Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Báo chí công an nhân dân với vấn đề đấu tranh phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tư tưởng cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THANH HÙNG

BÁO CHÍ CƠNG AN NHÂN DÂN VỚI VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH
PHỊNG, CHỐNG TỰ DIỄN BIỄN, TỰ CHUYỂN HĨA TRONG
TƢ TƢỞNG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
(Khảo sát Báo Cơng an nhân dân, Tạp chí Cảnh sát nhân dân,
Tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh năm 2014)

Ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS,TS. NGUYỄN VĂN DỮNG

HÀ NỘI – 2015


Luận văn đã đƣợc chỉnh sủa theo ý kiến của hội đồng khoa học


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS,TS. Đỗ Thị Thu Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và chƣa đƣợc ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015

Nguyễn Thanh Hùng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANND

An ninh nhân dân

ANTQ

An ninh tổ quốc

ANQG

An ninh quốc gia

BTVC


Biên tập viên chính

CA

Cơng an

CAND

Cơng an nhân dân

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CSVN

Cộng sản Việt Nam

PVC

Phóng viên chính

PCCC

Phịng cháy chữa cháy

TTĐC

Truyền thông đại chúng


TBCN

Tƣ bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 2.1

Đáp ứng tiêu chí gì về nội dung thơng tin

55

Bảng 2.2

Nội dung phản ánh của bài báo (tác phẩm)

57


Biểu đồ 2.1

Nội dung thơng tin chính đƣợc phản ánh trong
các tác phẩm đã đăng tải

50

Biểu đồ 2.2

Hình thức của các tác phẩm trên báo chí CAND

51

Biều đồ 2.3

Đáp ứng tiêu chí gì về nội dung thông tin

56


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU................................................................................ 11
1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu .......................................... 11
1.2. Nguyên nhân dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa và quan điểm
của Đảng, Nhà nƣớc về phòng, chống vấn đề này ......................... 20
1.3. Vai trò, nhiệm vụ của báo chí trong cuộc đấu tranh phịng, chống
tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng
viên .................................................................................................. 33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BÁO CHÍ CƠNG AN NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI VẤN ĐỀ ĐẤU TRANH TỰ DIỄN BIẾN, TỰ
CHUYỂN HÓA................................................................................ 41
2.1. Vài nét về báo chí lực lƣợng Cơng an nhân dân ...................................... 41
2.2. Thực trạng vấn đề phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong
tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên trên báo chí Cơng an nhân dân........... 48
2.3. Các hình thức đấu tranh phịng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa
trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên trên báo chí Cơng an nhân
dân ................................................................................................... 65
Chƣơng 3: VẤN ĐỀ VÀ KHUYẾN NGHỊ KHOA HỌC NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHỊNG CHỐNG TỰ DIỄN
BIẾN, TỰ CHUYỂN HĨA ............................................................ 70
3.1. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng báo chí đấu tranh phịng, chống
tự diến biến, tự chuyển hóa ............................................................. 70
3.2. Những u cầu đặt ra với báo chí Cơng an nhân dân trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế ................................................... 80
3.3. Một số khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa ...................................... 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92
PHỤC LỤC .................................................................................................. 101


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định một trong
những mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của đất nƣớc giai đoạn 5 năm 2011 2015 là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;
đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;

phát triển kinh tế nhanh, bền vững...” Để góp phần thực hiện có hiệu quả mục
tiêu và nhiệm vụ nêu trên, đòi hỏi tất cả các ban ngành đều phải tham gia vào
công tác bảo vệ an ninh nội bộ. Trong đó có vai trị to lớn của báo chí nói
chung và báo chí của lực lƣợng cơng an nhân nói riêng.
Báo chí Cơng an nhân dân là một bộ phận quan trọng của báo chí cách
mạng Việt Nam, do Đảng và Bác Hồ sáng lập, rèn luyện, đã đóng góp xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhân dân ta và sự nghiệp bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội.
Nhận thức sâu sắc vai trị quan trọng của báo chí đối với cơng tác,
chiến đấu và xây dựng lực lƣợng Công an nhân dân, Đảng uỷ Công an Trung
ƣơng và lãnh đạo Bộ Công an, cấp ủy đảng, thủ trƣởng Công an các đơn vị,
địa phƣơng đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện để báo chí Cơng
an nhân dân ngày càng lớn mạnh, trƣởng thành về mọi mặt, xứng đáng với vai
trị là đội qn xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng - văn hóa của lực lƣợng Cơng
an nhân dân.
Hiện nay, báo chí Cơng an nhân dân đang phát triển về cả số lƣợng,
loại hình, ấn phẩm, đội ngũ cán bộ làm báo và số lƣợng độc giả; cơ sở vật
chất - kỹ thuật, công nghệ đƣợc tăng cƣờng; hoạt động đúng tơn chỉ, mục
đích, định hƣớng tun truyền của Đảng, Nhà nƣớc; của Đảng ủy Công an
Trung ƣơng và lãnh đạo Bộ Cơng an. Chủ động, tích cực tuyên truyền chủ


2
nghĩa Mác - Lê-nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về an ninh, trật tự; phản ánh sinh động, kịp
thời công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng
nhƣ thực tiễn công tác, chiến đấu và xây dựng lực lƣợng Công an nhân dân.
Nhiệm vụ và cũng là vai trị chính yếu của báo chí nói chung và đặc
biệt là báo chí Cơng an nhân dân nói riêng là tun truyền, định hƣớng nhận
thức, tƣ tƣởng, là lực lƣợng xung kích tham gia vào việc phịng, chống “tự

diễn biến”, “tự chuyển hóa” trƣớc hết trong đội ngũ Đảng viên. Tham gia
cuộc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch, phản động và các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Dùng các luận điểm, lý lẽ
sắc bén của mình để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền
tảng tƣ tƣởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
bảo vệ thành quả cách mạng.
Đồng thời, báo chí Cơng an nhân dân cịn mang nhiệm vụ phân tích,
làm sáng rõ con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn; góp phần quan trọng phịng ngừa các biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Gắn liền nhiệm vụ
“xây” và “chống”, lấy “xây” là chính, báo chí đã động viên, cổ vũ cán bộ,
chiến sĩ nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong cơng tác, chiến đấu,
phục vụ nhân dân; động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia, đóng
góp xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Đặc biệt, trong điều kiện
khoa học công nghệ, kỹ thuật và Internet phát triển mạnh mẽ, bên cạnh các
loại hình báo chí truyền thống, báo chí Công an nhân dân đã mở thêm trang
thông tin điện tử để đáp ứng yêu cầu thông tin ngày càng cao của độc giả
trong nƣớc và quốc tế.
Một trong những u cầu đặc biệt hiện nay của báo chí cơng an nhân
dân là phải làm tốt công tác tuyên truyền, định hƣớng tƣ tƣởng nhằm bảo vệ


3
an ninh nội bộ, chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi
âm mƣu và hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch mà vấn đề
cốt lõi, quan trọng nhất là phải triệt để xóa bỏ mầm mống và những dấu hiệu
tự diễn biến trong nội bộ ngay từ khi mới manh nha. Nếu chủ quan, mất cảnh
giác, nguy cơ trở thành “tự chuyển hóa” trong nội bộ là cực kỳ nguy hiểm,
gây hậu quả khó lƣờng.
Trong bối cảnh xã hội đang chịu những tác động từ mặt trái của cơ chế

thị trƣờng; mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng bộc lộ rõ và gay gắt đã tác
động tiêu cực vào nhận thức, thái độ, hành vi của một bộ phận Đảng viên là
cán bộ của các cơ quan, đơn vị, tổ chức Nhà nƣớc. Đó chính là biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng của một bộ phận Đảng viên hiện
nay. Những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chính là tình trạng
suy thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự xuống cấp các giá trị văn
hóa, đạo đức trong một bộ phận Đảng viên là cán bộ của các cơ quan, đơn vị,
tổ chức Nhà nƣớc.
Trƣớc tình hình trên, việc nghiên cứu đề tài “Báo chí Cơng an nhân
dân với vấn đề đấu tranh phịng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong
tư tưởng cán bộ, Đảng viên ở nước ta hiện nay” - (Khảo sát Báo Cơng an
nhân dân, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, Tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh
năm 2014) là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng
của một bộ phận cán bộ Đảng viên ở nƣớc ta hiện nay là nhiệm vụ quan trọng
của toàn Đảng, toàn dân. Trƣớc diễn biến phức tạp, khó lƣờng của các thế lực
thù địch, việc tuyên truyền, định hƣớng tƣ tƣởng cán bộ Đảng viên và quần
chúng nhân dân tin tƣởng vào con đƣờng đã chọn của Đảng và Nhà nƣớc là
điều cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Báo chí nói chung và báo chí cơng


4
an nói riêng chính là phƣơng tiện thơng tin, tun truyền, định hƣớng tƣ
tƣởng hiệu quả nhất hiện nay.
Việc nghiên cứu vai trị định hƣớng tƣ tƣởng, tính chiến đấu phịng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng đội ngũ cán bộ, Đảng
viên ở nƣớc ta hiện nay là rất cần thiết. Hiện nay, các văn kiện, nghị quyết, tài
liệu về cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh nội bộ, trong đó nịng cốt là đấu tranh
phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng, Nhà nƣớc ta thì khá

nhiều và chi tiết. Tuy nhiên, khu biệt ở lĩnh vực báo chí đấu tranh phịng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì chƣa có những cơng trình nghiên
cứu một cách cơ bản và hệ thống, tài liệu phân tích cụ thể cả về mặt nội dung
và phƣơng thức đấu tranh trên báo chí.
Một số tài liệu, cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
 Sách, chuyên khảo, chuyên luận:
+ Hoàng Quốc Bảo (2002): Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia; Hà Nội [22, tr.125]. Với phƣơng
pháp tiếp cận và phân tích tác giả đã đƣa ra các nhóm giải pháp phù hợp, khả
thi nhằm lãnh đạo và quản lý báo chí có hiệu quả trong tình hình hiện nay.
+ Nguyễn Thế Kỷ (2011): Cơng tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25
năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia; Hà Nội [46, tr.129].
Tác giả đã đi sâu phân tích, đánh giá những kết quả trong công tác lãnh đạo,
quản lý báo chí trong 25 năm đổi mới đất nƣớc góp phần đƣa ra những giải
pháp nhằm tăng cƣờng và làm tốt hơn nữa công tác quản lý hoạt động báo chí.
+ Trần Quang Nhiếp (2002) (chủ biên): Định hướng hoạt động và quản
lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia; Hà Nội [48, tr.125]. Tác giả đã đi vào phân tích một cách có hệ
thống thực trạng hoạt động và quản lý báo chí ở nước ta trong điều kiện kinh
tế thị trường, những vấn đề đặt ra về hoạt động và quản lý báo chí ở nước ta


5
hiện nay đồng thời đưa ra những định hướng cơ bản và một số giải pháp cơ
bản trong quản lý hoạt động báo chí.
+ Lê Thanh Bình (2004): Quản lý và phát triển báo chí - Xuất bản. sau
khi phân tích những thành tựu, tồn tại và thách thức của báo chí - xuất bản
Việt Nam (từ năm 1986 đến năm 2004), Nxb Văn Hóa Thơng Tin, [29, tr.126].
Tác giả đã đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí - xuất bản.

+ Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009): Quản lý Nhà nước và
pháp luật về báo chí (sách chun khảo), Nxb Văn Hóa Thơng Tin, [30,
tr.130]. Các tác giả đã đề cập vấn đề nghiên cứu về quản lý báo chí hiện nay
+ Lê Minh Tồn (2009) (chủ biên): Quản lý Nhà nước về thơng tin và
truyền thơng (sách chun khảo) - NXB Chính Trị Quốc Gia [55, tr.126]. Tác
giả đã mô tả thực trạng báo chí hiện nay và vấn đề quản lý nhà nƣớc về báo
chí truyền thơng.
+ Nguyễn Vũ Tiến (2005): Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội [54, tr.128]. Tác giả đã
phân tích đánh giá bản chất của báo chí, những hoạt động của báo chí, qua đó
tác gi, đánh vai trị của báo chí hiện nay, từ đó định hƣớng cơng tác quản lý
báo chí trong thời kỳ đổi mới, làm thế nào để báo chí ngày một phát triển.
+ Phí Thị Thanh Tâm (2003): Quản lý Nhà nƣớc về báo chí trong thời
kỳ hội nhập, Website Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam [50, tr.128]. Tác
giả lần lƣợt phân tích, đánh giá thực trạng báo chí và đƣa ra các giải pháp về
quản lý báo chí đúng thực tế hiện nay.
+ Dƣơng Văn Thắng (2008): Nâng cao chất lƣợng thơng tin báo chí
trong tình hình hiện nay, Tạp chí Tun giáo số 8 năm 2008 [52, tr.129]. Để
có đƣợc một nền báo chí hiện đại, tiên tiến tác giả đã dẫn luận một số vấn đề
về chất lƣợng thơng tin trên báo chí hiện nay.


6
+ Đỗ Quý Doãn (2009): Một số vấn đề chủ yếu trong cơng tác chỉ đạo,
quản lý báo chí, xuất bản và những định hƣớng lớn trong thời gian tới, Tạp
chí Báo cáo viên số 6, năm 2009 [31, tr.128]. Tác giả đƣa ra một số giải pháp
về công tác lãnh đạo, Quản lý báo chí hiện nay cùng với những định hƣớng
phát triển báo chí của đảng, nhà nƣớc ta.
+ Nguyễn Văn Dững (2012): Quan điểm của Đảng và Nhà nước về
công tác tư tưởng, lý luận và quản lý báo chí (Đề cƣơng chuyên đề phục vụ

thi nâng ngạch giảng viên chính, BTVC, PVC...).
+ Nguyễn Văn Dững (2013), “Cơ sở lý luận báo chí”; NXB Lao động,
Hà Nội [41] là cơng trình nghiên cứu có giá trị về tổng quan của báo chí.
Trong đó tác giả chỉ rõ 5 chức năng cơ bản của hoạt động báo chí. Đối với
báo chí CAND trong đề tài nghiên cứu, tác giả đã kế thừa những nghiên cứu
của PGS,TS. Nguyễn Văn Dững về chức năng tƣ tƣởng của báo chí.
+ Ban Tuyên giáo Trung ƣơng, Tăng cƣờng lãnh đạo, quản lý tạo điều
kiện để báo chí nƣớc ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới,
Nxb Lý luận Chính trị; Hà Nội, 2007 [34, tr.130]. Trên cơ sở xác định rõ
những bất cập trong công tác quản lý báo chí, Ban Tuyên giáo Trung ƣơng đã
đƣa ra những giải pháp nhằm quản lý báo chí ngày một tốt hơn.
 Tài liệu tham khảo, cơng trình nghiên cứu, tài liệu
+ “Tăng cƣờng cuộc đấu tranh chống âm mƣu, hoạt động “diễn biến
hịa bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng văn hóa”, Ban Bí thƣ Trung Ƣơng
+ “Chiến lƣợc bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới”, Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng
+ Các tham luận tại hội thảo khoa học “Phòng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong tình hình hiện nay”, Bộ Công an
+ “Tăng cƣờng lãnh đạo công tác đảm bảo ANQG trong tình hình
mới”, Bộ Chính trị


7
+ “Tăng cƣờng cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới”,
Bộ Chính trị
+ “Cơng tác tƣ tƣởng, lý luận và báo chí trƣớc yêu cầu mới”, Ban chấp
hành Trung ƣơng Đảng
+ “Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc” các lần 6; 9; 11
+ “Luật báo chí nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, năm 1999
 Luận án, luận văn:

+ “Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả thơng tin báo chí trong lực lƣợng
cơng an nhân dân”, Luận văn Thạc sĩ Báo chí, 2014
+ “Bộ Công an với vấn đề quản lý báo in trong ngành”, Luận văn Thạc
sĩ Báo chí, tác giả Lê Hồng Hiệp, 2014
+ “Tăng cƣờng sự lãnh đạo và quản lý, nâng cao chất lƣợng báo chí,
xuất bản Cơng an nhân dân”, Kỷ yếu hội nghị báo chí, xuất bản cơng an nhân
dân lần thứ V, 2009
Nhƣ vậy, gần gũi với chủ đề này đã có một số cơng trình tiếp cận
nghiên cứu, nhƣng chƣa có cơng trình nào bàn đến trực tiếp vấn đề báo chí
lực lƣợng cơng an với vấn đề chống tự diễn biến, tự chuyển hóa. Và đây là
cơng trình đầu tiên tiếp cận, nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Báo chí cơng an nhân dân với vấn đề đấu tranh
phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tư tưởng cán bộ, Đảng viên
ở nước ta hiện nay” (Khảo sát báo Công an nhân dân, Tạp chí Cảnh sát
nhân dân, Tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh năm 2014), luận văn nhằm
các mục đích sau đây:


8
- Nghiên cứu thực trạng vai trị của báo chí trong cuộc đấu tranh phòng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên ở
nƣớc ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh
phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng
viên của báo chí ở nƣớc ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề báo chí tham gia đấu
tranh phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, Đảng viên

hiện nay.
- Khảo sát thực trạng các báo Công an nhân dân, Tạp chí Cảnh sát nhân
dân, Tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh năm 2014 tham gia cuộc đấu
tranh phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trị của báo chí
nói chung trong cuộc đấu tranh phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là vai trò của báo chí CAND trong
cuộc đấu tranh phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ
đảng viên. Các bài báo có nội dung phản ánh các trƣờng hợp cán bộ, Đảng
viên suy thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống… đó là biểu hiện của
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ đảng viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là trong lĩnh vực báo chí in ấn; cụ thể là báo
CAND hàng ngày (Cơ quan của Bộ CA), tạp chí Cảnh sát nhân dân (Cơ quan
của Học viện Cảnh sát nhân dân), tạp chí Khoa học và Giáo dục an ninh (cơ


9
quan của Học viện ANND). Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, tác giả chủ
yếu khảo sát các bài báo phân tích, phản ánh, bình luận, chun luận, xã
luận… đƣợc đăng tải trên các ấn phẩm báo chí cơng an nhân dân nhƣ đã giới
hạn ở trên trong năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên nền tảng tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về con đƣờng
đi lên chủ nghĩa xã hội; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong vấn đề xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, căn cứ vào các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt

Nam, hệ thống chính sách, luật pháp, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam về việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, công tác
bảo vệ an ninh nội bộ trong Đảng. Luận văn này cũng sử dụng những luận
điểm quan trọng nhất trong Nghị quyết của các kì Đại hội Đảng tồn quốc về
cuộc đấu tranh phịng, chống diễn biến hịa bình nói chung, và phịng chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phƣơng pháp phân tích nội dung các tác phẩm báo chí bằng cả
định lƣợng và định tính. Trong đó, định lƣợng là phƣơng pháp sử dụng bảng
mã phân tích để phân tích 300 tác phẩm tiêu biểu đã đăng tải trong năm 2014
ở tất cả các thể loại trên ba tờ báo đƣợc lựa chọn khảo sát [phụ lục; 1].
Ngoài ra, tác giả đã sử dụng phần mềm SPSS để xử lí kết quả bảng mã
phân tích tác phẩm. Về mặt định tính, tiến hành phân tích, khái qt hóa, mơ tả
những đặc điểm đặc trƣng trong tác phẩm mà dùng phƣơng pháp định lƣợng
không xác định đƣợc.
Luận văn cũng sử dụng phƣơng pháp phân tích, thống kê làm sáng tỏ
các khía cạnh của vấn đề về mặt lý thuyết. Ngoài ra tác giả cũng sử dụng
phƣơng pháp quan sát để thấy đƣợc thái độ của công chúng đối với các tác


10
phẩm mà họ tiếp nhận thông qua việc đọc và theo dõi các ý kiến phản hồi,
đánh giá nhận xét của lãnh đạo tòa soạn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thứ nhất, luận văn góp phần làm rõ thêm tình hình, âm mƣu, thủ đoạn của
hoạt động chống phá Đảng của các đối tƣợng vốn là cán bộ, Đảng viên nhƣng
suy thối về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối sống trong bộ máy hiện nay.
Thứ hai, luận văn đánh giá đúng thực trạng thông tin, tun truyền trên
báo chí của ngành cơng an trong việc đấu tranh phòng, chống những biểu hiện
của “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, tìm ra ngun nhân của tình trạng trên

và phân tích đánh giá ƣu điểm và hạn chế của hình thức thơng tin đấu tranh
trên báo chí của ngành. Từ đó làm rõ những vấn đề cịn tồn tại và khuyến nghị
một số giải pháp khoa học nhằm nâng cao hiệu quả thơng tin đấu tranh phịng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên báo chí cơng an nhân dân.
Thứ ba, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác đấu tranh
với đối tƣợng suy thối tƣ tƣởng chính trị mà biểu hiện là “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cơng tác bảo vệ Đảng ta hiện nay trên mặt trận báo chí –
truyền thơng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có kết cấu 3 chƣơng nội dung chính nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng báo chí cơng an nhân dân đối với vấn đề đấu
tranh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Chƣơng 3: Vấn đề và khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa


11
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.1.1.1. Báo chí và bản chất xã hội của báo chí - truyền thơng
Theo từ điển tiếng Việt (Hồng Phê, chủ biên), báo chí là “Báo và tạp
chí; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái qt)” “báo chí được hiểu như một thiết
chế, một chỉnh thể từ ý đồ của quyền lực chính trị đến đối tượng tác động và
các mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp” [49, tr.3]. Chính vì vậy, báo chí đƣợc
hiểu là những sản phẩm truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin mang
tính thời sự thông qua phƣơng pháp phản ánh hiện thực khách quan, trực tiếp

và tác động vào công chúng xã hội theo định kỳ.
Báo chí là một bộ phận của truyền thơng đại chúng, nhƣng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính chất,
khuynh hƣớng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của TTĐC. Do đó,
trong nhiều trƣờng hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền thơng đại chúng; và
ngƣợc lại, nói đến TTĐC - trƣớc hết phải nói đến báo chí. Báo chí là hiện
tƣợng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều cách tiếp cận khơng giống nhau
trong các xã hội có thể chế chính trị khác nhau.
Ở một khía cạnh khác, báo chí đƣợc hiểu là phƣơng tiện thông báo,
thông tin về những sự việc mới diễn ra hàng ngày cho nhiều ngƣời biết. Báo
chí là phƣơng tiện thơng tin thời sự, phƣơng tiện giao tiếp xã hội, là diễn đàn
cung cấp, trao đổi và chia sẻ thông tin công khai.
Trong cuốn Giáo trình nghiệp vụ báo chí, tập I, khoa Báo chí, trƣờng
Tuyên huấn TW (1978) tiếp cận khái niệm báo chí từ lý thuyết. Theo đó, báo
chí đƣợc coi là “những tư liệu sinh hoạt tinh thần nhằm thông tin và nói rõ về


12
những sự kiện thời sự đã và đang diễn ra cho một nhóm đối tượng nhất định,
nhằm mục đích nhất định, xuất bản định kỳ, đều đặn”.
Tóm lại, có vơ vàn các quan điểm khác nhau khi làm rõ khái niệm báo
chí. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm vừa kể trên mới chỉ ra đƣợc những yếu
tố bề ngoài của sản phẩm báo chí, tức là những cái hiện hữu có thể nhìn thấy
đƣợc mà chƣa phản ánh đƣợc những thuộc tính, những mối quan hệ bản chất
phức tạp bên trong của hiện tƣợng xã hội này.
Khắc phục đƣợc những hạn chế từ các quan điểm kể trên, PGS,TS.
Nguyễn Văn Dững trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí đã có cách tiếp cận khái
niệm báo chí từ quan điểm hệ thống, xuất phát từ bản chất của báo chí truyền
thơng. Tác giả cho rằng báo chí là “hoạt động thông tin - giao tiếp xã hội trên
quy mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu

nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối
quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm lợi
ích, với các nước trong khu vực và quốc tế…” [32, tr.61]
Từ cách tiếp cận quan niệm báo chí theo hệ thống nhƣ trên, tác giả của
cuốn Cơ sở lý luận báo chí đã chỉ rõ 3 khía cạnh bản chất xã hội của hoạt
động báo chí - truyền thơng, đó là:
 Báo chí - truyền thông là phƣơng tiện và phƣơng thức thông tin - giao
tiếp xã hội;
 Báo chí - truyền thơng là phƣơng tiện và phƣơng thức kết nối xã hội;
 Báo chí - truyền thơng là phƣơng tiện và phƣơng thức can thiệp xã hội.
1.1.1.2. Báo chí trong mối quan hệ với cuộc đấu tranh phòng, chống tự
diễn biến, tự chuyển hóa
 Báo chí tun truyền
Tun truyền (propaganda) là một dạng đặc biệt của truyền thơng và
có lịch sử nhiều ngàn năm nay. Khái niệm tuyên truyền thƣờng biến đổi


13
theo thời gian để phù hợp với hình thái xã hội. Một khái niệm đƣợc cho là
phổ biến nhất đó là, tuyên truyền là thực hiện một quá trình truyền thông
với những kỹ thuật, thủ thuật nhất định nhằm làm truyền bá niềm tin, ý
tƣởng của ngƣời tuyên truyền đến đối tƣợng tuyên truyền, làm cho đối
tƣợng tuyên truyền làm theo mình, đi theo mình hoặc ủng hộ cho niềm tin
và ý tƣởng của mình [27, tr 32]
Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2009,
thì “tun truyền là phổ biến, giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán
thành, ủng hộ, làm theo”. Và nhƣ vậy có thể hiểu tuyên truyền là những hành
động truyền bá thơng tin với mục đích đƣa đẩy thái độ, suy nghĩ, tâm lý và ý
kiến của quần chúng theo chiều hƣớng có lợi cho một phong trào hay tập
đồn, thƣờng lồng sau mục tiêu chính trị.

Báo chí tun truyền theo nghĩa hẹp có thể hiểu là hoạt động thông tin giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn, là hoạt động truyền bá thông tin về chủ
trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nhằm mục tiêu đƣa đẩy
thái độ, suy nghĩ, tâm lý của cơng chúng tiếp nhận. Từ đó làm chuyển biến
nhận thức, thái độ và dẫn đến làm thay đổi hành vi của công chúng, và thúc
đẩy công chúng hoạt động theo đƣờng lối, chủ trƣơng và nhằm một mục đích
nhất định.
 Báo chí đấu tranh tƣ tƣởng, tức là q trình tun truyền tƣ tƣởng chính
thống, đấu tranh chống tƣ tƣởng thù địch; đó cũng là q trình nêu cao tính
tích cực xã hội của tƣ tƣởng chính thống và đấu tranh với những biểu hiện tƣ
tƣởng tiêu cực, bảo thủ, lạc hậu trong trong nội bộ. Trong thế giới phẳng, kỷ
ngun truyền thơng số, tồn cầu hóa và hội nhập toàn cầu trong điều kiện
kinh tế thị trƣờng, cuộc đấu tranh tự chuyển biến, tự chuyển hóa có thể đƣợc
coi là phức tạp, cam go nhất hiện nay. Đó thực chất là tâm điểm của cuộc đấu
tranh chống diễn biến hịa bình.


14
1.1.2. Tự diễn biến, tự chuyển hóa
1.1.2.1. Tự diễn biến
- Khái niệm “tự”
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tự” là “từ dùng để chỉ bản thân chủ thể
nhằm biểu thị việc nói đến là do chính chủ thể làm hoặc gây ra, chỉ bằng sức
lực, khả năng riêng của mình” hoặc “tự” là “từ dùng để chỉ bản thân chủ thể
nhằm biểu thị chủ thể đồng thời cũng chính là khách thể chịu sự chi phối của
hành động, hoạt động do mình làm hoặc gây ra”
- Khái niệm “diễn biến” và “tự diễn biến”:
+ Theo Từ điển Tiếng Việt, “diễn biến” là “ diễn ra sự biến đổi. Tình
hình diễn biến. Tƣ tƣởng có nhiều diễn biến phức tạp”. “Tự diễn biến” là tự
bản thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi hoặc việc làm, hoặc tự gây ra,
chỉ bằng sức lực, khả năng của riêng tổ chức, cá nhân hoặc chịu sự chi phối

của hành động, hoạt động do mình làm hoặc gây ra dẫn đến sự tự biến đổi từ
lƣợng đến chất về tƣ tƣởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, diễn biến
tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm của mình.
Nhƣ vậy, “tự diễn biến” của tổ chức đảng, tổ chức nhà nƣớc hoặc đảng
viên là tự chính bản thân cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nƣớc, cá nhân cán
bộ, đảng viên có hành vi, việc làm hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng
của chính cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, dẫn đến sự tự biến đổi từ lƣợng
đến chất về tƣ tƣởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức,
trách nhiệm trong từng thời điểm, thời kỳ nhất định
“Tự diễn biến” là quá trình biến đổi bên trong tƣ tƣởng, từ đúng sang
sai, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ. Biểu hiện rõ nhất là
sự suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ví dụ có cán bộ cả đời
phấn đấu vì lý tƣởng cách mạng, nghiêm túc, mẫu mực, trong sáng nhƣng đến


15
khi về hƣu thì hồn tồn ngƣợc lại, phủ nhận thành tựu của cách mạng, phủ
nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chính mình…
Một quan điểm khác lại cho rằng, “tự diễn biến” là một quá trình đấu
tranh lâu dài, đan xen nhau giữa các mặt tích cực và tiêu cực trong mỗi cá
nhân, mỗi tổ chức. Nếu công tác đấu tranh bị buông lỏng, yếu tố tiêu cực sẽ
tăng dần lên, yếu tố tốt đẹp càng giảm đi, phai nhạt dần, đến khi yếu tố tiêu
cực vƣợt trội, thắng thế, chi phối hành động sẽ tạo ra “tự chuyển hóa” rất
nguy hiểm.
Dƣới góc độ an ninh, “tự diễn biến” đối với tổ chức là sự nảy sinh thay
đổi ở tầm quản lý vĩ mô về quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách,
pháp luật dẫn đến thay đổi bản chất chính trị của tổ chức cầm quyền; thậm chí
sự thay đổi ấy có thể khiến tổ chức suy yếu và dẫn đến sự tan rã. Đối với cá
nhân, đó là sự thay đổi nhận thức chính trị - xã hội, thay đổi về quan điểm, tƣ
tƣởng theo chiều hƣớng tiêu cực. “Tự diễn biến” của cá nhân dẫn đến sự thay

đổi của tập thể, tổ chức; “tự diễn biến” của tổ chức chi phối, áp đặt, điều
khiển đối với cá nhân trong tổ chức đó.
Nhƣ vậy, có rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau trong nội hàm ý
nghĩa của khái niệm này. Tuy nhiên, tựu chung lại có thể hiểu: “Tự diễn
biến” là q trình đấu tranh giữa các mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong nội tâm người cán bộ, đảng viên
trước những tác động phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Trong
đó, yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản chủ nghĩa dần dần tăng lên; yếu tốc
tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phai nhạt dần. Đây là quá
trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất định, sự biến đổi
này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể.


16
1.1.2.2. Tự chuyển hóa
Theo từ điển Tiếng Việt, chuyển hóa là “biến đổi sang dạng hoặc hình
thái khác. Sự chuyển hóa của năng lượng” [49, tr.11]
Theo từ điển Triết học
Chuyển hóa những biến đổi về lƣợng thành những biến đổi về
chất - một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng, giải
thích sự vận động và sự phát triển diễn ra nhƣ thế nào, bằng cách
nào. Quy luật phổ biến đó của sự phát triển xác nhận rằng sự tích
lũy những thay đổi khơng nhận thấy, dần dần về lƣợng trong một
giai đoạn nhất định đối với một quá trình cá biệt, nhất định phải dẫn
đến những biến đổi cơ bản, căn bản, về chất, dẫn tới bƣớc nhảy vọt
từ chất lƣợng cũ sang chất lƣợng mới (Chất và lƣợng, Độ, Nhảy
vọt). Quy luật đó diễn ra trong tất cả mọi quá trình phát triển của tự
nhiên, xã hội và tƣ duy. Nó rất cần thiết để hiểu quan niệm biện
chứng về sự phát triển và sự khác nhau giữa quan niệm đó với tất cả
mọi quan niệm siêu hình chỉ quy sự vận động, phát triển thành

những biến đổi về lƣợng ca cái đang tồn tại mà khơng có sự thủ tiêu
cái cũ và nảy sinh cái mới… Những biến đổi về chất liên quan với
nhau và quy định lẫn nhau; Không chỉ những biến đổi về lƣợng
chuyển hóa thành những biến đổi về chất, mà cịn xảy ra một quá
trình ngƣợc lai - sự biến đổi của những đặc trƣng về lƣợng do kết
quả sự biến đổi của các sự vật và hiện tƣợng.
Tự chuyển hóa là Tự bản thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi
hoặc việc làm hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của riêng tổ chức, cá
nhân hoặc chịu sự chi phối của hành động, hoạt động do mình làm hoặc gây
ra để biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác về tƣ tƣởng chính trị, phẩm chất,
đạo đức, lối sống hoặc về ý thức, trách nhiệm. Nhƣ vậy, tự chuyển hóa của tổ


17
chức đảng, tổ chức nhà nƣớc hoặc cán bộ, đảng viên là tự tổ chức đảng, tổ
chức nhà nƣớc, cá nhân cán bộ, đảng viên có hành vi hoặc việc làm hoặc tự
gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của riêng cấp ủy, tổ chức đảng, cá nhân
đảng viên để tƣ tƣởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức,
trách nhiệm biến đối sang dạng hoặc hình thái khác.
“Tự chuyển hóa” là sự thay đổi về chất của tƣ tƣởng chính trị làm cho
ngƣời cán bộ đánh mất mình, đánh mất vai trị tiên phong, gƣơng mẫu, tha
hóa rồi trở thành kẻ chiết trung, có khi trở thành kẻ phản bội, chống lại Đảng,
cách mạng. Gc-ba-chốp, ngun Tổng Bí thƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Liên Xơ có thể coi là một ví dụ điển hình về vấn đề này.
Cũng giống nhƣ tính phức tạp của khái niệm “tự diễn biến”; “tự chuyển
hóa” cũng có nhiều quan điểm đƣợc luận giải, cắt nghĩa khác nhau. Tuy
nhiên, “tự chuyển hóa” trƣớc tiên cần đƣợc khẳng định nó là sự tiếp nối của
q trình “tự diễn biến”. Khi sự biến đổi về chất đã làm thay đổi quan điểm,
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên sẽ dẫn đến hành
động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là sự suy thoái từ bên
trong; là quá trình tự biến đổi về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên theo chiều hƣớng tiêu cực, làm mất dần các chuẩn mực của
ngƣời Cộng sản, dẫn đến xa rời những nguyên tắc, quan điểm Mác - xít; suy
giảm nghiêm trọng niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tƣơng tƣởng Hồ Chí
Minh, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Đến khi những yếu tố cách mạng, tích cực bị phai nhạt, triệt tiêu, tƣ tƣởng phi
xã hội chủ nghĩa tăng dần, thắng thế, lúc đó sẽ dẫn đến sự “tự chuyển hóa”
cán bộ, đảng viên từ ngƣời tốt trở thành phần tử chống đối Đảng và Nhà
nƣớc. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cá nhân nếu khơng đƣợc ngăn


18
chặn kịp thời, triệt để sẽ dẫn đến tổ chức bị suy thoái, tự tan rã. Khi “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở tầm vĩ mơ sẽ dẫn đến sự chuyển hóa chế độ
xã hội chủ nghĩa sang phát triển theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa.
Từ “tự diễn biến” đến “tự chuyển hóa” là một q trình phát triển tiêu
cực, đi từ tốt sang xấu. Cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
là cuộc đấu tranh không tiếng súng nhƣng cực kỳ căng thẳng, gay gắt, âm
thầm, bởi nó vơ hình và diễn ra bên trong tƣ tƣởng của con ngƣời. “Tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” ở nƣớc ta đang diễn ra hết sức phức tạp trên hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội nhƣ: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội…
với nhiều các mức độ khác nhau.
1.1.2.3. Biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tƣ tƣởng cán bộ, Đảng viên
chính là một hình thức suy thối về tƣ tƣởng chính trị. Có thể chỉ ra một cách
chung nhất về mức độ từ thấp đến cao của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” hiện nay trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là:
Thứ nhất, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tin tƣởng, phai nhạt

niềm tin, không tin vào chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, sự
lãnh đạo, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
Thứ hai, là sự thờ ơ về chính trị, bàng quang, vô cảm trƣớc vận mệnh
của Đảng và dân tộc, xa rời dần những nguyên tắc và mục tiêu của CNXH, du
nhập những tƣ tƣởng lý luận phi Mác-xít. Những cán bộ, Đảng viên này chỉ lo
vun vén lợi ích cá nhân, né tránh trách nhiệm, không cho dám đấu tranh với
những quan điểm, hành động sai trái. Trƣớc những khó khăn của đất nƣớc
thƣờng dao động, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của
Chính phủ, ln tỏ thái độ chê bai ngƣời khác, khơng thấy trách nhiệm của
mình, mình là “vơ can” trƣớc những yếu kém của cơ quan, tổ chức nơi mình
cơng tác. Khi bị đối tƣợng xấu tác động thƣờng dễ bị lôi kéo vào các hoạt
động chống lại Đảng, chế độ.


19
Thứ ba, một số cán bộ, Đảng viên biến chất về chính trị, phủ nhận chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; thiếu niềm tin, hồi nghi, thậm
chí phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng; xa rời các nguyên lý xây dựng Đảng,
đòi Đảng từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ để hƣớng theo tƣ tƣởng đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử thiếu khách quan; đòi xét
lại con đƣờng đi lên XHCN và thay bằng con đƣờng phát triển TBCN; xun
tạc, bơi nhọ hình ảnh lãnh tụ và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc; thậm
chí cơng khai phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh, đƣờng lối, chính sách chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc… Thực tế các
nƣớc XHCN ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) cho thấy, “tự diễn biến” trƣớc hết và
chủ yếu về tƣ tƣởng chính trị. Khi tƣ tƣởng chính trị lệch hƣớng, tất yếu làm
cho bộ máy của Đảng và Nhà nƣớc sẽ bị chia rẽ, suy thối, nguy cơ “tự
chuyển hóa”, sụp đổi của thể chế chính trị là điều khó tránh khỏi. Đây là lý do
lý giải vì sao những năm qua, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tƣ tƣởng chính trị, trƣớc hết nhằm vào các

cơ quan lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nơi hoạch
định đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của đất nƣớc. Tùy theo đối
tƣợng và phạm vi tác động, các thế lực thù địch sử dụng những phƣơng thức,
thủ đoạn, nội dung thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khác nhau. Ở
nƣớc ta hiện nay, hành vi cán bộ, đảng viên có các hoạt động móc nối với các
thế lực thù địch, phản động để chống lại Đảng, dân tộc và chế độ XHCN cũng
là một trong những biểu hiện rõ rệt của tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong đội ngũ cán bộ, Đảng viên ở nƣớc ta hiện nay. Điều này đã và
đang trở thành những thách thức vô cùng to lớn đối với Đảng, Nhà nƣớc và
nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, một số cán bộ, Đảng viên chủ trƣơng đi lệch hƣớng phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc. Biểu hiện ở sự phủ nhận nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN; hạ thấp vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc, đòi tƣ nhân


×