0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA
THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI – 2014
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN
NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA
THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước
Mã số: 60 31 02 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trần Xuân Học
HÀ NỘI – 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đình Nghĩa
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN... 10
1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND cấp huyện...................................................................................... 10
1.2. Phạm vi và quy trình thực hiện thủ tục hành trính theo cơ chế một tại
UBND cấp huyện...................................................................................... 24
1.3. Nguyên tắc và điều kiện thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
tại UBND cấp huyện................................................................................. 27
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY............................... 38
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy hành chính của
UBND huyện Chương Mỹ. ....................................................................... 38
2.2. Tình hình triển khai và kết quả thực hiện thủ tục hành chính theo cơ
chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ. .............................................. 43
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY
BAN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, TP HÀ NỘI........................ 71
3.1. Phương hướng thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND huyện Chương Mỹ ........................................................................ 71
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội trong thời gian tới............. 77
KẾT LUẬN................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 93
PHỤ LỤC.................................................................................................... 99
4
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt
Chữ đầy đủ
CP
Chính phủ
CT
Chỉ thị
GCN
Giấy chứng nhận
HTX
Hợp tác xã
NĐ
Nghị định
NQ
Nghị quyết
QĐ
Quyết định
QSD
Quyền sử dụng
TBXH
Thương binh - Xã hội
TTHC
Thủ tục hành chính
UBND
Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Thủ tục hành chính có vai trị quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước, là cơ sở để thực hiện các hoạt động hành chính nhà nước, giải quyết các
mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, tổ chức trong xã hội, đảm bảo cho
việc quản lý nhà nước được thống nhất và đạt hiệu quả. Chính vì vậy, cải cách
thủ tục hành chính là một nội dung được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm
với mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước đáp ứng các yêu cầu của tiến trình đổi mới, trước hết là
đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong bối cảnh tồn cầu hóa và tăng cường hội nhập quốc tế ở nước ta hiện
nay. Trong những năm qua, cùng với những nỗ lực cải cách hành chính ở mọi
cấp, mọi ngành, nền hành chính nước ta đã từng bước tiến bộ, ngày càng đáp
ứng tốt hơn các địi hỏi của tình hình mới. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước vẫn bộc lộ khơng ít những nhược điểm, hạn
chế. Đánh giá thực trạng này, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010 đã xác định: nền hành chính nhà nước cịn mang
nặng dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, chưa đáp ứng
được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân
dân trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.[2]
Để triển khai thực hiện chủ trương cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành
chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đã có rất nhiều các quy định ở nhiều
cấp khác nhau được ban hành như: Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của
Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công
việc của công dân và tổ chức; Thông tư số 96-BT ngày 31/5/1994 của Văn
phịng Chính phủ về hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994
2
của Chính phủ; Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/02/2008 của Chính
phủ về tiếp nhận phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành
chính; Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 18/6/2010 của Chính phủ về Kiểm
sốt thủ tục hành chính; Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 07/01/2007 cuả
Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính
trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (sau đây gọi là Đề án
30) và các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện.
Những thành công đạt được trong những năm qua trong lĩnh vực cải
cách thủ tục hành chính rất lớn, tạo được thuận lợi cho người dân và doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục, giảm chi phí, phiền hà. Tuy
nhiên, hệ thống thủ tục hành chính hiện nay và cơ chế thực hiện chúng vẫn
còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Hệ thống thủ tục hành chính do nhiều
cơ quan nhà nước các cấp ban hành rườm rà, khơng rõ ràng, thiếu tính thống
nhất, khơng cơng khai, minh bạch và tuỳ tiện thay đổi dẫn tới hoạt động giải
quyết thủ tục còn phiền hà, cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, kém hiệu quả,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối cơ quan hành chính nhà nước; gây trở
ngại cho việc giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội giữa nước ta với
các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới. Chính vì vậy, cải
cách thủ tục hành chính vẫn được xác định là một trong những trọng tâm của
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020
được Chính phủ ban hành theo Nghị quyết 30c/NQ-CP.[12]
Cải cách thủ tục hành chính khơng chỉ là việc đơn giản hóa các thủ tục
mà còn thể hiện rõ nét nhất trong cơ chế thực hiện thủ tục. Để khắc phục tình
trạng người dân phải đi lại nhiều nơi để xác nhận khi giải quyết công việc với
cơ quan nhà nước và do đó bị gây phiền nhiễu, cơ chế một cửa để giải quyết
thủ tục hành chính đã ra đời và ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong việc giải
quyết các thủ tục hành chính hiện nay. Đáp ứng yêu cầu của công dân và tổ
3
chức để giải quyết thủ tục hành chính theo mơ hình một cửa, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 và sau
đó là Quyết định 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 về việc ban hành Quy chế
thực hiện cơ chế “Một cửa” (được mở rộng thành “một cửa liên thơng” theo
Quyết định 93/2007/QĐ-TTg) tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Đây được coi như là một giải pháp mang tính đột phá trong việc cải cách thủ
tục hành chính.
Thực hiện các Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg và Quyết định số
93/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo về tổ chức
một cửa ở địa phương của UBND thành phố Hà Nội, UBND huyện Chương
Mỹ đã xây dựng Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành
chính (gọi là Bộ phận Một cửa) và áp dụng cơ chế “Một cửa” vào việc giải
quyết thủ tục hành chính, trước hết là các thủ tục liên quan tới công dân và tổ
chức theo quy định. Cùng với việc áp dụng cơ chế này, tình hình giải quyết
thủ tục hành chính tại UBND huyện đã từng bước được cải thiện một cách
đáng kể; cơ sở vật chất của chính quyền cấp huyện đã được đầu tư một bước;
chính sách đãi ngộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp huyện đã
được phát huy,... Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn những bất cập cần được
quan tâm giải quyết để nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận một cửa,
thúc đẩy tiến trình cải cách thủ tục hành chính nói riêng và cải cách hành
chính nói chung tại huyện Chương Mỹ. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và
mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của UBND
huyện nơi tác giả đang công tác, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện thủ
tục hành chính theo cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây
dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cơ chế một cửa và một cửa liên thông không phải là một vấn đề
nghiên cứu mới. Trong lĩnh vực cải cách hành chính đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu ở các quy mô và cấp độ khác nhau, trên các địa bàn
khác nhau được các nhà nghiên cứu quan tâm triển khai. Có thể chỉ ra
một số cơng trình nghiên cứu chủ yếu có liên quan tới lĩnh vực nghiên
cứu về cải cách thủ tục hành chính nói chung và cơ chế một cửa, một
cửa liên thơng nói riêng sau đây:
- Sách “Đẩy mạnh cải cách hành chính xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 2006;
- Sách “Cải cách hành chính và cơng cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền” do Đoàn Trọng Tuyển chủ biên, nhà xuất bản Tư pháp, Hà
Nội, 2006;
- Lê Anh Sắc/Bùi Đức Thắng (2006): Bồi dưỡng kỹ năng tiếp
nhận hồ sơ hành chính thuộc thẩm quyền UBND quận, huyện, xã,
phường, thị trấn. Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, 2006;
- Nguyễn Văn Thâm/Võ Kim Sơn (2002): Thủ tục hành chính - Lý luận
và thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002;
- Nguyễn Văn Thâm (Chủ biên 2005): Thủ tục hành chính. Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội, 2005;
- Nguyễn Văn Thâm (2011) "Thủ tục hành chính "một cửa" - cái được
và cái chưa được", in trong Một số vấn đề về văn bản quản lý nhà nước, lưu
trữ - lịch sử và quản lý hành chính, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà
Nội, 2011. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề cập tới nguyên nhân hình
thành cơ chế một cửa, những thuận lợi mà cơ chế một cửa mang lại trong cải
cách hành chính hướng tới một nền hành chính minh bạch, phục vụ tốt các
5
nhu cầu của công dân và tổ chức trong xã hội; đồng thời cũng chỉ ra những
khiếm khuyết cần khắc phục trong quá trình tổ chức hoạt động của bộ phận
một cửa.
- Học viện Hành chính (2004): Giáo trình thủ tục hành chính. Nhà xuất
bản Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004;
- Lê Chi Mai (2003): Cung cấp dịch vụ cơng ở Việt Nam. NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Linh, Học viện Chính trị
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007: “Thực hiện pháp luật về
giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa ở UBND tỉnh Bắc
Giang hiện nay”...
- Các Luận văn thạc sĩ tại Học viện Hành chính Quốc gia và Học
viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh như: Luận văn của
Nguyễn Xuân Cương (năm 2005) “Cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế một cửa trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Lâm Đồng”; hay
Luận văn của Nguyễn Văn Nam (năm 2006) “Xây dựng mơ hình một
cửa, một cửa liên thơng và một số giải pháp để tiếp tục cải cách hành
chính về đầu tư theo mơ hình một cửa của tỉnh Bình Phước”; Luận văn
của Nguyễn Văn Linh (năm 2007) “Thực hiện pháp luật về giải quyết
thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa ở UBND tỉnh Bắc Giang hiện
nay”,... cũng đã góp phần tổng kết lý luận về thủ tục hành chính và
từng bước giải quyết các vấn đề còn tồn tại của cơ chế một cửa ở một
số địa phương.
- Tại Học viện báo chí và Tuyên truyền cũng đã có một số nghiên
cứu đề cập tới cơ chế này như Luận văn chuyên ngành Xây dựng Đảng
và Chính quyền nhà nước của Nguyễn Thị Tú (2012) “Nâng cao chất
lượng hoạt động của cơ chế một cửa ở cấp xã qua thực tiễn phường Tân Dân,
6
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ” hay Luận văn của Mai Văn Đức (2013)
“Cải cách thủ tục hành chính tại Văn phịng UBND tỉnh Hưng n hiện
nay”,... trong đó đã phân tích và chỉ ra những ưu và nhược điểm của cải cách
thủ tục hành chính hiện nay và vai trò của cơ chế một cửa trong giải quyết thủ
tục hành chính.
Các nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng
giúp tác giả hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn để tiến hành nghiên
cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về thực hiện thủ tục hành chính tại
UBND huyện Chương Mỹ. Do đó, đề tài “Thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện
nay” không bị trùng lắp với các đề tài nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận thực hiện thủ tục hành chính theo
cơ chế một cửa tại UBND cấp huyện và đánh giá thực trạng việc thực
hiện cơ chế này tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, luận
văn đề xuất các giải pháp đảm bảo tiếp tục thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục
hành chính theo cơ chế một cửa nói chung và cơ chế một cửa tại UBND
cấp huyện nói riêng;
7
- Phân tích, đánh giá các thành tựu và những hạn chế cũng như nguyên
nhân của việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian vừa qua;
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm tiếp tục thực
hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiêm cứu của luận văn.
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là “Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ
chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay”
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Luận văn nghiên cứu thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa tại UBND huyện Chương Mỹ trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay.
Do số lượng các thủ tục được thực hiện tại UBND huyện rất rộng
nên Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu thực hiện thủ tục hành
chính một số lĩnh vực: Kế hoạch - Đầu tư; Tài nguyên và Môi trường
và Lao động - Thương binh và Xã hội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật nói
chung, về cải cách thủ tục hành chính, nhất là vấn đề thực hiện thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa nói riêng.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng phương pháp
8
thống kê, phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, điều tra xã hội học tổng
kết đánh giá thực tiễn...
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Luận văn làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện thủ
tục hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND cấp huyện.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
hiện nay, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm tiếp tục thực hiện cơ
chế một cửa tại UBND cấp huyện, đáp ứng được u cầu cơng cuộc cải
cách hành chính.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
7.1. Về mặt lý luận.
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về thực hiện thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
trong giai đoạn sau khi Hà Tây được hợp nhất vào Hà Nội. Kết quả nghiên
cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn và phong phú thêm những vấn đề lý
luận về cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói
riêng cũng như thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa của UBND
cấp huyện.
7.2. Về mặt thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phục vụ trực tiếp cho việc
nâng cao chất lượng thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND cấp huyện qua thực tế huyện Chương Mỹ, nhất là chỉ ra được những
hạn chế và giải quyết những vướng mắc còn nảy sinh, nhằm bảo đảm thực
hiện tốt hơn cơ chế một cửa tại UBND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tư liệu để tham khảo và
vận dụng trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản
9
lý nhà nước tại địa bàn huyện Chương Mỹ nói riêng và trên phạm vi cấp quận,
huyện trên toàn thành phố Hà Nội nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn.
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, đề tài được kết
cấu gồm 3 Chương, 7 tiết:
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO
CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa tại UBND cấp huyện.
1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa.
1.1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính
Theo cách hiểu thơng thường, thủ tục là cách thức tiến hành một cơng
việc nào đó với những nội dung, trình tự nhất định, theo các quy định thống nhất.
Thủ tục cũng được hiểu là trình tự và phương pháp làm việc. Khi hiểu như vậy,
thủ tục là trình tự thực hiện hành động cần thiết để hồn thành một cơng việc nào
đó hoặc để giải quyết một nhiệm vụ nhất định. Hoạt động của nhà nước là để thực
hiện mục tiêu của nhà nước nhằm duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát
triển nên mọi hoạt động quản lý nhà nước đều cần được tiến hành theo những thủ
tục nhất định. Tương ứng với ba lĩnh vực hoạt động chủ yếu của quản lý nhà nước
là: lập pháp, hành pháp và tư pháp có ba nhóm thủ tục nhà nước là thủ tục lập
pháp, thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. [18, tr.6]
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền
hành pháp do các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, cơng chức có thẩm
quyền tiến hành theo các quy định của pháp luật để duy trì sự ổn định, trật tự
của xã hội và bảo đảm cho sự phát triển của xã hội, do đó cần được tiến hành
theo những thủ tục nhất định. Những thủ tục để hiện thực hóa pháp luật theo
quy định của nhà nước như vậy được gọi là thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính, hiểu theo nghĩa chung nhất, là trình tự, cách thức
thực hiện và hồ sơ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để
11
giải quyết từng công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Trong hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước, thủ tục trước hết được hiểu là
những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định chung phải tuân theo khi làm
công việc. Những thủ tục như vậy không đơn thuần chỉ là giấy tờ hành chính
mà đó là những quy tắc hoạt động của cơ quan nhà nước được quy định một
cách chặt chẽ. Những hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mang
tính tổ chức và có nhiều trường hợp phải cưỡng chế thi hành theo quy định
của pháp luật dựa trên quyền lực nhà nước. Mục tiêu cuối cùng là nhằm đảm
bảo cho luật pháp được thi hành nghiêm minh, có hiệu quả. Muốn như thế,
hoạt động của các cơ quan cần phải có thủ tục hợp lý.
Có tác giả định nghĩa thủ tục hành chính (Procédure) là “phương thức
hay cách thức giải quyết cơng việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ
thống nhất” [34, tr.18]. Theo Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 6
năm 2010 của Chính phủ về kiểm sốt thủ tục hành chính đã đưa ra khái
niệm: "Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu,
điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết
một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”. [9] Với cách hiểu này,
nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, cơng chức có
thẩm quyền) được phép quy định về các loại công việc cần giải quyết bằng
thủ tục hành chính và các cá nhân, tổ chức khi có nhu cầu đối với các loại
công việc này cần tới cơ quan nhà nước để thực hiện các thủ tục theo yêu cầu
của nhà nước.
Có thể thấy rằng, thủ tục hành chính là một bộ phận cấu thành thể chế
của nền hành chính bao gồm các quy định xác lập cách thức tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước và các cán bộ, cơng chức hành chính
nhà nước. Nó cho biết các quy phạm nội dung của luật pháp được thực hiện
bằng cách nào. Bộ phận này của luật pháp hành chính cịn có tên gọi là quy
12
phạm hình thức. Thiếu bộ phận này, luật pháp sẽ khơng thể đi vào đời sống.
Chính vì vậy, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, sau các quy định về
nội dung là các quy định có tính thủ tục để thực hiện nội dung đó.
Như vậy, thủ tục hành chính là cách thức để các cơ quan nhà nước tổ
chức cơng việc của mình theo chức năng, nhiệm vụ được giao, là thủ tục để
vận hành bộ máy nhà nước. Mặt khác, thông qua các nguyên tắc pháp lý và
các thủ tục điều hành, người ta có thể thấy được nghĩa vụ của các cơ quan nhà
nước trong quá trình giải quyết cơng việc thuộc chức năng và thẩm quyền của
mình. Nó nhằm đảm bảo cho cơng việc đạt được mục đích đã định, phù hợp
với thẩm quyền, chức năng do pháp luật quy định cho các cơ quan trong hoạt
động quản lý nhà nước. Bởi vậy, khi nói về thủ tục hành chính, người ta cũng
nhấn mạnh rằng đó chính là các quan hệ về hành chính trong việc thực hiện
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước (hoặc của cá nhân, tổ chức được ủy
quyền) để thực thi công vụ, trong xử lý các phản ánh, kiến nghị của tổ chức,
công dân theo quy định. Theo quan niệm này, thủ tục hành chính phản ánh
mối quan hệ trong quá trình làm việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau và
với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, giữa nhà nước và cộng đồng
khi nhà nước giải quyết công việc liên quan đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ
của hai bên.
Từ phân tích trên, có thể khái niệm thủ tục hành chính như sau: Thủ tục
hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan hành chính
nhà nước hoặc tổ chức cá nhân được ủy quyền theo các quy định của luật
pháp để giải quyết các công việc của nhà nước và các yêu cầu hợp pháp của
công dân, của tổ chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính, bảo đảm cơng vụ
nhà nước và phục vụ nhân dân.
13
Mặc dù có nhiều thủ tục hành chính khác nhau nhưng do tính thống
nhất của quản lý hành chính nhà nước nên các thủ tục hành chính có đặc
điểm chung sâu đây:[18, tr.24-26]
Thứ nhất, thủ tục hành chính được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật
hành chính. Quy phạm pháp luật hành chính bao gồm các quy phạm về nội dung
và quy phạm về thủ tục, trong đó các quy phạm về nội dung trực tiếp quy định
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các đối tượng quản lý nhà nước còn các quy
phạm thủ tục quy định cách thức thực hiện các quy phạm nội dung.
Quy phạm thủ tục góp phần quan trọng để hiện thực hóa các quy phạm
nội dung, xác định chính xác cách thức mà quy phạm nội dung cần đi vào đời
sống xã hội. Chính vì vậy, khơng có các quy phạm thủ tục thì các quy phạm
nội dung sẽ chỉ có ý nghĩa hình thức mà khơng thể đi vào đời sống.
Thứ hai, về chủ thể thực hiện thủ tục hành chính: thủ tục hành chính
được ban hành bởi một cơ quan nhưng có thể được thực hiện bởi nhiều cơ
quan và cán bộ, công chức ở các cấp khác nhau. Tuy nhiên, mỗi loại thủ tục
đều có tính đặc thù riêng và thực hiện chúng lệ thuộc một phần khá lớn vào
nhận thức của các đối tượng có liên quan.
Thứ ba, thủ tục hành chính có tính đa dạng và phức tạp vì có thể liên
quan tới tất cả mọi đối tượng quản lý của nhà nước, trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội. Do đó, các thủ tục khác nhau địi hỏi các nội dung và trình tự tiến
hành khác nhau. Có thủ tục địi hỏi sự cẩn thận, tỷ mỉ, trong khi có những thủ
tục chỉ yêu cầu rất ít giấy tờ và thời gian. Một thủ tục bao gồm nhiều bước với
nhiều loại giấy tờ khác nhau chưa chắc đã là một thủ tục rườm rà, phức tạp
nếu như các giấy tờ và các bước thực hiện đó là cần thiết. Ngược lại, một thủ
tục với ít bước và giấy tờ đơn giản chưa chắc đã là một thủ tục tốt nếu như nó
khơng cần thiết để phục vụ cho nhu cầu quản lý nhà nước.
14
Thứ tư, so với các quy phạm nội dung của luật hành chính, thủ tục hành
chính có tính năng động hơn và đòi hỏi phải thay đổi nhanh hơn một khi thực
tế cuộc sống đã có những yêu cầu mới. Một nội dung quản lý nhất định trong
những bối cảnh khác nhau có thể phải được thực hiện thơng qua những thủ
tục và quy trình khác nhau. Chính vì vậy, khi bối cảnh thay đổi, cần nhanh
chóng chỉnh sửa các thủ tục để áp dụng các quy phạm nội dung tốt hơn.
Thủ tục hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra thơng
qua việc ban hành các quy định về thủ tục hành chính tại các văn bản do cơ
quan có thẩm quyền ban hành để giải quyết công việc. Trên một chừng mực
rất đáng kể, nó lệ thuộc vào nhận thức và ý chí chủ quan của chính những
"người" đã xây dựng nên nó. Nếu nhận thức và ý chí đó phù hợp với thực tế
khách quan địi hỏi thì thủ tục hành chính sẽ mang tính tiến bộ, thiết thực
phục vụ cho cuộc sống. Nhưng ngược lại, nếu nhận thức và ý chí đó khơng
phù hợp với địi hỏi khách quan thì sẽ xuất hiện những thủ tục hành chính lạc
hậu, gây khó khăn cản trở cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội khi chúng
được được áp dụng vào quá trình điều hành của bộ máy nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
- Khái niệm thực hiện thủ tục hành chính:
Tìm hiểu thực hiện thủ tục hành chính trước hết phải tìm hiểu khái niệm
thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước. Tất cả các nhà nước để có thể tổ chức, quản lý
và điều hành xã hội đều phải tiến hành xây dựng và ban hành pháp luật và
bằng các biện pháp để nó được thực thi trong đời sống xã hội. Do vây, đối với
nhà nước vấn đề quan trọng là khơng chỉ có ban hành pháp luật mà điều quan
trọng hơn là phải tổ chức để chúng được thực hiện trong thực tế, làm cho các
yêu cầu quy định của pháp luật được thực hiện.
15
Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của chủ thể pháp luật. Tất cả
các hoạt động nào của cá nhân, tổ chức mà được thực hiện phù hợp với quy
định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện các quy
định của pháp luật.
Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành dưới nhiều
hình thức khác nhau. Pháp luật bao gồm rất nhiều loại quy phạm pháp luật, do
vậy, đối với mỗi loại thì cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Một số
quy phạm pháp luật có thể được tiến hành thơng qua những quy trình đơn
giản như chủ thể pháp luật nhận thức. Song cũng có nhiều quy phạm pháp
luật để thực hiện phải thông qua những quy trình hết sức phức tạp với sự tham
gia của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ.
Do vây, thực hiện pháp luật là hành vi có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý
cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện thủ tục hành chính là một dạng của thực hiện pháp luật, là
thực hiện những nội dung của quy phạm pháp luật hành chính, hay nói cách
khác, là thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước theo một hình thức
nhất định do pháp luật hành chính quy định để giải quyết các công việc của
nhà nước, các kiến nghị, yêu cầu hợp pháp của công dân hoặc tổ chức, nhằm
đảm bảo công vụ nhà nước và phục vụ nhân dân. Nội dung của quy phạm
pháp luật hành chính bao gồm nhiều lĩnh vực rất phong phú. Trong thực hiện
quyền hành pháp của cơ quan quản lý nhà nước có bao nhiêu thẩm quyền, bao
nhiêu lĩnh vực thì có bấy nhiêu các trình tự, thủ tục quy định để giải quyết
tương ứng với các lĩnh vực đó. Do mỗi lĩnh vực chuyên ngành đều có tính
chất đặc thù, có sự quan hệ khác nhau, nhưng chúng vẫn phải dựa trên
nguyên tắc chung nhất, đó là dựa trên nội dung của các văn bản quy phạm
pháp luật. Nhà quản lý phải xây dựng được hệ thống các trình tự thủ tục đảm
16
bảo được các nội dung pháp luật quy định, hướng các trình tự, thủ tục quy
định đó vào việc quản lý hành chính có lợi cho phát triển chung của xã hội.
Do vậy, ta có thể hiểu rằng: Thực hiện thủ tục hành chính là hành vi có
mục đích làm cho các quy phạm pháp luật hành chính trở thành hiện thực
trong cuộc sống, nhằm đảm bảo trật tự, trình tự, thủ tục hành chính giải quyết
cơng việc trong lĩnh vực hành pháp để thực hiện các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà nước, tổ chức và công dân.
- Khái niệm cơ chế một cửa:
Thuật ngữ "Cơ chế" thường được sử dụng cùng với các thuật ngữ khác
để tạo nên những khái niệm chuyên môn trong các lĩnh vực khoa học khác
nhau. Chẳng hạn, kinh tế học có "cơ chế kinh tế"; "cơ chế quản lý kinh tế",
tâm lý học có "cơ chế kích thích - phản ứng", trong lĩnh vực cơ khí có ", chính
trị học có "cơ chế thực hiện quyền lực"... và trong khoa học pháp lý chúng ta
có "cơ chế điều chỉnh pháp luật", "cơ chế áp dụng pháp luật"... Tuy nhiên, nội
dung của thuật ngữ "cơ chế" được giải thích rất khác nhau.
Trong tiếng Anh, thuật ngữ này cũng được giải thích với hai nghĩa khác
nhau: "Cơ chế (mechanism) là hệ thống các bộ phận hoạt động cùng nhau trong
một cỗ máy" và "Cơ chế là một quá trình tự nhiên hoặc được thiết lập nhờ đó
một hoạt động nào đó được tiến hành hoặc được thực hiện". Trong tiếng Việt, cơ
chế có thể hiểu “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố
kết thành một hệ thống mà nhờ đó hệ thống có thể hoạt động” [33, tr.9].
Như vậy, cơ chế ln được giải thích gắn liền với hoạt động của một hệ
thống các bộ phận tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình hoạt động của chúng.
Về phương diện khoa học có thể nhận thấy hai yếu tố cơ bản tạo thành cơ
chế: yếu tố tổ chức (cơ cấu) và yếu tố hoạt động (vận hành). Yếu tố tổ chức đề cập
đến các thành viên (bộ phận) tham gia, cách thức hình thành tổ chức và cách thức
17
tổ chức hệ thống. Yếu tố hoạt động thể hiện sự phân công và hợp tác tham gia
giữa các thành viên trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của tổ chức.
Thuật ngữ “Một cửa” được sử dụng để phân biệt với “nhiều cửa”. Nhiều
cửa khi công dân, tổ chức/doanh nghiệp có u cầu giải quyết được một cơng
việc có liên quan đến hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phải tự
mình đi đến từng cơ quan “cửa” và gặp rất nhiều phiền hà trong quá trình làm
việc. Do vậy, để làm tốt cơng tác thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế
một cửa trước tiên cần hiểu rõ khái niệm về về cơ chế một cửa:
Cơ chế một cửa là phương thức giải quyết thủ tục hành chính thuộc
thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến
trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”
tại cơ quan hành chính nhà nước. [2].
Việc thực hiện cơ chế một cửa nhằm đạt được bước chuyển căn bản
trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà
nước với tổ chức, cơng dân, giảm phiền hà cho tổ chức, công dân, chống tệ
quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước.
Trước đây, tổ chức, công dân phải đi lại nhiều lần, đến một hoặc nhiều cơ
quan để liên hệ giải quyết công việc của mình. Nay với cơ chế một cửa, tổ chức,
cơng dân chỉ phải đến liên hệ tại một nơi, việc phối hợp giải quyết công việc của
tổ chức, công dân thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước.
Cơ chế một cửa về thực hiện thủ tục hành chính trong việc giải quyết
công việc của công dân, tổ chức được đề ra đầu tiên trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp của nước ngoài tại Quyết định số 366/HĐBT ngày 7/11/1991 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành chế độ thẩm định các dự án có
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Cơ chế một cửa và một cửa tại chỗ đã trở
18
thành nguyên tắc trong hoạt động của các Ban quản lý các khu cơng nghiệp,
khu chế xuất từ đó đến nay.
Thực hiện Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách
một bước thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức,
từ năm 1995 nhiều địa phương đã chủ động thí điểm thực hiện áp dụng cơ chế
giải quyết công việc theo mơ hình “một cửa” hoặc “một cửa, một dấu”.
Đi đầu trong lĩnh vực này là thành phố Hồ Chí Minh. Uỷ ban nhân dân
thành phố đã xây dựng đề án kèm theo Công văn số 2853/UB-NCVX ngày 27
tháng 9 năm 1995 về việc xin thí điểm việc tổ chức hoạt động của UBND cấp
quận, huyện tại một khu hành chính theo mơ hình “một cửa, một dấu” đối với
UBND quận 1, quận 5 và huyện Củ Chi. Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ
đồng ý cho thực hiện (Theo Thông báo số 6194/CCHC ngày 30 tháng 10 năm
1995 của Văn phịng Chính phủ). Ngày 18 tháng 10 năm 1996 Thành uỷ
thành phố Hồ Chí Minh đã có Chỉ thị số 04/CT-TU về việc thực hiện cải cách
hành chính theo mơ hình “một cửa, một dấu”. Ngày 13 tháng 02 năm 1997,
Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã có báo cáo số 490/UB-NC gửi
Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo phương án mở rộng thực hiện cải cách
hành chính theo cơ chế “một cửa, một dấu” đối với cấp quận, huyện thuộc
thành phố kèm theo tờ trình số 4102/UB-NC ngày 22 tháng 11 năm 1996 của
Uỷ ban nhân dân thành phố và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý mở rộng
diện thí điểm cải cách hành chính theo mơ hình “một cửa, một dấu” ở các quận,
huyện cịn lại và thí điểm cơ chế “một cửa” ở Văn phòng UBND thành phố và
một số sở, ban ngành thuộc UBND thành phố. Tiếp theo thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1996 và 1997 có thêm 4 tỉnh thành phố là; Hà Nội, Hải Phịng, Bình
Dương và Hồ Bình thực hiện thí điểm cơ chế “một cửa”. Tính đến tháng 5/2003
đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí điểm thực hiện cơ chế một
cửa tại 196 đơn vị cấp sở, 160 đơn vị cấp huyện. Tại các địa phương này, việc
19
thực hiện cơ chế “một cửa” đã tạo nên sự hài lòng của đại bộ phận người dân và
doanh nghiệp khi đến giao dịch với cơ quan nhà nước.
Được sự nhất trí của Thủ tướng Chính phủ, tháng 6/2003, Ban Chỉ đạo
cải cách hành chính của Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính tổ
chức hội nghị tổng kết thí điểm mơ hình một cửa và sơ kết tình hình thí điểm
thực hiện Nghị định số 10 của Chính phủ, Quyết định số 192 của Thủ tướng
Chính phủ. Qua tổng kết việc thí điểm mơ hình một cửa đã rút ra kết quả quan
trọng trên một số mặt chủ yếu sau đây:
- Đổi mới cách thức, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính tạo
chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính với cơng dân
và tổ chức, giảm phiền hà và chi phí cho cơng dân, tổ chức, được nhân dân
đồng tình ủng hộ.
- Điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi mới, cải tiến chế độ
làm việc và quan hệ công tác trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ hành chính cũng như tinh thần, thái độ
phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, cơng chức.
- Hiện đại hố một bước cơng sở hành chính. Dựa trên những kết luận trên
đây của Hội nghị tổng kết, Bộ Nội vụ đã xây dựng Quy chế thực hiện cơ chế một
cửa tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trình Thủ tướng Chính phủ và
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg
ngày 4 tháng 9 năm 2003. Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ chế một
cửa được thực hiện đối với tất cả cấp tỉnh và cấp huyện từ 01 tháng 01 năm 2004,
đối với cấp xã từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
Qua khảo sát đánh giá việc triển khai Quyết định 181/2003/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ, ngày 22 tháng 6 năm 2007 Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định 93/2007/QĐ-TTg thay thế cho Quyết định 181, triển
khai không chỉ cơ chế một cửa mà còn phát triển thành cơ chế một cửa liên
20
thông trong việc giải quyết những yêu cầu hợp pháp của công dân và doanh
nghiệp. Quyết định trên đã xác định rõ khái niệm về cơ chế một cửa: Cơ chế
một cửa là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân, bao gồm cả tổ
chức, cá nhân nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân) thuộc trách nhiệm,
thẩm quyền của một số cơ quan hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận
giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả thực hiện tại một đầu mối là bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước. [5 ].
- Khái niệm thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, trước hết xuất phát từ
mục đích đổi mới thực hiện các thủ tục hành chính. Nếu như trước kia, tổ
chức hoặc công dân phải tốn kém nhiều thời gian, đi nhiều nơi để giải quyết
cơng việc thì nay chỉ cần đến Bộ phận một cửa để giải quyết. Đây là bước đột
phá lớn trong tư duy và tổ chức hoạt động quản lý của nhà nước.
Việc thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa còn được quy
định chặt chẽ ở chỗ quy chế, quy định cụ thể từng loại công việc và những
giấy tờ cần thiết; quy định rõ quyền và trách nhiện của cán bộ, công chức tại
bộ phận tiếp nhận thủ tục hành chính và trả kết quả , cũng như tổ chức, cá
nhân khi tham gia quan hệ pháp luật tại bộ phận này. Cơ chế một cửa cùng
với các quy định cụ thể là những quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc
chung đối với cơ quan hành chính nhà nước; các tổ chức, cá nhân đều phải
nghiêm chỉnh thực hiện.
Như vậy, theo tác giả: Thực hiện thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
là hoạt động có mục đích của cơ quan hành chính nhà nước trong quan hệ
giải quyết cơng việc hành chính với tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các thủ
tục hành chính từ tiếp nhận hồ sơ, yêu cầu đến đến trả kết quả được thông
qua một đầu mối, làm cho việc thực hiện cơ chế một cửa đi vào cuộc sống và
trở thành hành vi thực tế và hợp pháp của các chủ thể pháp luật.