1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
ĐẶNG THỊ HUYỀN
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
TRỰC THUỘC ĐẢNG BỘ KHỐI DOANH NGHIỆP
TRUNG ƯƠNG ĐÓNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI – 2013
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH
CSĐ
CTCP
DN
DNNN
GĐ
HĐQT
SXKD
TGĐ
XHCN
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơ sở đảng
Cơng ty cổ phần
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhà nước
Giám đốc
Hội đồng quản trị
Sản xuất kinh doanh
Tổng giám đốc
Xã hội chủ nghĩa
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỂ NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Tổ chức cơ sở đảng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
1.2. Công ty cổ phần và tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần
1.3. Sự cần thiết nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC
CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC
CÔNG TY CỔ PHẦN TRỰC THUỘC ĐẢNG BỘ KHỐI DOANH
NGHIỆP TRUNG ƯƠNG ĐÓNG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
2.1. Khái quát cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của Đảng bộ
Khối Doanh nghiệp Trung ương
2.2. Kết quả đạt được và một số hạn chế về năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần trực thuộc
Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội
2.3. Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần
trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa
bàn Hà Nội
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN TRỰC THUỘC
ĐẢNG BỘ KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG ĐÓNG
TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. Các quan điểm cơ bản về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần trực thuộc Đảng bộ Khối
Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội
3.2. Các giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của chi bộ, đảng bộ trong các công ty cổ phần trực thuộc Đảng bộ
Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang
4
9
9
24
30
34
34
37
62
68
68
72
91
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng ở cấp cơ sở trong cấu trúc hệ thống
nhiều cấp; là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng; là nơi bảo đảm cho đường lối
chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện có kết quả ở đơn vị cơ sở và là
cấp trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng. Đây cũng là nơi trực
tiếp giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra đảng viên, trực tiếp tổ chức lãnh
đạo nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; là cầu
nối giữa cơ quan lãnh đạo các cấp trong hệ thống tổ chức đảng với quần
chúng nhân dân. Chất lượng của tổ chức CSĐ là yếu tố cấu thành chất lượng
lãnh đạo của Đảng, quyết định sức mạnh của Đảng qua các thời kỳ cách
mạng. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
CSĐ ln là nhiệm vụ thường xun, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng của Đảng ta. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống cịn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay”.
Vị trí, vai trị đó được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế, khi Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là cơ sở tinh thần
của xã hội.
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là giải pháp
quan trọng và có hiệu quả của tiến trình cải cách, đổi mới DNNN ở nước ta
nói chung và ở Hà Nội nói riêng. Trong số DNNN trên địa bàn Hà Nội đã
được CPH, có 101 CTCP trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung
ương. Đó là những DN mà Nhà nước nắm cổ phần khống chế, tức vẫn là
5
DNNN. Kể từ khi chuyển sang hoạt động theo mô hình CTCP, các doanh
nghiệp này đã có nhiều chuyển biến quan trọng trên các mặt, từ cơ cấu tổ
chức quản lý đến kết quả SXKD. Tuy nhiên còn rất nhiều việc phải làm để có
thể bắt kịp với tiến trình đổi mới của đất nước và xu hướng tái cấu trúc
DNNN ở nước ta. Trong đó nổi lên vấn đề đảm bảo chất lượng lãnh đạo của
tổ chức CSĐ trong các CTCP của Nhà nước, bởi vì dù sao đây là vấn đề còn
khá mới mẻ và phức tạp ở nước ta, nhất là trong thời kỳ phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Với đề tài
“Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực
thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội”,
chúng tơi mong muốn góp thêm tiếng nói nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo
của chi bộ, đảng bộ trong các CTCP nói chung và CTCP trên địa bàn Hà Nội
thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương nói riêng
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các CTCP là một thực tiễn
mới mẻ, đặt ra nhiều vấn đề phải được làm rõ về nhận thức, quan điểm, giải
pháp. Bởi vậy, trong những năm gần đây đã có một số cơ quan và nhà khoa
học, những người hoạt động thực tiễn quan tâm nghiên cứu về vấn đề này,
một số cơng trình, bài viết đã được công bố, như:
- Nghị quyết của Đảng ủy Khối về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
thuộc Khối; Báo cáo của Đảng ủy Khối gửi Ban đổi mới, phát triển doanh
nghiệp của Chính phủ; Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương (2009), Báo
cáo số 31-BC/ĐUK ngày 16/10/2009 kết quả tự kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện NQTW3, NQTW9 khóa IX và Nghị quyết Đại hội X của Đảng về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước; Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương (2012), Báo cáo chuyên đề tiếp
tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của tập đồn, tổng cơng ty, ngân
6
hàng trong Khối doanh nghiệp Trung ương góp phần đảm bảo vai trò chủ đạo
của nền kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
- Phạm Đạo (2000), tổ chức đảng trong các công ty cổ phần, Báo Nhân
dân, 9-6-2000; Ngô Tùng Chinh (2005), củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp cổ phần hố, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 năm 2005; Nguyễn
Phi Long (2005), Nâng cao hiệu lực lãnh đạo của tổ chức đảng trong các công
ty cổ phần có vốn Nhà nước, Báo Nhân dân, ngày 29-3-2005; Lê Văn Hội
(2006), Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp cổ phần có vốn
Nhà nước, Tạp chí Xây dựng Đảng; Hội thảo khoa học: "Phát huy vai trị lãnh
đạo của đảng đối với tiến trình cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí
cộng sản số 104 năm 2006; GS.TS Lê Hữu Nghĩa (2006), "Phát huy vai trị
lãnh đạo của đảng đối với tiến trình cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước", Tạp
chí Cộng sản, (104); Phạm Việt Dũng (2011), Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, Tạp chí cộng sản, số
824; Phạm Việt Dũng (2011), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí cộng
sản số 830; Đỗ Tiến Khang (2011), Về mơ hình tổ chức đảng trong các Tập
đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước, Tạp chí Xây dựng Đảng số 6.
- Đặng Thuỳ Dương (2005), Nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong các
doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh; Hồng Thu Hà (2011), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của TCCSĐ trong các TĐ KTNN ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức CSĐ trong các CTCP đóng trên địa bàn Hà Nội trực thuộc Đảng bộ
Khối Doanh nghiệp Trung ương ở nước ta hiện nay thì chưa có đề tài nghiên
cứu nào mang tính chất toàn diện và sâu sắc.
7
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức CSĐ, luận văn đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảng bộ trong các
CTCP trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn
Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức CSĐ
trong các CTCP trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đóng
trên địa bàn Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh
nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức CSĐ trong các CTCP của
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh
nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Nghiên cứu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức CSĐ tức các chi bộ, đảng bộ trong các CTCP của Nhà nước trong đó
Nhà nước nắm cổ phần chi phối trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp
Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội.
8
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Đảng bộ Khối đóng trên địa bàn Hà
Nội từ 2007 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng ta trên cơ sở các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VI
đến nay, đặc biệt là quan điểm của Đảng trong Nghị quyết Trung ương 3 khoá
IX “về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước”. Đề tài kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa
học đã cơng bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Mác-Lênin, kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Đề tài sử dụng kết hợp các phương
pháp: phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn, lịch sử - lơgíc, nghiên cứu tài
liệu, điều tra, chun gia...
6. Đóng góp mới của đề tài
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Đảng bộ Khối
Doanh nghiệp Trung ương.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi để nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Đảng bộ Khối
Doanh nghiệp Trung ương đóng trên địa bàn Hà Nội.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để kiện toàn, đổi mới hoạt động
của tổ chức CSĐ trong các CTCP trực thuộc Khối đóng trên địa bàn Hà Nội.
7. Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo
và phụ lục, đề tài gồm 03 chương, 07 tiết.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỂ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Tổ chức cơ sở đảng, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
1.1.1. Tổ chức cơ sở đảng
1.1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng
Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định rõ về tổ chức CSĐ như sau:
- “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
- Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thưc trở lên, lập tổ chức
cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy cấp huyện). Cơ cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác
xã, đơn vị sự nghiệp…có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng
(tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên
trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên
nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên
trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức CSĐ thích hợp.
- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở,
có các chi bộ trực thuộc đảng ủy”.
1.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
- Tất cả các tổ chức CSĐ đều có chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo
tại đơn vị cơ sở và tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng. Cụ thể:
+ Là hạt nhân chính trị cơ sở, các tổ chức CSĐ đảm bảo tính chất chính
trị của sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn vị cơ
10
sở. Đó là việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết, chủ trương của cấp trên tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo đơn vị cơ
sở trong sạch vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước
+ Tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng của tổ chức CSĐ nhằm
trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tồn Đảng. Đó là
giáo dục rèn luyện đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kết nạp
đảng viên, xét kỷ luật đảng viên. Là nơi đào tạo, rèn luyện cán bộ cho Đảng,
chi bộ, đảng bộ cơ sở, là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân
dân, phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra đường lối đúng đắn hợp lòng dân,
định hướng hoạt động và uốn nắn những lệch lạc của các tổ chức, đoàn thể ở
cơ sở.
- Điều 23, Chương V, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua đã quy định 05 nhiệm vụ của
tổ chức CSĐ như sau:
(1). Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện
có hiệu quả.
(2). Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và
tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn
luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực cơng tác; làm cơng tác phát triển
đảng viên.
(3). Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch,
11
vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
(4). Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
(5). Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra,
giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Đảng uỷ cơ sở
nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định kết nạp và
khai trừ đảng viên.
Những nhiệm vụ nêu trên có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau.
Do vậy, trong hoạt động thực tiễn không được xem nhẹ nhiệm vụ nào. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, các tổ
chức CSĐ rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình CSĐ như: tổ chức CSĐ thôn,
xã, phường, thị trấn; tổ chức CSĐ trong DN; tổ chức CSĐ trong các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp; tổ chức CSĐ trong lực lượng công an, qn
đội…. Mỗi loại hình tổ chức CSĐ ngồi chức năng, nhiệm vụ chung cịn có
những đặc điểm, nhiệm vụ riêng. Các tổ chức CSĐ cần căn cứ vào các quy
định, hướng dẫn của Trung ương để cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ chung
thành những nhiệm vụ cụ thể của mình.
1.1.1.3. Vai trị của tổ chức cơ sở đảng đối với công tác xây dựng Đảng
- C.Mác và Ph.Ăng-ghen là những người đầu tiên nêu lên những quan
điểm, tư tưởng về tổ chức CSĐ. Hai ông sáng lập ra “liên đoàn những người
cộng sản” và các chi bộ của liên đoàn, quốc tế I và các đảng cộng sản của
quốc tế II. Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, hai ông đã đặc biệt nhắc nhở các đảng cơ sở khâu đặc biệt quan trọng
là củng cố các chi bộ; V.I.Lê-nin đã kế thừa và phát triển tư tưởng đó và chăm
12
lo xây dựng nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ công nhân dân chủ
xã hội thành những chi bộ cơ sở trong các nhà máy, công xưởng, những khu
dân cư của Đảng Bơn-sê-víc Nga. Từ đó các tổ chức CSĐ đã tăng lên về số
lượng và phong phú về nội dung, phương thức hoạt động. Lê-nin đã chỉ rõ:
“Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải
trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, cơng
tác tổ chức phải thích nghi với mọi loại, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với
tất cả quần chúng lao động... Những chi bộ ấy phải thông qua cơng tác mn
hình mn vẻ và rèn luyện bản thân mình mình, rèn luyện đảng, giai cấp,
quần chúng một cách có hệ thống” [43, tr.232, 233].
- Ngay từ khi ra đời, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
xây dựng tổ chức CSĐ và luôn khẳng định: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là
một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật
thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần
chúng”[41, tr.23]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các chi bộ, đảng bộ cơ sở
là “tổ chức cơ bản của Đảng”, là “nền tảng, nền móng” của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở, là dây chuyền để Đảng liên hệ với quần chúng nhân dân.
Chất lượng của chi bộ, đảng bộ cơ sở là một trong những yếu tố quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “đề lãnh đạo cách
mạng thì đảng phải mạnh, là do chi bộ tốt” [12, tr 92]; “muốn làm nhà cho tốt
thì phải xây dựng nền móng cho vững, muốn thực hiện kế hoạch tốt phải
chăm lo củng cố chi bộ” [10, tr 266]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức
chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tổ chức cơ bản. Hệ thống tổ chức của Đảng gồm bốn cấp cơ bản (tương ứng
với hệ thống tổ chức hành chính Nhà nước), bao gồm cấp Trung ương; cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; cấp quận, huyện, thị xã và thành phố
13
trực thuộc tỉnh; cấp cơ sở. Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, những bài
học thành công cũng như chưa thành cơng đều gắn liền với vị trí, vai trị của
tổ chức CSĐ. Đảng ta khẳng định: Những thành tựu đã đạt được, những tiềm
năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn tự sự nỗ lực
phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt
khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức CSĐ đã hạn chế những thành tựu của
cách mạng.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định: tổ chức CSĐ có vai trị
đặc biệt quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng, trong lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Với tính cách là nền tảng của Đảng,
tổ chức CSĐ có vai trị rất quan trọng đối với sự vững mạnh của Đảng. Đây là
cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ
chức sâu rộng nhất, gắn với các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành,
các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng tới từng cơ
sở, từng đảng viên và từng người dân. Đây cũng là nơi trực tiếp thực hiện chủ
trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm
và góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển chủ trương, đường lối
của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành
các hoạt động quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, như đào tạo, bồi
dưỡng, kết nạp đảng viên… nơi đảng viên thường xuyên thực hành các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các
cấp của Đảng và Nhà nước.
- Tổ chức CSĐ còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là
mắt khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ chức
gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay
14
khơng là nhờ ở vai trị rất quan trọng, trực tiếp của tổ chức CSĐ, của cán bộ
đảng viên tại cơ sở. Do tổ chức CSĐ có vai trị quan trọng như vậy, nên ở mọi
thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
coi các tổ chức CSĐ là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào tạo nên
sức sống, sự lớn mạnh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chi bộ là
nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt và Đảng mạnh là do chi bộ
mạnh, chi bộ mạnh là do từng đảng viên mạnh. Việc xây dựng, nâng cao chất
lượng của tổ chức CSĐ luôn là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng
đầu của công tác xây dựng Đảng.
- Bước vào thời kỳ mới, từ bài học thành công và chưa thành công trong
công tác xây dựng Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của
Đảng đã khẳng định: Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được
khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự phấn đấu của
quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu
kém của nhiều tổ chức CSĐ đã hạn chế những thành tựu của cách mạng [81,
tr.141]. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) cũng đã kết
luận: Điều cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ
nghĩa và đi đến thành cơng Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội.
Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của mình [82, tr.5].
Phải biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của các cơ sở đảng như
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chi bộ tốt là gốc rễ của Đảng ở trong
quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt,
mọi cơng việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc
khơng trơi trảy”[42, tr.212]. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) thông qua, chỉ rõ: “Tổ chức
15
cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở”[27, tr.35]. Như vậy có thể thấy rằng chất lượng của các
đảng bộ, chi bộ cơ sở là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh lãnh đạo của Đảng
đối với quá trình cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những
thành tựu đã đạt được, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ nỗ lực
phấn đấu của quần chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức đảng.
1.1.2. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
1.1.2.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng
* Năng lực lãnh đạo là tổng hợp các thuộc tính cơ bản của chủ thể lãnh
đạo, nhằm đáp ứng yêu cầu và hoạt động của tổ chức, bảo đảm cho hoạt động
của tổ chức phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình chung và tình hình
cụ thể của từng địa phương, đơn vị để hồn thành nhiệm vụ chính trị đã đề ra.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng
đúng đắn, cơ bản, lâu dài cũng như trong từng thời kỳ và bằng những phương
thức, phương pháp đúng đắn tổ chức lãnh đạo nhân dân, dân tộc thực hiện
mục tiêu cách mạng có hiệu quả trong thực tiễn. Đảng lãnh đạo tồn xã hội
trước hết thơng qua hệ thống chính trị bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương cơng tác; bằng công tác tổ chức cán bộ;
công tác tuyên truyền, thuyết phục, kiểm tra, giám sát; hành động gương mẫu
của đảng viên. Năng lực lãnh đạo chính là những điều kiện để có thể thực
hiện vai trị lãnh đạo của Đảng.
Năng lực lãnh đạo của Đảng được biểu hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện ở trình độ, năng lực trí tuệ
và kinh nghiệm lãnh đạo, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, nhận thức sâu sắc
về nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn. Là đường lối chính trị
đúng đắn, được dẫn dắt bởi lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
16
Minh, luôn xuất phát từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của đất nước, phát huy
sức mạnh tổng hợp nhằm tập hợp, cổ vũ, động viên mọi tầng lớp nhân dân tự
giác thực hiện đường lối của Đảng.
Thứ hai, năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện trong trình độ nhận thức và
thực hành dân chủ.
Thứ ba, năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện ở trình độ lãnh đạo, tổ chức,
quản lý, xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ để có một tổ chức và đội
ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ của Đảng, một tổ chức và đội
ngũ cán bộ thực sự đồn kết thống nhất cả ý chí và hành động, hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ không cục bộ, bè phái. Tổ chức và đội ngũ cán
bộ đó có đủ năng lực, trí tuệ, bản lĩnh chính trị và niềm tin để lãnh đạo nhân
dân hồn thành thắng lợi những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng trong
các giai đoạn lịch sử của đất nước.
Thứ tư, năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện ở trình độ cơng tác tư tưởng
và khả năng vận động, tập hợp đoàn kết quần chúng. Là sức mạnh về tinh
thần cũng như ý chí đấu tranh vì mục tiêu, sự nghiệp cách mạng do Đảng đề
ra; đồng thời đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội, sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và các hành vi tiêu cực
khác, kể cả sự giảm sút ý chí chiến đấu ở mỗi cán bộ, đảng viên trong tổ chức
đảng và trong hệ thống chính trị.
Thứ năm, năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện ở trình độ lãnh đạo và tổ
chức tiến hành kiểm tra, giám sát mọi lĩnh vực hoạt động. Lãnh đạo gắn liền
với kiểm tra, không kiểm tra coi như khơng có lãnh đạo.
Thứ sáu, năng lực lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện ở khả năng phát
hiện sớm mâu thuẫn, sự yếu kém, sai lầm, khuyết điểm và xử lý đúng đắn.
Thứ bảy, năng lực lãnh đạo của Đảng phải dự báo chính xác xu thế phát
triển của tình hình thế giới và trong nước.
17
Trong điều kiện đảng cầm quyền, năng lực lãnh đạo của Đảng trước hết
và chủ yếu là năng lực lãnh đạo Nhà nước, qua đó để lãnh đạo tồn xã hội.
Đảng lãnh đạo Nhà nước là thống nhất lãnh đạo cả cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp cũng như việc thực hiện ba quyền mang tính nhà nước đó,
nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Là khả năng quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; khả năng vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt các chủ
trương, đường lối, chính sách đó vào hồn cảnh, điều kiện cụ thể của đơn vị,
cơ quan mình, để đề ra các chủ trương, phương hướng và giải pháp thực hiện
đúng, hiệu quả; là khả năng tập hợp, động viên, kiểm tra người lao động, quần
chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa xã hội, an ninh quốc phịng ở cơ sở đạt hiệu quả cao; khả năng chấn chỉnh và
cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện có nền nếp việc quản lý
đảng viên và cơng tác phát triển đảng tại cơ sở.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức CSĐ phụ thuộc vào khả năng tuyên truyền,
vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng của từng cán bộ, đảng viên trong
tổ chức đảng. Bí thư cấp ủy phải là người có đủ phẩm chất, năng lực, nhất là
năng lực trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn; có kinh nghiệm về quản lý, tổ
chức sản xuất; là người cán bộ gương mẫu về mọi mặt, có khả năng tập hợp,
quy tụ quần chúng, biết khơi dậy trí tuệ của cán bộ, đảng viên, phối hợp chặt
chẽ các hoạt động của cơ quan, đơn vị, các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội;
triển khai tổ chức sản xuất kinh doanh, chương trình cơng tác của đơn vị đi
đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Là sự thể hiện một cách toàn diện từ năng lực định hướng đường lối, chủ
trương, chính sách, đến năng lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện, động viên, tập
hợp quần chúng, kiểm tra, giám sát tồn bộ cơng việc của Đảng, làm cho
18
đường lối, chủ trương của Đảng luôn phản ánh được yêu cầu khách quan, thể
hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng là năng lực đổi mới tư duy lý luận,
năng lực xây dựng và hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn, năng lực tổ
chức chỉ đạo thực hiện; xử lý và ứng phó có hiệu quả đối với các tình huống
phức tạp, bất trắc nảy sinh; tổng kết lý luận - thực tiễn, tạo thống nhất nhận
thức và hành động trong Đảng; lãnh đạo hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa; lãnh đạo Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; xây dựng
được một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu mới.
* Sức chiến đấu của Đảng nội lực của Đảng để chiến đấu, công tác vượt
qua những trở lực, chông gai phát sinh từ các thế lực thù địch với mục tiêu lý
tưởng và sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, của dân tộc, từ những tiêu cực
trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, thậm chí trong nội bộ Đảng và cả những
khó khăn khách quan của đất nước, của tình hình kinh tế - xã hội.
Đó là sự thống nhất vững chắc về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thơng
qua việc thực hiện đúng đắn các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng, tạo nên sức mạnh nội tại của Đảng để lãnh đạo nhân dân cả nước
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng đã đề ra.
Sức chiến đấu của Đảng thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, chất lượng các cơ quan lãnh đạo, các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ,
đảng viên. (trình độ trí tuệ, chun mơn nghiệp vụ, ý thức giác ngộ chính trị
và bản lĩnh chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống, tính tiền phong, gương
mẫu).
Thứ hai, khả năng khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, sai lầm, tiêu
cực; tích cực ủng hộ, bảo vệ cái đúng, cái mới, triệt để phê phán cái sai, cái
19
lạc hậu; đấu tranh kiên quyết với những quan điểm sai trái của các thế lực thù
địch.
Thứ ba, một Đảng cách mạng muốn hồn thành vai trị, trọng trách của
mình đối với đất nước, với nhân dân, phải luôn thể hiện rõ năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cao; đồng thời ln phát huy tính tiền phong gương mẫu. Là
khả năng vượt mọi khó khăn, gian khổ để giành thắng lợi trong quá trình lãnh
đạo cơ quan, đơn vị hoạt động đúng định hướng, đạt hiệu quả cao.
Sức chiến đấu của tổ chức CSĐ được thể hiện tập trung ở chất lượng
chính trị của tổ chức: biểu hiện cụ thể ở phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng và tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ
quan, đơn vị; ở sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng đúng chủ
trương, định hướng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sức chiến đấu của tổ chức CSĐ cịn thể hiện ở sự gắn bó mật thiết giữa tổ
chức đảng với quần chúng, được quần chúng tin tưởng, đồng tình ủng hộ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”[42, tr.212]. Sức chiến đấu của tổ chức CSĐ cũng khơng
thể có được nếu thiếu đi việc thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình.
Đây là cuộc đấu tranh trong nội bộ tổ chức đảng để loại trừ, chống lại những
tư tưởng, việc làm nguy hại đến tổ chức, nguy hại đến lợi ích chung của toàn
Đảng, toàn dân.
Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng
tổ chức và cấp ủy đảng, nói chung là tồn Đảng phải có ý chí phấn đấu vươn
lên, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, thường xuyên rèn luyện phẩm
chất, đạo đức; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng, suy thoái ở ngay trong mỗi bản thân đảng viên, ở trong tổ chức đảng,
cơ quan, đơn vị nơi mình sinh hoạt, cơng tác, ở trong Đảng, trong xã hội và
20
nơi cư trú; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động
sai trái, thù địch.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần
Đề đánh giá đúng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ
nói chung và chi, đảng bộ trong CTCP nói riêng phải căn cứ vào các nhiệm
vụ của nó. Tuy nhiên trên thực tế chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể việc
đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi, đảng bộ CTCP, mà chỉ
vận dụng các quy định của tổ chức CSĐ nên việc xây dựng các tiêu chí để
đánh giá rất khó khăn. Do vậy, chúng Tơi cho rằng để xây dựng tiêu chí đánh
giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ trong CTCP cần căn
cứ vào các quy định sau:
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức CSĐ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu,
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX.
- Các hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương.
- Quy định số 287-QĐ/TW, ngày 08/02/2010 chức năng, nhiệm vụ của
đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước (công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, trong đó Nhà nước giữ trên 50% vốn điều lệ).
- Hướng dẫn số 07-HD/TW ngày 11/10/2011 của Ban Tổ chức Trung ương.
Từ đó, tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi, đảng bộ
trong CTCP bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
- Việc lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất kinh doan, an ninh, quốc phịng: lãnh
đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước;
21
bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp, cổ đông và người lao động, hoàn thành
nghĩa vụ đối với nhà nước; lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở ở doanh nghiệp, thực hiện công khai, minh bạch kế hoạch sản xuất, kinh
doanh, hoạt động tài chính…
- Lãnh đạo công tác tư tưởng: Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và quần chúng; tuyên
truyền, vận động làm cho cán bộ, đảng viên, các cổ động, người lao động hiểu
và chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; lãnh đạo đảng viên và quần chúng đấu tranh chống các quan điểm sai
trái, tư tưởng cơ hội, chống suy thoái về tư tưởng đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên.
- Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ: Đề ra chủ trương, nghị quyết và lãnh
đạo thực hiện đảm bảo tiêu chuẩn, quy trình; xây dựng quy hoạch, quy chế, quy
định về công tác cán bộ của doanh nghiệp; thường xuyên kiểm tra, giám sát
việc thực hiện quy định, quy chế đó; đề nghị cấp trên xem xét, quyết định đối
với vấn đề về tổ chức cán bộ của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cấp trên.
- Lãnh dạo các đồn thể chính trị - xã hội: lãnh đạo các đoàn thể xây dựng
tổ chức vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và
tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và các chủ trương, nhiệm vụ của doanh nghiệp.
- Xây dựng tổ chức đảng: Đề ra chủ trương, nhiệm vụ, biện pháp xây dựng
đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên, nhất là việc phát hiện
và đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng…thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình; xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ và
22
tạo điều kiện cho đảng viên học tập nâng cao trình độ; làm tốt cơng tác tạo
nguồn, phát triển đảng viên; xây dựng cấp ủy có đủ phẩm chất, năng lực, hoạt
động có hiệu quả, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội
đồng quản trị hoặc tổng giám đốc; thường xuyên kiểm tra, giám sát tổ chức
đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
- Xây dựng mối quan hệ của đảng bộ, chi bộ với hội đồng quản trị và các tổ
chức có liên quan.
Tổng hợp các dấu hiệu trong các tiêu chí trên đây sẽ cho phép đánh giá
được năng lực lãnh đạo tổ chức CSĐ trong doanh nghiệp nhà nước đã CPH.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức CSĐ là yêu cầu cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, để
làm được điều này đòi hỏi phải xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố tác
động đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ. Bởi vì những
yếu tố này đóng vai trò to lớn, vừa là điều kiện cần và cũng là điều kiện đủ.
- Phẩm chất và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ Đảng: Trong
những năm vừa qua, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới
và trong khu vực, những thách thức từ mặt trái của cơ chế thị trường, nhìn
chung hầu hết đảng viên vững vàng, kiên định và hăng hái đi đầu trong cơng
cuộc đổi mới, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao, giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng, có lối sống lành mạnh và gần gũi với quần chúng nhân dân.
Tuyệt đại bộ phận cán bộ lãnh đạo và đảng viên có ý thức kỷ luật, nghiêm
chỉnh chấp hành đường lối, Điều lệ Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, những quy định của địa phương. Từ đó cho thấy đội ngũ cán bộ, đảng
viên có vị trí, vai trò quan trọng trong năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức CSĐ nói chung và chi, đảng bộ trong CTCP nói riêng. Do vậy
23
phải xây dựng đội ngũ đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên” là nền tảng căn
bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi, đảng bộ trong
CTCP đóng trên địa bàn Hà Nội.
- Sự ổn định về chính trị - xã hội: Sự ổn định về chính trị-xã hội là một
trong những điều kiện tiên quyết, có ảnh hưởng to lớn đến năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ. Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực
diễn ra nhanh chóng và phức tạp, ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng được
thế giới đánh giá là một trong những nước có sự ổn định về kinh tế-xã hội.
Đây là một thuận lợi lớn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức CSĐ.
- Đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước: là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức CSĐ. Những nơi có điều
kiện thuận lợi và kết cấu hạ tầng tốt thì rất thuận lợi cho việc tổ chức sinh
hoạt, hội họp, việc tiếp nhận, cập nhật thông tin cho đảng viên, tuyên truyền
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Điều kiện về kinh tế, xã hội tác động rất lớn đến năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức CSĐ. Do vậy các chi, đảng bộ phải đánh giá đúng thực
trạng những điều kiện của mình để phát huy những thế mạnh, hạn chế, khắc
phục những khó khăn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức CSĐ.
- Thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Đây là nhân tố giữ một vai trò quan
trọng trong sự phát triển của một xã hội. Nó được coi như là nền tảng của một
căn nhà, căn nhà chỉ vững khi nền móng của nó tốt. Thể chế chính trị - kinh tế
- xã hội có ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức CSĐ. Thể chế chính trị ổn định thì mới bảo đảm ổn
định chính trị xã hội và tổ chức mới có điều kiện phát triển.
24
- Tác động của thế giới: Hiện nay tình hình thế giới và khu vực diễn ra
nhanh chóng và phức tạp. Trước xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa thì
bên cạnh những mặt tích cực mang lại thì đã kéo theo rất nhiều tiêu cực mà
chúng ta phải đối mặt và cũng xem đó là một trong những quy luật vận động
khách quan của xã hội. Điều đó cho thấy tình hình thế giới, khu vực đã ảnh
hưởng sâu sắc đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của hệ thống chính trị
nói chung và tổ chức CSĐ nói riêng.
1.2. Cơng ty cổ phần và tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần
của Nhà nước
1.2.1.Công ty cổ phần
1.2.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Theo quy định tại Điều 77 Luật Doanh nghiệp, CTCP được định nghĩa
như sau:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần
- Cổ đơng có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cơng ty có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của
Luật doanh nghiệp 2005.
- CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
1.2.1.2. Tính tất yếu khách quan cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
25
Trước hết CPH DNNN là chuyển một phần vốn của Nhà nước trong các
DNNN cho các cổ đông thông qua phát hành cổ phiếu, nhằm nâng cao hiệu
quả sản SXKD của các DNNN đã CPH, đồng thời Nhà nước sử dụng phần
vốn nói trên vào các khoản đầu tư khác.
Tính tất yếu khách quan của CPH một bộ phận lớn DNNN ở nước ta xuất
phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Về thực chất CPH DNNN là tách phần sở hữu và quyền quản lý
DNNN. Quyền sở hữu vốn, tài sản thuộc về các cổ đông; quyền quản lý thuộc
về HĐQT, mà trực tiếp là GĐ (TGĐ). Từ đó người quản lý có tồn quyền
điều hành CTCP theo tín hiệu của thị trường, dưới sự kiểm tra, giám sát của
HĐQT. Nhà nước không can thiệp sâu vào các hoạt động SXKD của cơng ty.
Vì thế loại hình DN có khả năng nâng cao hiệu quả SXKD.
Thứ hai: Giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. CTCP góp phần thực hiện chủ trương đa dạng hố các hình thức sở hữu.
Trước đây chúng ta xây dựng một cách cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện
ở một số lượng quá lớn các DNNN mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này
không phù hợp với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy các
CTCP sẽ giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba: Khi thực hiện CPH , người lao động sẽ gắn bó, có trách nhiệm
với cơng việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh nghiệp. Ngoài
ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh nghiệp sẽ trở nên năng động, tự
chủ hơn trong SXKD, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Thứ tư: CTCP là một yếu tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị
trường chứng khốn, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh tế khu vực và trên thế
giới.
Thứ năm: Là một trong những giải pháp quan trọng nhằm huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế. Với việc huy động được