của thơng tin báo
chí. Bất cứ vụ án nào cũng liên quan đến con người. Đó có thể là con người
phạm tội và thân nhân của họ, là người bị hại và thân nhân của họ và những
người có liên quan khác. Báo chí khi thơng tin về vụ án, bởi vậy không thể
không thông tin về con người có liên quan. Đảm bảo tính nhân văn là phải lựa
chọn chi tiết nào, lựa chọn góc nhìn nào để thông tin vụ án vẫn được phản ánh
tới công chúng mà khơng làm tổn thương những người có liên quan. Những
con người có liên quan trong các vụ án khơng được nhìn theo cách tách rời
điều kiện sinh sống của họ, tách rời bối cảnh xảy ra vụ án, tách rời nguyên
19
nhân xảy ra vụ việc… Thậm chí, phải tham chiếu vụ việc này với các vụ việc
khác có nhiều điểm tương đồng. Khi con người được đặt trong rất nhiều
những mối liên hệ như thế, bản chất của vụ việc sẽ sáng tỏ hơn, chân thật hơn,
khách quan hơn. Công chúng cũng sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều chiều hơn và
điều đó sẽ khiến cho cơng chúng có thể nhìn sự việc đã xảy ra một cách khách
quan, chân thật. Vụ án đâm kim vào đầu cháu bé sơ sinh ở Thái Nguyên
xảy ra tháng 11- 2009 là một ví dụ. Thủ phạm là một phụ nữ. Cơ chính là
vợ chính thức của cha cháu bé cịn cháu bé bị hại là con riêng của chồng cơ
và nhân tình. Rất nhiều tờ báo đã thông tin về vụ án này. Những thông tin
đơn thuần riêng rẽ về vụ việc khiến công chúng phẫn nộ trước hành vi tàn
nhẫn của thủ phạm. Chuyên đề ANTG số 912 ra ngày 25-11-2009 cũng
đăng tải bài viết về vụ án này. Nhưng không chỉ là thơng tin đơn thuần với
những tình tiết định khung, định tội. Tác giả đã về nhà thủ phạm và về nơi
sinh sống của cơ nhân tình. Tác giả đã vào Trại giam và có cuộc trị chuyện
khá dài với thủ phạm về nguyên nhân, mục đích, động cơ gây án. Tác phẩm
báo chí là tổng hợp tất cả những thơng tin ấy. Cơng chúng đã nhìn thủ
phạm với cái nhìn đa chiều hơn. Như, thủ phạm vốn là một phụ nữ cam
chịu và đã từng có một thời gian dài bị chồng phản bội, bị đối xử tệ bạc.
Như, nỗi ân hận giày vò của thủ phạm sau khi gây án. Như, cuộc sống bơ
vơ của các con cô ấy sau khi mẹ vào tù, cha bỏ đi với nhân tình. Tất cả
những thơng tin nói trên khiến cơng chúng khơng chỉ căm phẫn mà cịn có
cái nhìn thông cảm hơn, đồng thời tự rút ra bài học từ những ứng xử sai
lầm và trái pháp luật của người phạm tội.
Ở nguyên tắc tính khuynh hướng với tính Đảng là sự phát triển ở cấp độ
cao nhất và tự giác nhất thì ngun tắc tính nhân văn cũng có mối quan hệ
thống nhất. Lẽ vì, "sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động báo chí cũng là nhằm tạo điều kiện cho báo chí phát triển và để tập
trung tồn bộ sức mạnh cũng như quyền năng sức mạnh thông tin của hệ
20
thống báo chí nước ta vào việc xây dựng, phát triển, đất nước vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh" [5, tr.224].
Với nguyên tắc tính nhân dân và dân chủ, tính dân tộc và tính quốc tế của
báo chí thì tính nhân văn cũng có quan hệ thống nhất, khơng mâu thuẫn. Bởi,
xét cho đến cùng, đối tượng phản ánh của báo chí chủ yếu là đời sống thường
ngày của nhân dân, báo chí của Đảng ln đứng về phí lợi ích của nhân dân,
lấy dân làm gốc. Hình ảnh của nhân dân trong các tác phẩm báo chí ln được
đề cao với những giá trị tốt đẹp nhất. Báo chí tơn trọng và đấu tranh bảo vệ
lợi ích và bản sắc của các dân tộc Việt Nam đồng thời tôn trọng giá trị của các
dân tộc trên thế giới. Như vậy, có thể hiểu rằng, trong hoạt động báo chí
truyền thơng, nguyên tắc nhân văn về cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với các
nguyên tắc báo chí khác và các nguyên tắc này thường được thể hiện một
cách tổng hợp, đan quyện vào nhau.
1.2. Những thách thức trong thực tiễn thực thi ngun tắc tính nhân
văn trong thơng tin vụ án trên báo chí ở nước ta hiện nay
1.2.1. Tính hai mặt và u cầu đặc thù của thơng tin vụ án trên báo chí
Những vi phạm nguyên tắc tính nhân văn trên báo chí thời gian qua dễ
nhìn thấy nhất là ở thông tin vụ án với những chi tiết rùng rợn, phản cảm, giật
gân, câu khách đã đặt ra vấn đề: Phải chăng, báo chí muốn nhân văn thì đừng
đưa thơng tin về vụ án?
Bàn về vụ án Lê Văn Luyện trước giờ xử án, LS Ngô Ngọc Trai có nhận
xét về trách nhiệm của báo chí trong việc đưa thông tin về vụ án này như sau:
…Các nhà báo đã bám sát quá trình điều tra và mỗi một thông tin
mới đều được đăng tải thu hút sự chú ý của bạn đọc. Người viết còn
nhớ, đến cả thông tin về chiếc xe ô tô của công an đưa Luyện từ
Lạng Sơn về Bắc Giang cũng được báo chí chú ý. Ở phương diện
người làm báo thì đó là hoạt động thường xun đương nhiên.
Nhưng ở góc độ quản lý xã hội, ngăn ngừa tội phạm thì việc đưa tin