Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Thông tin trên báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị xã hội (khảo sát trên báo mạng điện tử vnexpress và vietnamnet từ tháng 012010 đến 62012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 142 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRẦN THỊ PHƢƠNG THẢO

THÔNG TIN TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
VỀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
(Khảo sát trên báo mạng điện tử Vnexpress và Vietnamnet
từ tháng 01/2010 đến 6/2012)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRẦN THỊ PHƢƠNG THẢO



THÔNG TIN TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
VỀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
(Khảo sát trên báo mạng điện tử Vnexpress và Vietnamnet
từ tháng 01/2010 đến 6/2012)

Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số

: 60.32.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS HỒNG ANH

HÀ NỘI - 2012


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất cứ cơng trình nghiên cứu nào.
TÁC GIẢ

Trần Thị Phƣơng Thảo



4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VỀ BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ VÀ VAI TRỊ CỦA THƠNG TIN VỀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ .......................................... 16
1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về báo mạng điện tử ......................... 16
1.2. Các điểm nóng chính trị-xã hội và thơng tin về các điểm nóng chính trị xã hội trên báo mạng điện tử. .......................................................................... 23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THƠNG TIN VỀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ
- XÃ HỘI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ .................................................. 52
2.1. Giới thiệu khái quát về hai tờ báo điện tử VnExpress và Vietnamnet .... 52
2.2. Thực trạng thơng tin về điểm nóng chính trị - xã hội hiện nay trên
Vnexpress và Vietnamnet ............................................................................... 57
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN VỀ
ĐIỀM NĨNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ. 113
3.1. Đối với nhà báo ...................................................................................... 113
3.2. Đối với cơ quan báo chí ......................................................................... 120
3.3. Đối với cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí: ........................................... 123
3.4. Đối với cơ quan đào tạo báo chí ............................................................ 125
KẾT LUẬN .................................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 131
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 135


5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1.

GS.TSKH : Giáo sư. Tiến sỹ Khoa học

2.

DBHB

: Diễn biến hịa bình

3.

Nxb

: Nhà xuất bản

4.

VOV

: Đài tiếng nói Việt Nam

5.

GP

: Giấy phép

6.


BVHTT

: Bộ văn hóa thể thao

7.

UBND

: Ủy ban nhân dân

8.

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc


6

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong một cộng đồng xã hội, có nhiều bộ phận dân cư khác nhau với
nhiều lợi ích khác nhau, nhận thức về việc phân bổ các lợi ích cũng khác nhau
nên rất dễ nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột. Khi những xung đột ở mức
độ thấp không được giải tỏa sẽ dẫn đến những xung đột ở mức độ cao hơn,
như chống đối lẫn nhau, bạo lực, gây rối loạn trật tự xã hội. Xung đột xã hội
đến mức mà hành vi của các bên tham gia xung đột vượt ra ngoài chuẩn mực
pháp lý và đạo đức, hoặc có khả năng vượt ra ngồi chuẩn mực pháp lý và
đạo đức, thậm chí lôi kéo các cơ quan quyền lực nhà nước vào các xung đột
đó được gọi là điểm nóng xã hội hoặc điểm nóng chính trị-xã hội. Những

“điểm nóng” về chính trị - xã hội, nếu không được quản lý và giải tỏa tốt có
thể gây nên bất ổn định chính trị, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển
của một đất nước.
Thực tiễn ở nước ta, trong hơn 20 năm đổi mới đất nước vừa qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa
lịch sử, tạo được những chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Đất
nước có sự ổn định về chính trị - xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế,
đưa đất nước Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Tuy vậy,
Việt Nam vẫn phải đối diện với nhiều thách thức. Trong đó vấn đề “điểm
nóng chính trị-xã hội” là vấn đề nhạy cảm mà Đảng và nhà nước luôn phải
cảnh giác và thận trọng. Bởi các thế lực thù địch vẫn ngấm ngầm âm mưu
“diễn biến hịa bình”, lợi dụng mâu thuẫn, những vấn đề nhạy cảm trong các
điểm nóng xã hội để thực hiện ý đồ phá hoại chế độ. Chỉ trong khoảng hơn 10
năm trở lại đây đã có rất nhiều điểm nóng chính trị - xã hội xuất hiện. Điều
này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động lãnh đạo, quản lý của tổ


7

chức Đảng, chính quyền cơ sở, đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Đáng lưu ý, trong những năm gần
đây, lợi dụng xu thế tồn cầu hố kinh tế thế giới và cuộc cách mạng khoa học
– công nghệ, nhất là sự phát triển của mạng internet, chúng triệt để sử dụng
các phương tiện thông tin hiện đại như sách, báo, báo điện tử, trang tin điện
tử, blog để chuyền tải thông tin, quan điểm sai trái, thù địch chống đối chế độ
ta. Những phần tử cơ hội chính trị trong nước hùa theo những luận điểm sai
trái của địch, ra sức cơng kích Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính bởi
vậy việc nhận diện điểm nóng, nắm tình hình, xử lý điểm nóng là một việc
làm vô cùng cấp thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Như chúng ta đều biết, báo chí là một phương tiện thơng tin đại chúng

vơ cùng hiệu quả. Báo có vai trị then chốt trong đời sống kinh tế - chính trị xã hội. Báo chí cung cấp thơng tin về các sự việc giúp chúng ta nắm rõ hơn
những vấn đề quan trọng. Báo chí phê bình và tranh luận để đảm bảo rằng
thơng tin phải được kiểm chứng và xem xét từ mọi góc độ. Báo chí điều tra
và kiểm chứng để đảm bảo rằng quyền lực được thi hành và những người
ra quyết định phải chịu trách nhiệm….Báo chí khơng chỉ đóng vai trị
thơng tin đơn thuần mà cịn mang tính quản lý, định hướng và dự báo thơng
tin. Báo chí ln có mặt ở những “điểm nóng”, thơng tin kịp thời, tồn diện
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và quốc tế. Báo chí
đã góp phần không nhỏ vào việc làm rõ vấn đề, giúp nhân dân hiểu bản chất
điểm nóng chính trị - xã hội và giúp chính quyền có hướng giải quyết cụ thể
với điểm nóng đó, tăng cường sự đồng thuận và niềm tin của nhân dân vào
chế độ.
Những năm gần đây, sự phát triển nhảy vọt của mạng Internet và các
phương tiện in ấn, nghe nhìn đã kéo theo sự bùng nổ của nhiều loại hình báo
chí và thơng tin, nhất là các nguồn thông tin trên mạng. Trong tháng 11/2011,


8

số người sử dụng internet đạt 26,8 triệu, tức là hơn 30% dân số, gấp đôi so với
năm 2006 và hơn 10 lần so với năm 2003. Dù là loại hình báo chí xuất hiện
sau cùng, mới hơn 10 năm trở lại đây, nhưng có thể thấy báo mạng điện tử đã
cập nhật thông tin từng giờ từng phút, mang đến những sự kiện nóng hổi nhất
tới cơng chúng. Chính báo mạng điện tử đã góp phần khơng nhỏ vào việc
khẳng định vai trị của báo chí đối với đời sống kinh tế - văn hóa – chính trị
của đất nươc nói chung và vấn đề thơng tin báo chí về điểm nóng chính trị xã hội nói riêng.
Mặc dù gặt hái được nhiều thành tựu trên lĩnh vực thông tin, nhưng báo
chí cũng gặp nhiều hạn chế bất cập. Trước những điểm nóng chính trị - xã
hội, đơi khi báo chí cịn chưa kịp thời, thậm chí lúng túng, bị động trong đưa
thông tin. Nhiều tờ báo mới chỉ phản ánh ở một vài khía cạnh của vấn đề mà

chưa có sự phân tích chun sâu, đi vào bản chất của điểm nóng chính trị - xã
hội. Đơi khi nhận thức của phóng viên và thậm chí là lãnh đạo cơ quan báo
chí cịn hạn chế, lệch lạc về quan điểm chính trị, tư tưởng, gây hoang mang
trong nhân dân cũng như tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng,
xuyên tạc…gây mất ổn định chính trị. Đặc biệt với cách đưa tin bài “nhanh ẩu” hiện nay của một số tờ báo mạng thì tình trạng này càng tăng cao, làm
giảm sút vai trò quan trọng của báo chí.
Bởi vậy, việc nghiên cứu vấn đề thơng tin trên báo mạng điện tử về điểm
nóng chính trị - xã hội sẽ giúp cho các phóng viên, nhà báo và lãnh đạo cơ
quan báo chí nắm được cách đưa thông tin như thế nào cho đúng đắn, kịp thời
góp phần quản lý và giải tỏa xung đột, xử lý các điểm nóng, đồng thời góp
phần ổn định chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ chế độ, tạo dựng uy tín, niềm tin
trong nhân dân. Tuy nhiên qua khảo sát, hiện nay mới có vài cơng trình đề
cập tới một số khía cạnh khác nhau của vấn đề thơng tin trên báo chí nhất là
báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã hội, mà chưa có nhiều cơng


9

trình nghiên cứu chun sâu. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề thông tin của
báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã hội là một việc làm vơ cùng
quan trọng và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có khá nhiều nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài này.
Về các điểm nóng chính trị - xã hội có rất nhiều bài viết hoặc đề tài
nghiên cứu lớn như:
- “Các chuyên đề bài giảng chính trị học”, GS.TSKH Phan Xuân Sơn NXB Chính trị - Hành chính 2010”. Trong chuyên đề này, tác giả đã nêu rất
rõ thế nào là điểm nóng chính trị - xã hội, biểu hiện, tính chất, cách xử lý
điểm nóng chính trị - xã hội.
- Cuốn sách chun khảo “Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình

tại các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây - Hiện trạng,
vấn đề các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống” của tác giả Lưu Văn
Sùng, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010. Ở đây, tác giả đã phân tích, đánh giá
những nguyên nhân khách quan, chủ quan về tình hình bất ổn. Đồng thời
trình bày một số giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời các điểm nóng
chính trị ở miền núi.
- “Bài giảng xử lý tình huống chính trị”, Học viện Chính trị Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh – NXB Chính trị - Hành chính. Cuốn sách trình bày
phương pháp tiếp cận, nhiệm vụ, nguyên tắc và quy trình xử lý một số tình
huống chính trị như xử lý các điểm nóng chính trị - xã hội, chuyển giao quyền
lãnh đạo cho nội bộ Đảng cộng sản cầm quyền, xử lý quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy cầm quyền…
Có một số luận văn cử nhân chính trị cũng đã viết về vấn đề xử lý điểm
nóng, điểm nóng chính trị - xã hội như:


10

- Luận văn của Lê Xn Dung: "Điểm nóng chính trị - xã hội quy trình
và giải pháp của lực lượng cơng an tham gia giải quyết điểm nóng" (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000)
- Luận văn của Nguyễn Đình Hun: "Xử lý điểm nóng chính trị - xã hội
ở xã Bản Nguyên - huyện Lâm Thao - tỉnh Phú Thọ" (Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2000)
- Luận văn của Nguyễn Cơng Chun: "Điểm nóng huyện Xuân Trường nguyên nhân và giải pháp" (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001).
- Luận văn của Nguyễn Văn Thịnh: "Phân tích một số điểm nóng chính
trị - xã hội trên địa bàn huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương và rút ra những
bài học kinh nghiệm qua thực tiễn xử lý gần đây" (Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, 2002).
- Luận văn của Tô Văn Cường: "3 năm khôi phục hậu quả điểm nóng

Thái Bình, những bài học kinh nghiệm" (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002).
- Luận văn của Vũ Đức Hằng: "Điểm nóng chính trị ở nơng thơn huyện
Tiền Hải - tỉnh Thái Bình. Quá trình xử lý và một số giải pháp chủ yếu để ổn
định tình hình và phát triển" (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2003).
- Luận văn của Nguyễn Xn Nghinh: "Tình hình và ngun nhân xảy ra
điểm nóng chính trị - xã hội ở xã Hồng Thuận - huyện Giao Thủy" (Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004).
Tuy nhiên có thể thấy mục đích của những cuốn sách hay những bài luận
văn trên chủ yếu tập trung vào phân tích diễn biến, nguyên nhân và đề xuất
các phương pháp xử lý các điểm nóng chính trị - xã hội, chứ khơng đặt ra
nhiệm vụ nghiên cứu vai trị của báo chí trong các điểm nóng đó.
Mảng thứ hai là vấn đề báo chí và “diễn biến hịa bình” có các cơng trình như:


11

- “Báo chí trong đấu tranh chống "Diễn biến hồ bình" / Vũ Hiền,
Trần Quang Nhiếp đồng chủ biên – NXB Chính trị Quốc gia, 2000, “Báo chí
góp phần đấu tranh chống âm mưu ”diễn biến hồ bình” trên lĩnh vực tư
tưởng - văn hố” – Thạc sỹ Dỗn Thị Thuận - Nội dung chính là làm rõ mục
tiêu, phương thức tiến hành "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch đối
với Việt Nam hiện nay và vai trị, những đóng góp của báo chí và các phương
tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hồ bình” của
các thế lực thù địch.
- Đề tài “Nghiên cứu tổng kết lý luận – thực tiễn đấu tranh chống chiến
lược DBHB” của Tổng cục Chính trị QĐNDVN do Đại tướng Lê Văn Dũng,
Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Trưởng Ban chỉ
đạo nghiên cứu tổng kết, Hà Nội-2004. Đề tài chỉ ra điều đặc biệt quan trọng

trong đấu tranh chống DBHB là luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lĩnh vực QP - AN và LLVT, nhất là đối
với quân đội và công an; lấy xây dựng nội bộ vững mạnh, giữ vững bên trong
là chủ yếu, xây dựng “Thế trận lòng dân” làm cốt lõi, đồng thời tích cực bảo
vệ từ xa, chủ động ngăn chặn mọi nguy cơ từ bên ngoài để bảo vệ Tổ quốc.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước “Phòng, chống DBHB và “cách mạng
màu”của các thế lực thù địch” (Mã số KX.04-23/06-10) do Trung tướng
PGS.TS Nguyễn Tiến Bình làm Chủ nhiệm, Hà Nội-2010. Đề tài nghiên cứu
lý luận về tăng cường xây dựng lực lượng và thế trận quốc phịng tồn dân
gắn với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; xây dựng QĐND
và CAND thực sự trung thành và tin cậy về chính trị làm nịng cốt trong đấu
tranh phịng, chống DBHB và “cách mạng màu” của các thế lực thù địch.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng “QĐNDVN đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” (Mã số 2009.83.015) do Đại tá


12

PGS.TS Dương Quốc Dũng (Học viện Quốc phòng) làm Chủ nhiệm, Hà Nội2011. Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về QĐNDVN đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, có ý nghĩa trực tiếp xây
dựng vững chắc trận địa tư tưởng trong qn dội, chống mưu đồ “phi chính trị
hóa” qn đội ta của các thế lực thù địch.
- Cuốn sách “Chiến lược DBHB – Nhận diện và đấu tranh (Tập 1)” do
Hội đồng Giáo dục Quốc phòng – An ninh Trung ương và Báo QĐND biên
soạn, Nxb QĐND, Hà Nội-2011. Cuốn sách là tập hợp một số bài viết đã
đăng tải trên hai chuyên mục “Làm thất bại chiến lược DBHB” và “Phòng,
chống DBHB” của Báo QĐND nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về DBHB
và những cách thức phòng, chống DBHB, “tự diễn biến” trong giai đoạn
hiện nay.
- Cuốn sách “Phòng, chống DBHB ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận

và thực tiễn” do Học viện Chính trị biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia phát
hành, HN-2009. Cuốn sách tập hợp các bài viết, nghiên cứu DBHB trên nhiều
phương diện khác nhau nhằm giúp bạn đọc có một bức tranh tồn cảnh về
DBHB,... Cuốn sách khơng chỉ có giá trị về lý luận và thực tiễn trong việc
nhận dạng và phát hiện phương thức, thủ đoạn mới của chiến lược “diễn biến
hồ bình” mà cịn góp phần quan trọng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng - lý
luận, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã cung cấp khá nhiều thơng tin có
giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc về đấu tranh phòng, chống DBHB,
trong đó có đề cập đến việc phát huy vai trị của báo chí cách mạng và các
phương tiện thơng tin đại chúng của quân đội trong đấu tranh phòng, chống
DBHB của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, “diễn biến hịa bình” và “điểm
nóng chính trị - xã hội” là hai vấn đề khác nhau. Trong điểm nóng chính trị có


13

thể có sự tác động, tham gia của các thế lực bên ngồi, âm mưu “diễn biến
hịa bình” hoặc có thể từ điểm nóng chính trị - xã hội dẫn đến sự lợi dụng của
các thế lực thù địch. Do vậy cách thơng tin của báo chí đối với hai vấn đề
này, mặc dù có một số điểm chung nhưng nội dung và cách đưa thơng tin là
khơng hồn tồn giống nhau.
Từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy vấn đề thơng tin báo chí về
điểm nóng chính trị - xã hội chưa được chú ý thỏa đáng, chưa có một cơng
tình nghiên cứu trực tiếp, chun sâu. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài này là
cần thiết và cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của báo chí
trong các xung đột xã hội, trong các điểm nóng chính trị -xã hội, trên cơ sở

khảo sát thực trạng thơng tin báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã
hội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của thông tin báo chí về điểm nóng chính trị - xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận chung về báo mạng điện tử và thơng tin về điểm nóng
chính trị - xã hội trên báo mạng điện tử.
- Khảo sát thực trạng thông tin báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị
- xã hội ở Việt Nam hiện nay (qua Vnexpress và Vietnamnet).
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin báo
mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Các điểm nóng chính trị - xã hội trên 2 tờ: Vnexpress và Vietnamnet.


14

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm báo chí viết về điểm nóng
chính trị - xã hội trên Vienamnet và Vnexpress. Thời gian khảo sát: từ tháng
1/ 2010 đến tháng 6/2012.
5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về báo chí.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic, so

sánh, định tính, định lượng, phân tích văn bản ... tham khảo ý kiến chuyên
gia, khảo sát thực tế…
6.

Ý nghĩa của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài hệ thống hóa và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận liên quan đến
thơng tin báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã hội.
- Bước đầu xây dựng cơ sở lý luận cho việc phân tích, đánh giá vai trị, ý
nghĩa cũng như thực trạng của thơng tin báo mạng điện tử về điểm nóng chính
trị - xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn có giá trị tham khảo nhất định đối với các nhà
lãnh đạo, quản lý báo chí, những nhà báo trực tiếp tác nghiệp về điểm nóng
chính trị xã hội, và đối với những người giảng dạy, học tập về báo chí học.
7.

Kết cấu luận văn:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Tài liệu tham khảo, luận văn
được triển khai trong 3 chương như sau:


15

Chương I: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về báo mạng điện tử và vai
trị thơng tin của báo mạng điện tử trong các điểm nóng chính trị - xã hội.
Chương II: Thực trạng thông tin trên báo mạng điện tử về điểm nóng
chính trị - xã hội (qua khảo sát 2 tờ Vnexpress và Vietnamnet).

Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên
báo mạng điện tử về điểm nóng chính trị - xã hội.


16

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN
TỬ VÀ VAI TRỊ CỦA THƠNG TIN VỀ ĐIỂM NĨNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về báo mạng điện tử
1.1.1. Khái niệm
Thế kỉ 19 là thế kỉ thống trị của báo in cùng với sự phổ biến của máy in
và sự phát triển của hệ thống giao thơng. Sang thế kỉ 20, phát thanh, truyền
hình lại chiếm lĩnh ngôi vị thống trị cùng với đài radio, tivi. Từ cuối thế kỉ 20,
đầu thế kỉ 21, mạng Internet ra đời và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời
sống con người, báo chí cũng khơng nằm ngoại lệ. Và hệ quả tất yếu là một
sản phẩm kết hợp giữa báo chí - Internet : báo mạng điện tử ra đời, đã và đang
làm thay đổi khơng nhỏ bộ
mặt của báo chí thế giới,
trong đó có Việt Nam.
Trên thế giới và Việt
Nam đang tồn tại nhiều
cách gọi khác nhau đối với
loại hình báo chí mới này
như:

báo

điện


tử

(Electronic Journal), báo
trực

tuyến

(Online

Newspaper), báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí Internet (Internet
Newspaper) và báo mạng điện tử.
Báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất ở nước ta. Ở Việt Nam, thuật
ngữ “báo điện tử” đã được sử dụng trong Luật báo chí năm 1999. Theo định


17

nghĩa trong luật này, “báo điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên hệ
thống máy tính”. Dự thảo Luật Báo chí trình Quốc hội cũng định nghĩa “báo
điện tử là loại hình báo chí thực hiện trên mạng Internet”. Nó gắn liền với tên
gọi của nhiều tờ báo in phát hành trên mạng internet. Ví dụ như: Quê Hương
điện tử, Nhân Dân điện tử, Lao Động điện tử…
Tuy nhiên khái niệm này mang nghĩa chung chung, không giúp hiểu rõ
đặc điểm của loại báo phát hành trên mạng. Đồng thời đã có thời gian chúng
ta sử dụng cách gọi này để chỉ phát thanh và truyền hình nên nếu dùng lại rất
dễ gây nhầm lẫn.
Báo trực tuyến là khái niệm được sử dụng đầu tiên ở Mỹ và đã trở thành
cách gọi của quốc tế. Hiện nay thuật ngữ này sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực
truyền thơng nhằm chỉ các khái niệm có cùng đặc tính như “xuất bản trực
tuyến”, “phương tiện truyền thông trực tuyến”, “nhà báo trực tuyến”, “phát

thanh trực tuyến”, “truyền hình trực tuyến”…Tuy nhiên, cách gọi này gắn với
tin học nhiều hơn và chưa được Việt hóa.
Báo mạng là cách gọi tắt của báo mạng internet. Đây là cách gọi khơng
mang tính khoa học vì nó khơng rõ nghĩa, khơng đầy đủ, dễ làm hiểu sai bản
chất của thuật ngữ. Bởi internet là mạng của mạng như mạng ( A network of
networks), dưới nó cịn nhiều loại mạng nội bộ của các tổ chức, các cơng ty,
các chính phủ…Gọi tắt như thế sẽ không xác định rõ ràng ranh giới giữa khái
niệm “mạng” và “mạng internet”.
Báo internet cũng là khái niệm được dùng khá rộng rãi. Thuật ngữ này
được sử dụng trong một số đề tài khoa học, hội thảo khoa học về vai trị của
cơng nghệ thơng tin đối với loại hình báo chí mới. Cách gọi này là sự kết hợp
tên gọi của internet với một tờ báo (newspaper) chính là ở chỗ: internet cung
cấp không gian với đầy đủ tiện nghi cho một tờ báo hoạt động. Tờ báo lấy
internet làm phương tiện truyền tải, lấy các khả năng ưu việt của internet làm


18

lợi thế và hoạt động độc lập trên internet. Tuy nhiên cách gọi này cũng dễ dẫn
người ta đến sự nhầm lẫn: tất cả các trang web có mặt trên internet đều là báo
internet. Trên thực tế, một tờ báo phát hành trên mạng đúng là một trang web,
nhưng không phải trang web nào cũng là tờ báo.
Báo mạng điện tử là khái niệm được sử dụng sau khi Học viện Báo chí
và Tuyên truyền tuyển sinh một chuyên ngành đào tạo mới – báo mạng điện
tử và thành lập tổ bộ mơn báo mạng điện tử. Thứ nhất, nó khẳng định loại
hình báo chí mới này là con đẻ của sự phát triển vượt bậc của công nghệ
thông tin, hoạt động được nhờ các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, số hóa, các
máy tính nối mạng và các server, các phần mềm ứng dụng. Thứ hai, nó cho
phép hiểu một cách chính xác về bản chất đặc trưng của loại hình báo chí này:
tính đa phương tiện, tính tương tác cao, tính tức thời, phi định kỳ, khả năng

truyền tải thông tin không hạn chế, với cách lưu trữ thông tin dưới dạng dữ
liệu siêu văn bản, khả năng siêu liên kết – các trang báo được tổ chức thành
từng lớp với vơ chế “nở” ra số trang không hạn chế…Thứ ba, đây là sự kết
hợp các tên gọi có nội dung riêng biệt như: báo, mạng, điện tử. Chính vì
vậy, tên gọi này thỏa mãn được các yếu tố: Việt hóa, đặc trưng khu biệt của
loại hình báo chí mới, khắc phục được sự thiếu về nghĩa, sự máy móc của từ
ngoại lai.
Từ những phân tích trên cho thấy có nhiều cách gọi về loại hình báo chí
mới này. Trong khi chờ một khái niệm thống nhất, chúng tôi sẽ sử dụng khái
niệm “báo mạng điện tử”.
Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức
của một trang web và phát hành trên mạng internet [22,17].
1.1.2. Vai trò của báo mạng điện tử trong đời sống xã hội
Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, báo mạng điện tử tuy ra đời sau
những loại hình báo chí khác nhưng đã nhanh chóng phát triển về số lượng,


19

chất lượng và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong đời sống báo
chí, đời sống xã hội của đất nước.
Báo mạng điện tử - kết quả của sự tích hợp giữa cơng nghệ và truyền
thơng, dựa trên nền của internet và sự tích hợp ưu tế của các loại hình báo chí
truyền thống, đã đem lại những giá trị rất lớn cho xã hội. Báo mạng điện tử đã
tạo ra bước ngoặt, làm thay
đổi cách truyền tin và tiếp
nhận thông tin. Báo mạng
điện tử bao gồm nhiều cơng
cụ truyền thống, đó là: văn
bản (text), hình ảnh tĩnh và

đồ

họa

(still

image

&

graphic), âm thanh (audio),
hình ảnh động (video &
animation) và gần đây nhất
là các chương trình tương tác (interactive program). Chính vì vậy, báo điện tử
được xem như biểu tượng điển hình của truyền thơng đa phương tiện, ngày
càng có nhiều người sử dụng.
Báo mạng điện tử không bị giới hạn khn khổ, số trang nên có khả
năng truyền tải thơng tin khơng giới hạn. Vì vậy, nó có thể cung cấp một
lượng thông tin rất lớn, phong phú và chi tiết. Ngồi ra những thơng tin này
cịn được báo mạng điện tử sâu chuỗi lại với nhau theo các chủ đề thông qua
siêu liên kết, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin của độc giả.
Không những thế, thơng tin trên báo mạng điện tử cịn được lưu trữ lâu dài và
khoa học theo ngày tháng, chủ đề, chuyên mục…tạo thành cơ sở dữ liệu để
bạn đọc có thể tìm kiếm nhanh chóng và hiệu quả. Hơn thế nữa, báo mạng
điện tử còn mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một


20

trong các tiện ích phổ thơng của internet là hệ thống thư điện tử (email), trò

chuyện trực tuyến (chat), máy tính truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch
vụ thương mại và chuyển ngân, và các dịch vụ về y tế, giáo dục… Chúng
cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ trên internet. Trung
bình một ngày ở Việt Nam người sử dụng mạng internet dành khoảng từ 5-6
tiếng và ở Mỹ người dùng dành khoảng 9 tiếng để truy cập internet. Nhưng ít
có mấy ai bỏ ra từng ấy thời gian để đọc báo hay xem các chương trình truyền
hình, nghe các chương trình phát thanh.
Báo mạng điện tử không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý nên thơng
tin được truyền tải đi khắp tồn cầu. Nó tiếp cận với độc giả khắp mọi nơi, dù
đó là thành thị, nơng thơn, vùng sâu, vùng xa…Ở bất kì nơi đâu chỉ cần một
chiếc máy tính, một chiếc điện thoại hay máy tính bảng có kết nối internet là
mọi người có thể thỏa sức tìm kiếm các thông tin trên báo mạng điện tử ở tất
cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính tri, văn hóa, xã hội…và nó cho phép mọi
người trên thế giới tiếp cận và đọc không bị phụ thuộc vào không gian và thời
gian. Báo mạng điện tử giúp mở cánh cửa tri thức cho mọi đối tượng trong xã
hội, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia thuận lợi, thực sự trở thành
chiếc cầu nối giữa các nước trên thế giới với nhau.
Báo mạng điện tử đã tạo ra bước ngoặt về quy trình sản xuất thơng tin.
Thơng tin từ khi thu nhận đến khi phát hành đều được diễn ra rất nhanh
chóng, với những thao tác hết sức đơn giản. Ngồi ra, báo mạng điện tử
khơng có trọng lượng, không bị tốn kém trong việc in ấn phát hành và chỉ
phát hành một bản duy nhất cho tất cả các độc giả. Còn độc giả chỉ phải bỏ ra
một số tiền nhỏ (tương đương với các loại hình báo chí khác) nhưng lại có thể
chủ động tiếp nhận một lượng thông tin lớn gấp nhiều lần.
Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng khác, báo mạng điện tử
ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả xã hội to lớn hơn. Hơn thế nữa, báo


21


mạng điện tử cịn chắp cánh cho các loại hình báo chí trên bay xa hơn, giúp
khuếch trương hình hình mọi lúc, mọi nơi. Đơn cử như trường hợp của báo
Thanh Niên, sau hơn một năm có thêm báo mạng điện tử, tyra của báo in
không những không tụt mà cịn tăng lên 25%. Bây giờ, Thanh Niên khơng
chỉ hiện diện hạn hẹp trong khuôn khổ quốc gia nữa mà đã có mặt trên tồn
thế giới.
Báo mạng điện tử đã và đang có một vị trí xứng đáng, trở thành món ăn
tinh thần khơng thể thiếu được trong đời sống người dân bởi sức mạnh thực
sự của nó. Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử sẽ như vũ bão trong thời
gian tới, số lượng người truy cập sẽ ngày càng tăng lên nhanh chóng, tạo ra sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình truyền thơng.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, báo mạng điện tử cũng tồn
tại nhiều hạn chế, như: độ chính xác của thông tin trên báo mạng điện tử
không bằng thông tin trên các loại hình báo chí khác. Lượng thơng tin khổng
lồ khiến người đọc bị nhiễu, choáng ngợp, mất tập trung và đơi khi khơng có
khả năng lựa chọn thơng tin nào tốt, đáng tin cậy cho mình. Thêm nữa, nhiều
thông tin trên báo mạng điện tử quá chi tiết hay tủn mủn, sa đà vào giật gân,
câu khách…Hơn nữa, tồn bộ nội dung thơng tin gần như bị phụ thuộc vào sự
ổn định của hệ thống máy móc. Khi gặp các sự cố như cháy, hỏng, virut phá
hoại, tin tặc tấn cơng…thì nội dung lưu trữ có thể bị chỉnh sửa, làm sai lệch
hồn tồn hoặc khó khơi phục lại. Do vậy công tác quản lý thông tin trên báo
mạng điện tử cũng khó khăn hơn các loại hình báo chí.
Hiện nay, cả nước có trên 60 báo điện tử, gần 200 trang tin của cơ quan
báo chí và trên 280 trang thông tin điện tử tổng hợp; 63/63 tỉnh, thành phố,
22/22 bộ, ngành đã có cổng thơng tin điện tử hoặc trang tin điện tử; gần 20
nhà đăng ký tên miền Việt Nam, trên100 nhà đăng ký tên miền quốc tế và hơn
25 doanh nghiệp đang cung cấp dịch vụhosting tại Việt Nam. Con số thống kê


22


nêu trên cho thấy, tốc độ ứng dụng công nghệ thơng tin của Việt Nam là khá
tốt và có kết quả rất đáng khích lệ, góp phần tích cực nâng cao dân trí, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu xây
dựng đất nước “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Người
dùng internet ở nước ta nhìn chung có trình độ học vấn tương đối khá; phần
lớn là học sinh, sinh viên, trí thức, cơng chức, viên chức. Đối với họ, ngồi
nhu cầu học tập, tìm kiếm thơng tin bổ ích qua các báo, tạp chí và trang thông
tin điện tử chính thống, cịn truy cập vào các tờ báo điện tử và các trang mạng
xã hội, các trang web nước ngoài, cácblog, diễn đàn, Youtube (kênh video
trực tuyến)... Với báo chí điện tử trong nước, bên cạnh thế mạnh và ưu điểm
cơ bản, một số báo và trang thông tin điện tử của ta cịn thiếu nhạy bén chính
trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hoá, xa rời tơn chỉ, mục đích, đối
tượng phục vụ. Cùng với những báo, tạp chí điện tử đã được cấp phép đúng
luật, xuất hiện nhiều website không phải là cơ quan báo chí nhưng hoạt động
và đăng tải thơng tin như một cơ quan báo chí, viphạm Luật Báo chí và các
quy định pháp luật khác.
Ở bên ngoài, lợi dụng internet, các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng hoạt
động chống đối, xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam với nhiều phương
thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng xây dựng các trang web,
đặt máy chủ ở ngồi Việt Nam; đăng tải thơng tin, luận điệu sai trái, kích
động chống phá ta. Từ giữa 2009 đến nay,chúng tập trung vào hoạt động
tuyên truyền phá hoại Đại hội XI của Đảng; xuyên tạc Nghị quyết và các văn
kiện của Đại hội XI; bơi nhọ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước;
phủ nhận thành tựu cơng cuộc đổi mới, kích động một sốngười dân biểu tình
vì lý do “bảo vệ chủ quyền biển đảo’’, vụ “40 Nhà Chung”, vụ “Tiên Lãng”,
vụ “Văn Giang”... nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm ảnh
hưởng đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Ngoài những trang web, blog,



23

diễn đàn có nội dung phản động được hosting ở nước ngoài, thời gian gần
đây, xuất hiện một số trang web sử dụng tên miền Việt Nam (tên miền .vn)
hoặc tên miền quốc tế nhưng được hosting tại Việt Nam đăng tải tài liệu,
truyện, tranh, ảnh, video clip có nội dung độc hại, đồi trụy, bạo lực, trái thuần
phong mỹ tục của dân tộc.
Từ thực tế trên cho thấy, báo mạng điện tử đóng vai trị vơ cùng lớn
trong đời sống xã hội hiện đại, nhưng cũng qua đó cũng thấy được tính hai
mặt của internet và báo mạng điện tử, thể hiện nhiều bất cập trong công tác
quản lý báo chí, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội.
1.2. Các điểm nóng chính trị-xã hội và thơng tin về các điểm nóng
chính trị -xã hội trên báo mạng điện tử.
1.2.1. Khái niệm
 Điểm nóng xã hội
"Điểm nóng" là một khái niệm được dùng trong cả lĩnh vực tự nhiên và
xã hội, nhưng ở phạm vi bài viết này chỉ đề cập và tìm hiểu “điểm nóng” trong
lĩnh vực xã hội. Theo TS.Nguyễn Quốc Tuấn: “Trong sự tồn tại của mình, sự
vật không phải lúc nào cũng phát triển một cách đều đặn bình thường mà vào
một khoảng thời gian và khơng gian nào đó, nó ở trong trạng thái khơng bình
thường và sắp xảy ra một sự biến đổi khác thường. Người ta gọi đó là “điểm
nóng”” ( />"Điểm nóng" đã từng xuất hiện ở nước ta trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế - xã hội và đang tiếp tục xảy ra trong giai đoạn đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi tình hình thực tế ở một số địa phương có sự
khiếu nại tố cáo đơng người, vượt cấp, phức tạp, có những xung đột căng
thẳng giữa dân với dân, giữa dân với cán bộ chính quyền địa phương thì khái
niệm “điểm nóng” bắt đầu được dùng khá rộng rãi trong đời sống và xuất hiện



24

trong một số văn bản của các cơ quan nhà nước mà chủ yếu là các văn bản của
thanh tra, viện kiểm sát, cơng an, tịa án. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng gây ra
nhiều ý kiến tranh luận. Có nơi, có người khơng dùng từ “điểm nóng” mặc dù
tình hình ở đó cũng rất phức tạp. Thậm chí cịn có địa phương ra nghị quyết
khẳng định ở địa bàn mình khơng có “điểm nóng”, khơng được gọi “điểm
nóng”. Nhiều địa phương, nhiều ngành đã xác định “điểm nóng” theo các tiêu
thức riêng của mình, thậm chí theo quan điểm cá nhân của từng người. Do
vậy, việc đánh giá diễn biến tình hình ở cơ sở khơng đồng nhất, có nơi chỉ
“sốt nhẹ” nhưng đã xác định là “điểm nóng”, ngược lại có nơi “nóng” thật sự
nhưng vì những lý do khác nhau mà không được xác định là “điểm nóng”. Cả
hai khuynh hướng trên đều dẫn tới hậu quả là cấp ủy đảng và chính quyền các
cấp đã có nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo không phù hợp, từ đó làm giảm
hiệu quả, hiệu lực của các quyết định giải quyết. Thậm chí có nơi, có lúc cịn
làm tình hình thêm phức tạp. Vậy hiểu thế nào cho đúng thực chất của vấn đề?
Đã đến lúc cần phải có một định nghĩa (hoặc khái niệm) về “điểm nóng”
và xác định các tiêu chí, các yếu tố đặc trưng của “điểm nóng” để làm cơ sở
cho việc đánh giá diễn biến tình hình khiếu nại, tố cáo, diễn biến các mâu
thuẫn xảy ra trong từng địa phương, từng ngành và tồn quốc góp phần vào
việc đánh giá, phân loại chính xác cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở
đảng. Đồng thời, cần đầu tư nghiên cứu để đề ra các biện pháp giải quyết
có hiệu quả “điểm nóng”, cũng như các biện pháp làm hạn chế phát sinh
“điểm nóng”.
Trong những năm gần đây, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều
phải đối mặt với những bất ổn xã hội. Những bất ổn xã hội kéo dài đã dẫn đến
những xung đột xã hội với xu hướng ngày càng đa dạng, phức tạp và phát
sinh trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Xung đột là khi hai hay nhiều bên
có các mục tiêu đối lập do nhận thức, tìm cách phá hoại khả năng đạt được



25

mục tiêu của nhau [17,514]. Tác động của xung đột đối với con người là rất
lớn, vừa mang tính tích cực, tất yếu khách quan, vừa mang tính tiêu cực nếu
khơng được quản lý tốt.
Tình hình thực tiễn nước ta thời gian qua cho thấy, tình trạng khiếu nại,
tố cáo của cơng dân, những cuộc đình cơng, biểu tình, những vụ chống người
thi hành cơng vụ... có chiều hướng ngày càng gia tăng:
Trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, trong năm 2010, cả nước phát sinh trên
112.000 vụ khiếu nại, tố cáo, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó
70% vụ việc xảy ra trong lĩnh vực đất đai, gần 5% vụ việc liên quan nhà ở,
đòi nhà cho thuê mượn, nhà thuộc diện cải tạo, còn nữa là các vụ việc liên
quan đến hoạt động tư pháp, khiếu nại, tố cáo khác. Cụ thể: Về khiếu nại, cả
nước phát sinh gần 380.000 lượt đơn khiếu nại với gần 99.000 vụ việc, so với
cùng kỳ năm 2009 tăng gần 30% số đơn và hơn 19% số vụ việc. Về tình hình
tố cáo, cả nước phát sinh gần 23.000 lượt đơn tố cáo, với tổng số hơn 13.000
vụ việc, so với cùng kỳ năm 2009 tăng 29,3% đơn và tăng 4,8% số vụ việc.
Thống kê của Bộ Tài nguyên và Mơi trường, giai đoạn 2003-2006, khiếu
nại hành chính và tố cáo về đất đai chiếm khoảng 70% tổng lượng khiếu - tố
của người dân. Đến năm 2009 tỷ lệ này là 80%, nhưng từ năm 2010 đến nay,
con số này đã tăng lên tới 90%. Trong số các vụ việc khiếu - tố về đất đai của
người dân, số vụ khiếu - tố về giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
thường chiếm tỷ lệ cao và xảy ra ở những địa phương đang đẩy mạnh việc
chuyển đổi quỹ đất nông nghiệp sang phát triển các khu cơng nghiệp, đơ thị...
Về vấn đề đình cơng: Tại hội nghị "Tổng kết tình hình năm 2011 và triển
khai nhiệm vụ năm 2012", Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, từ
năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy ra hơn 4.100 cuộc đình cơng. Riêng năm
2011, cả nước xảy ra 857 cuộc đình cơng, tăng gấp đôi so với năm 2010.



×