Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đảng bộ tỉnh đồng nai lãnh đạo xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng từ năm 2000 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.82 KB, 95 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

DƯƠNG HUY ĐỨC

ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trần Thị Thu Hương

Hà Nội, 09/2011


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
Chương 1: CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ


XXI (2000-2005)…………………………………………………………….10
1.1. Vai trị, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong tiến trình cách mạng
Việt Nam.........................................................................................................10
1.2. Thực trạng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trước năm 2000………………15
1.3. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện xây dựng và phát triển tổ
chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2000-2005)………………….24
Chương 2: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH ĐỔI
MỚI TOÀN DIỆN (2005-2010)……………………………………………36
2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng và phát triển
tổ chức cơ sở Đảng đáp ứng nhiệm vụ chính trị mới………………………..36
2.2 Q trình tổ chức chỉ đạo thực hiện và kết quả xây dựng, phát triển tổ
chức cơ sở đảng ở Đồng Nai trong những năm 2005 đến năm 2010………..47
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM…………………..62
3.1. Kết quả xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai từ năm 2000 đến năm 2010………………………………….62
3.2. Một số kinh nghiệm………………………………………...........69
KẾT LUẬN…………………………………………………………............81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….............83
PHỤ LỤC…………………………………………………………………...89


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những bài học quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam khi
tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986-2006) là phải nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khơng ngừng đổi mới hệ thống

chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của đổi mới. Phải tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm
quyền của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt.
Đảng phải thực sự tiêu biểu cho danh dự, lương tâm, trí tuệ của dân tộc, đủ
năng lực đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời để định hướng cho hoạt
động của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội nói chung.
Tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân lãnh đạo thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết chủ trương của cấp trên
tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo xây dựng đơn vị cơ sở trong sạch, vững mạnh, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm
xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị qua các thời kỳ cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng
mới, đây là nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách.
Trong thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định phải kiện toàn và đổi mới hoạt
động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên, làm cho
mỗi tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm tổ chức và quy tụ được sức mạnh của
toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, mỗi Đảng viên thực sự
tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức
kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Phải kiện toàn hệ thống tổ chức cơ


4

sở đảng, thể chế hóa về mặt nhà nước vai trị, chức năng, nhiệm vụ của các
loại hình tổ chức cơ sở đảng; gắn việc nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên
với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng. Tuy nhiên, năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của khơng ít tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán

bộ, Đảng viên ở cơ sở còn nhiều mặt yếu kém, chưa ngang tầm yêu cầu,
nhiệm vụ trong điều kiện mới. Việc vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của
các tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ sức giải quyết nhiều vấn đề phức tạp
xảy ra ở cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng tỉnh Đồng Nai cũng nằm trong tình trạng chung đó.
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đến năm 2010 có 949 tổ chức cơ sở đảng với 47.101
đảng viên, trong đó có 171 tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn. Trong
những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, các tổ chức cơ sở
đảng tồn tỉnh đã có đóng góp quan trong làm cho bộ mặt kinh tế-xã hội tỉnh
nhà được đổi mới, kinh tế tăng trưởng khá cao và tương đối ổn định, thu nhập
bình qn đầu người (GDP) ln đạt và vượt mục tiêu nghị quyết đề ra, đã
giải quyết cơ bản nhu cầu ăn, ở và sinh hoạt của nhân dân. Cơ cấu kinh tế, đời
sống vật chất, tinh thần, bộ mặt xã hội Đồng Nai có nhiều chuyển biến rõ nét.
Các tổ chức cơ sở đảng trong tỉnh, trong đó có các cơ sở đảng ở vùng có đơng
đồng bào theo đạo Thiên chúa đã kiên trì đường lối đổi mới, kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khắc phục nhiều khó khăn, vượt qua mọi
thử thách để vươn lên.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn, một số tổ chức cơ sở đảng, trong
đó có nhiều tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn đã bộc lộ những điểm
yếu như: công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với đảng viên, quần chúng
nhất là đảng viên và quần chúng có đạo chưa cụ thể, thiếu thích hợp, cơng tác
định hướng dư luận có việc, có lúc chưa kịp thời. Năng lực lãnh đạo của một


5

số cấp ủy cơ sở chưa toàn diện, phương thức lãnh đạo, phương pháp làm việc
chậm đổi mới. Chất lượng sinh hoạt ở một số tổ chức cơ sở đảng cịn thấp.
Cơng tác phát triển đảng viên mới ở một số cấp ủy có khuynh hướng chạy

theo số lượng chưa quan tâm đến chất lượng. Một số cấp ủy cơ sở cịn xảy ra
tình trạng vi phạm ngun tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.v.v.
Do vậy, đi sâu tìm hiểu quá trình xây dựng và phát triển của tổ chức cơ
sở đảng của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trong những năm đẩy mạnh công cuộc
đổi mới là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa cả về tổng kết thực tiễn và lý luận xây
dựng Đảng. Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh
đạo xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở Đảng từ năm 2000 đến năm 2010”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở
nước ta hiện nay, thời gian qua đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập đến
vấn đề này với các mức độ và phạm vi khác nhau. Các cơng trình nghiên cứu
có liên quan được chia thành các nhóm như sau:
- Nhóm nghiên cứu liên quan đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng.
“Tổ chức và hoạt động của chi bộ Đảng”, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; “Về nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng”, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng”, Giáo trình xây
dựng Đảng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện xây dựng Đảng,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004; “Một số vấn đề xây dựng tổ chức cở sở
đảng hiện nay”, Nguyễn Đức Hà, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;
“Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nơng thơn vùng
cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


6

nước”, Nguyễn Đức Ái (2000), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây
dựng Đảng; “Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên vùng có đồng bào cơng

giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay”,
Nguyễn Văn Giang (2003), Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng
Đảng; “Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng bào theo đạo Thiên
chúa ở miền Bắc hiện nay”, Viện Mác- Lê nin, Đề tài khoa học cấp bộ.
Các bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học: Về xây dựng các tổ chức cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh, Lê Quang Thưởng, Tạp chí Cộng sản số 2,
1997; Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính
quyền cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 19, 2001; Mấy giải pháp xây dựng tổ chức
cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, Nguyễn Hữu Mộc, Tạp chí xây dựng
Đảng, số 2, 2001; Xây dựng tổ chức cơ sở đảng và phát triển đảng viên trong
khu vực kinh tế có vốn đấu tư nước ngồi hiện nay, Ngơ kim Ngân, Tạp chí
Lịch sử Đảng, 2001; Phát huy dân chủ trong cơ chế Đảng cầm quyền ở nước
ta hiện nay, Nguyễn Văn Hun, Tạp chí Cộng sản số 13, 2003
- Nhóm nghiên cứu liên quan trực tiếp đến xây dựng tổ chức cơ sở
đảng ở tỉnh Đồng Nai.
Riêng ở tỉnh Đồng Nai, những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, các ban, ngành của tỉnh đã tổ chức nghiên cứu, quán triệt
một số nội dung của công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, một số cơng trình
khoa học như:
“Nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của các tổ chức cơ sở đảng
trong vùng có đông đồng bào theo đạo Thiên chúa ở tỉnh Đồng Nai”, Ban Tổ
chức Tỉnh ủy Đồng Nai; “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng vùng có đơng đồng bào theo đạo Thiên chúa ở tỉnh Đồng
Nai hiện nay”, Phan Thanh Kiều (2000), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên
ngành xây dựng Đảng; “Đổi mới hình thức giáo dục chính trị- tư tưởng cho


7

cán bộ, đảng viên ở Đồng Nai hiện nay”, Nguyễn Minh Thanh, Luận văn

Thạc sĩ khoa học Chính trị, chuyên ngành cơng tác tư tưởng.
Các cơng trình nêu trên, ở những nội dung, mức độ khác nhau, đã đề
cập đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Tuy nhiên, cho đến nay, có thể nói
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ các nội
dung của công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong những năm 2000 đến
năm 2010 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ Lịch sử Đảng, để từ đó rút
ra những nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm và những kinh nghiệm để
tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ cứu của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai trong 10 năm (2000-2010) nhằm đánh giá một cách khách quan ưu
điểm, khuyết điểm và đúc rút một số kinh nghiệm góp phần xây dựng tổ chức
cơ sở đảng ở tỉnh Đồng Nai trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
của tỉnh trong điều kiện mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Đồng
Nai và những yêu cầu cấp thiết đặt ra với công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng ở tỉnh Đồng Nai trong những năm 2000-2010.
- Hệ thống khái quát chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện
của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai quán triệt đường lối của Đảng về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng từ năm 2000 đến 2010.
- Khảo sát thực trạng của công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở tỉnh
Đồng Nai trên một số địa bàn trọng điểm trong những năm 2000-2010, đánh


8

giá ưu, khuyết, nguyên nhân của thực trạng trên và từ đó đúc kết một số kinh

nghiệm chủ yếu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện của
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở tỉnh Đồng
Nai trong những năm 2000-2010.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2010.
+ Nội dung: Tổ chức cơ sở đảng ở đảng bộ Đồng Nai có nhiều loại
hình, tuy nhiên luận án chỉ tập trung nghiên cứu loại hình tổ chức cơ sở đảng
là các Đảng bộ xã, thị trấn.
+ Không gian: Khảo sát, chủ yếu tập trung ở các Đảng bộ cơ sở xã, thị
trấn thuộc hai Đảng bộ huyện Long Thành và huyện Nhơn Trạch của tỉnh
Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, quan điểm
của Đảng về công tác xây dựng Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp lô gic- lịch sử, ngồi ra cịn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tiễn.
6. Cái mới của luận văn.
- Từ đánh giá một cách khách quan thực trạng của công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng ở Đồng Nai trong những năm 2000-2010, đúc rút một số
kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng Đảng ở tỉnh
Đồng Nai đáp ứng u cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng đối với Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn


9


trên địa bàn tỉnh và phục vụ cho việc giảng dạy ở Trường chính trị, các trường
Cao đẳng tại địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để thống nhất nhận thức đánh
giá và cung cấp luận cứ khoa học cho các cấp ủy Đảng của tỉnh Đồng Nai,
đặc biệt là các cấp ủy cơ sở đề ra những chủ trương, giải pháp thiết thực, phù
hợp nhằm xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Ngồi ra, đề tài cịn làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, học tập và có thể tham khảo ứng dụng trong công tác xây
dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng cho cán bộ, đảng viên và các địa
phương khác.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
luận văn gồm 3 chương và 7 tiết và được trình bày trong hơn 90 trang khổ A4.


10

Chương 1
CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CỦA ĐẢNG
BỘ TỈNH ĐỒNG NAI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
(2000-2005).
1.1. Vai trị, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong tiến trình cách
mạng Việt Nam.
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
C. Mác, Ph. Ăngghen đã đưa ra quan điểm này và trực tiếp thực hiện trong
quá trình xây dựng các tổ chức cộng sản như Liên đoàn những người cộng
sản, Quốc tế thứ nhất và các đảng Cộng sản của Quốc tế thứ hai. Trong Điều
lệ Liên đoàn những người cộng sản đã ghi: “Về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi
bộ, khu bộ, tổng bộ, Ban chấp hành Trung ương và Đại hội” [8, Tr 214]. Như

vậy tổ chức cơ sở đảng là một bộ phận cấu thành nên tảng, khơng có tổ chức
cơ sở đảng thì khơng có Đảng, sự vững chắc từ nền tảng của Đảng bảo đảm
chắc chắn cho sự vững chắc của toàn Đảng.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra cơ cấu tổ chức Liên đồn gồm 4 cấp,
trong đó chi bộ là cấp cuối cùng (cấp cơ sở); giai đoạn này chi bộ của liên
đồn được thành lập dưới hình thức các hội bí mật trong các hội cơng nhân.
“chi bộ gồm ít nhất là 3 và nhiều nhất là 20 hội viên của Liên đoàn…sống
trong cùng một địa phương” [9, Tr 133-134]. Những quan điểm của Các
Mác- Ph.Ăngghen về tổ chức cơ sở đảng tuy chưa đầy đủ nhưng đã là cơ sở
quan trọng để V.I.Lênin phát triển và xây dựng thành hệ thống tư tưởng, quan
điểm đối với chính Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân.
V. I. Lênin đã kế thừa, phát triển quan điểm đó và áp dụng vào xây dựng
Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga, một đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân. V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh và quan tâm việc thành lập chi bộ của
Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga ở nhà máy, công xưởng, quân đội, các


11

địa phương và coi trọng xây dựng các chi bộ đó trở thành hạt nhân lãnh đạo ở
cơ sở. Người nhấn mạnh “mỗi nhà máy phải là một thành trì của Đảng [61, Tr
17].
Quan điểm các chi bộ là nơi kết nạp, phân công công tác và quản lý đảng
viên của C.Mác và Ph. Ăngghen được Lênin kế thừa, phát triển ở mức độ cao
hơn. Ông coi tổ chức cơ sở đảng là nơi giáo dục, rèn luyện, phân công công
tác, quản lý, sàng lọc đảng viên để họ luôn thực sự là người chiến sĩ tiên
phong của giai cấp. V.I. Lênin đã đưa ra luận điểm và cũng là nguyên tắc cơ
bản quan trọng nhất là mỗi đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với đảng bằng việc
tự mình tham gia sinh hoạt và hoạt động ở một trong những tổ chức cơ sở
đảng [62, Tr 268]. Đây là điều bắt buộc nghiêm ngặt đối với mỗi đảng viên

và chính điều bắt buộc nghiêm ngặt ấy đã có tác dụng rất lớn, làm cho hoạt
động của mọi đảng viên được định hướng rõ rệt theo quan điểm của tổ chức
đảng; là cơ sở của việc tăng cường tính tổ chức, tính kỷ luật của đảng viên; là
cơ sở để thống nhất ý chí và hành động, làm cho tổ chức đảng kiểm tra được
hoạt động của đảng viên và buộc đảng viên thực hiện nghị quyết của mình,
góp phần quan trọng loại trừ những phần tử cơ hội khỏi đảng, không cho
những phần tử cơ hội khác chui vào đảng. Thông qua hoạt động của chi bộ, tổ
chức Đảng kiểm soát, kiểm tra được đảng viên thực hiện Nghị quyết của
Đảng. V.I. Lênin dùng thuật ngữ tổ chức cơ sở đảng và chỉ rõ các chi bộ là
các tổ chức cơ sở đảng, trong tác phẩm Về việc cải tổ Đảng và một số bài viết
V.I. Lênin đã phân tích và khẳng định: Các tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân tổ
chức cơ bản của Đảng và đòi hỏi Đảng phải tìm mọi cách làm cho các tổ chức
cơ sở đảng đạt được điều này trên thực tế chứ khơng phải trên lời nói.
Tổ chức cơ sở đảng gần quần chúng nhất, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng
với quần chúng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, là hạt nhân chính trị của các


12

tập thể lao động, nơi tuyên truyền giáo dục, dẫn dắt quần chúng thực hiện
đường lối chủ trương chính sách của Đảng.
Nhiệm vụ trung tâm của đảng cầm quyền là lãnh đạo kinh tế. Trong điều
kiện này, V.I. Lênin đã đánh giá cao vai trò của tổ chức cơ sở đảng. Người đã
tơn trọng và đề cao tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức cơ sở đảng trong
việc thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng. Khi Đảng lãnh đạo
tồn diện cơng cuộc xây dựng CNXH, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
khơng chỉ bó khn trong việc chủ yếu là tuyên truyền, cổ động, truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin như trong điều kiện hoạt động bí mật hoặc làm nhiệm
vụ chủ yếu là trang bị những kiến thức tối thiểu về quân sự cho công nhân để
chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền và bảo vệ chính quyền non trẻ, mà cịn

chủ yếu tham gia vào việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế- xã hội to lớn,
gắn liền với việc tổ chức và lãnh đạo thi đua XHCN, hạch toán kinh tế, áp
dụng khoa học kỹ thuật và xây dựng CNXH. Tính chủ động, sáng tạo của tổ
chức cơ sở đảng là nhân tố quan trọng làm nảy sinh những điển hình tiên tiến,
những kinh nghiệm quý trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng CNXH.
V.I. Lênin chỉ rõ: “Phải đem sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát huy
mọi tính chủ động lớn hơn ở cơ sở”. [63, Tr 279].
Quan điểm cho rằng, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân
chính trị ở cơ sở đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kế thừa, phát triển
sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta, thể hiện trong điều kiện Đảng lãnh
đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cũng như lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc, kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta ln nhấn mạnh vị trí, vai trò của các chi bộ, đảng
bộ cơ sở; các chi bộ, đảng bộ cơ sở là “tổ chức cơ bản của đảng”, là “nền
tảng”, “nền móng” của Đảng; là hạt nhân chính trị ở cơ sở; là “dây chuyền”


13

để Đảng liên hệ với nhân dân; chất lượng của chi bộ, đảng bộ cơ sở là một
trong những yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “ Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do
chi bộ tốt”, “Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây dựng nền cho vững, muốn
thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ”.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng
như: giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc cho Đảng viên, kiểm
tra và quản lý đảng viên, kết nạp đảng viên, xem xét kỷ luật đảng viên và đưa
người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi đảng; là nơi đào tạo, rèn luyện cán

bộ của Đảng. Chi bộ, đảng bộ cơ sở là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của nhân dân phản ánh với đảng để đảng đề ra đường lối, chính sách
đúng đắn, hợp lịng dân, định hướng hoạt động và uốn nắn những lệch lạc của
các tổ chức, đoàn thể ở cơ sở. Hoạt động của chi bộ, Đảng bộ cơ sở ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín, thanh danh của Đảng trong nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: Chi bộ tốt thì “kinh qua chi bộ mà Đảng càng được
dân tin, dân phục, dân yêu”.
Tổ chức cơ sở Đảng đưa đường lối, chính sách của Đảng vào nhân dân,
tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu và lãnh đạo nhân dân thực hiện. Tổ
chức cơ sở đảng còn là nơi kiểm nghiệm, khẳng định sự đúng đắn của đường
lối, chính sách của Đảng, đóng góp cho đảng những sáng kiến, những kinh
nghiệm để đảng bổ sung, hồn chỉnh đường lối chính sách và đề ra chủ
trương, chính sách mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò nền tảng của tổ chức cơ sở đảng
được thể hiện trong mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Đây là
lý do, là cơ sở, điều kiện để đảng tồn tại và có sức mạnh. Sự đồng tình, ủng hộ
của quần chúng ln ln là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng. Sự


14

ăn sâu, bám chắc của các tổ chức cơ sở đảng trong quần chúng làm cho đường
lối, chính sách đúng của Đảng nhanh chóng được quần chúng tiếp nhận và
thực hiện. Người viết: “ chi bộ là gốc rễ của đảng ỏ trong quần chúng. Chi bộ
tốt thì mọi chính sách của đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến
bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì cơng việc khơng trơi chảy” [35,
161-162]. Như vậy chi bộ là người tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân,
là hạt nhân đoàn kết giữa đảng với dân và đoàn kết trong nội bộ Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của đảng và hạt nhân lãnh đạo chính trị ở
cơ sở, có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức của đảng. Tổ chức

cơ sở đảng là nơi trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách, nghị quyết, chỉ thị của đảng, pháp luật của Nhà nước. Sự vững
mạnh của các tổ chức cơ sở đảng góp phần quan trọng vào sự vững mạnh của
tồn đảng. Vì vậy việc chăm lo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng trong sạch, vững mạnh là vấn đề quan trọng, bức thiết.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vận dụng những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng nói riêng và xây dựng đảng nói chung, không ngừng phấn
đấu để đảng luôn vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu ngày càng cao
của cách mạng.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trị rất
to lớn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đảng khẳng định:
“Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở
mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức
cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng” [10, tr 20].


15

Điều lệ Đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
thông qua đã chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền
tảng của đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở” [ 11, tr 25; 32].
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng đã đề ra
Nghị quyết quan trọng về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, nhằm đưa các tổ chức trong hệ thống chính trị
cơ sở, nhất là tổ chức cơ sở đảng ở những địa bàn này lên tầm cao mới đáp
ứng yêu cầu của cách mạng.
Tổ chức cơ sở đảng của đảng ta rất đa dạng, gồm nhiều loại: tổ chức cơ

sở đảng ở nông thôn, ở phường, trong doanh nghiệp nhà nước, đơn vị hành
chính sự nghiệp, ở cơ quan…Từng loại tổ chức cơ sở đảng ngoài những điểm
chung cịn có các đặc điểm riêng, do đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị cơ sở quy
định. Tuy nhiên, các tổ chức cơ sỏ đảng đều có chức năng chung, chủ yếu là
hạt nhân lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của
Nhà nước, nghị quyết, chủ trương của cấp trên tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo xây
dựng đơn vị cơ sở trong sạch, vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
Là lực lượng lãnh đạo tại cơ sở, phạm vi lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
rất rộng lớn, lãnh đạo tất cả hoạt động xây dựng nội bộ tổ chức cơ sở đảng,
tham gia vào công tác xây dựng đảng của tổ chức đảng cấp trên và toàn đảng;
lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn cơ sở; lãnh đạo chính
quyền, các đồn thể, các tổ chức xã hội ở cơ sở. Trong quá trình lãnh đạo, tổ
chức cơ sở đảng không can thiệp quá sâu, không bao biện, làm thay cơng việc
cụ thể của chính quyền, các đồn thể và các tổ chức xã hội.
1.2. Thực trạng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng
và phát triển tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trước năm
2000.


16

1.2.1. Đặc điểm địa lý, lịch sử và tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Đồng
Nai tác động đến công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km về
hướng Tây. Tỉnh Đồng Nai phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp
biển và tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, phía Tây giáp tỉnh Bình Dương, tỉnh Bình
Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, phía Đơng giáp tỉnh Bình Thuận.
Đất Đồng Nai theo nhà sử học Lê Quý Đôn viết trong “Phủ biên tạp

lục” là tên gọi của cả vùng đất Nam bộ rộng lớn: “...Ở phủ Gia Định, đất
Đồng Nai từ cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Đại, Cửa tiểu trở vào toàn là
rừng rậm hàng ngàn dặm...” [ 42, tr 12].
Năm 1698, Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) được chúa Nguyễn
Phúc Chu cử vào kinh lược xứ Đàng trong, ông đã xây dựng hệ thống hành
chính và thiết chế xã hội của người Việt ở Nam Bộ: “Lấy đất Nông Nại làm
phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng Dinh Trấn
Biên, lập xứ Sài Gịn làm huyện Tân Bình, dựng Dinh Phiên Trấn, mỗi dinh
đặt một chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị” [ 42, tr 12].
Từ năm 1698 đến nay, địa lý hành chính của Đồng Nai nhiều lần thay
đổi theo sự biến thiên của lịch sử với các tên gọi: Trấn Biên (1698), Trấn Biên
Hòa (1808), tỉnh Biên Hòa (1832), đến năm 1957, chính quyền Sài Gịn cắt
huyện Xn Lộc lập tỉnh Long Khánh. Với cách mạng, trong 30 năm kháng
chiến (1945-1975), do yêu cầu của chiến trường, địa bàn Đồng Nai nhiều lần
tách nhập, hình thành các tỉnh với tên gọi: tỉnh Biên Hòa, Thủ Biên, Bà RịaLong Khánh, Bà Biên, Phước Thành, U1, phân khu thủ Biên, Phân khu 4,
Thành phố Biên Hòa, Phân khu Bà Rịa- Tân Phú.
Tháng 1-1976, tỉnh Đồng Nai được thành lập trên cơ sở sáp nhập các
tỉnh Biên Hịa (nơng thơn, thị xã), Bà Rịa- Long Khánh, Tân Phú. Theo Quyết


17

định của kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khóa VIII lập thêm tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Ba huyện Long Đất, Châu Thành, Xuyên Mộc thuộc tỉnh mới.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 5.894,7 km2 (bằng 1,76% diện tích của cả
nước và bằng 19,4% cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam). Về địa hình,
Đồng Nai hình thành hai vùng, vùng trung du thuộc địa bàn tiếp giáp với Cao
nguyên Lâm Đồng, vùng đồi và đồng bằng.
Đồng Nai có 11 huyện, thị xã, thành phố: thành phố Biên Hòa là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh, thị xã Long Khánh và 09 huyện là

Vĩnh Cửu, Tân Phú, Định Quán, Thống Nhất, Trảng Bom, Xuân Lộc, Cẩm
Mỹ, Long Thành, Nhơn Trạch (trong đó có 03 huyện miền núi là Tân Phú,
Định Quán, Xuân Lộc và nhiều xã thuộc miền núi và vùng sâu, vùng xa).
Về dân số, đến năm 2009, dân số Đồng Nai có 2.483.211 người (xếp
thứ 5/63 tỉnh, thành phố cả nước, chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Thanh Hóa và Nghệ An). Trong đó, tỷ lệ dân số thành thị chiếm 33,2% và dân
số ở nơng thơn chiếm 66,8%. Đồng Nai hiện có trên 40 dân tộc anh em cùng
sinh sống, trong đó dân tộc kinh chiếm 91,4%. Thiên Chúa giáo và Phật giáo
là hai tơn giáo chính ở Đồng Nai, chiếm khoảng 60% dân số. GDP bình quân
đầu người đến năm 2010 đạt 29,6 triệu đồng (tương đương 1.629 USD), tăng
gấp 2,1 lần năm 2005. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh tương đối phát triển; có hệ thống quốc lộ gắn với đường xuyên Á, hệ
thống đường liên tỉnh khá phát triển, có tuyến đường sắt Bắc Nam ngang qua;
có hệ thống cảng sơng, cảng biển phát triển với năng lực hoạt động khá lớn;
ngoài ra trong tương lai khi sân bay quốc tế Long Thành xây dựng xong và đi
vào hoạt động sẽ tạo thuận lợi rất lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Là một địa bàn năng động của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai
thu hút lượng lớn lao động từ mọi miền của đất nước đến làm ăn, sinh sống,


18

phần lớn là lực lượng lao động trẻ với trình độ khá cao, đáp ứng nguồn nhân
lực cho quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Trong lịch sử, Đồng Nai là một tỉnh có vị trí chiến lược trọng yếu về
quân sự và kinh tế. Qua 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, mảnh đất này là nơi đụng đầu quyết liệt, nơi diễn ra cuộc đấu
tranh liên tục và toàn diện giữa ta và địch. Nơi đây thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ đã xây dựng thành một hậu cứ trực tiếp cho Sài Gòn. Đặc biệt trong chiến
tranh xâm lược, địch xây dựng Đồng Nai thành một trung tâm chỉ huy đánh

phá cách mạng ở Miền Đông Nam Bộ. Chúng mở rộng, hiện đại hóa sân bay
chiến lược Biên Hịa và 18 sân bay giã chiến khác, xây dựng nhiều căn cứ
quân sự lớn (Quân đoàn 3 ngụy, Nha cảnh sát, Bộ tư lệnh giã chiến II Mỹ, căn
cứ huấn luyện Nước Trong, kho liên hợp Long Bình...Biên Hịa là nơi địch
lập “phòng tuyến thép” cuối cùng để bảo vệ chế độ Sài Gòn.
Với cách mạng, Đồng Nai là nơi sớm hình thành giai cấp cơng nhân,
đơng đảo là cơng nhân cao su cùng với nông dân lao động là lực lượng nòng
cốt của cách mạng. Ngay từ khi ra đời, Đảng chỉ đạo xây dựng cơ sở cốt cán
trong quần chúng để lãnh đạo quần chúng hành động cách mạng. Trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đồng Nai là
một trong những trung tâm cách mạng với hệ thống căn cứ địa liên hoàn, nơi
đứng chân chỉ đạo của Khu ủy Miền Đông, Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục
miền Nam, là địa bàn quan trọng đứng chân của quân chủ lực ta tiêu diệt sinh
lực và phương tiện chiến tranh Mỹ ngụy, là một hành lang, đầu cầu tiếp nhận
hàng chi viện từ hậu phương miền Bắc cho Miền Đông. Đây cũng là nơi diễn
ra trận quyết chiến đập tan tuyến phịng thủ phía Đơng Sài Gịn của địch, tạo
điều kiện cho Chiến dịch Hồ Chí Minh tồn thắng.
Những địa danh lịch sử như Chiến khu D, chiến khu rừng Sác, các
chiến thắng La Ngà, Sân bay Biên Hòa, Xuân Lộc...gắn liền với những chiến


19

công vang dội, là niềm tự hào của quân, dân Đồng Nai và cả nước. Cũng trên
mảnh đất này đã sản sinh ra hàng ngìn, hàng vạn cán bộ, chiến sỹ, đồng bào,
đồng chí kiên trung, bất khuất, một lịng một dạ chiến đấu hy sinh vì độc lập
tự do của tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân mà tên tuổi của họ đã đi vào
lịch sử hào hùng của dân tộc như một điểm son ngời sáng.
Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng, Đảng bộ Đồng Nai
ngày càng lớn mạnh và trưởng thành. Trải qua mn vàn gian khổ, hy sinh, tổ

chức Đảng vẫn cịn tồn tại giữa lòng dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách
mạng, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Những thành quả đó là kết
tinh của bao xương máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều thế hệ đồng bào, đồng
chí trong tỉnh và đã trở thành truyền thống hào hùng, là tài sản vô giá của địa
phương. Trong quá trình xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng, truyền
thống lịch sử hào hùng của địa phương là minh chứng thuyết phục phục vụ
cho công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống, tạo dựng
niềm tin và lý tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở, góp phần quan trọng
trong cơng tác xây dựng Đảng.
Trong những năm gần đây, Đồng Nai luôn duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, GDP tăng bình quân 13,2%/năm (cao gấp 1,5 lần mức tăng
trưởng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và gấp 1,9 lần mức tăng trưởng
chung của cả nước; trong đó, ngành cơng nghiệp - xây dựng tăng 14,4%/năm,
dịch vụ tăng 14,9%/năm, nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,6%/năm. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp –
xây dựng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên 34,1%
và giảm ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản từ 14,9% cịn 8,7%. GDP bình
qn đầu người (theo giá thực tế) đến năm 2010 đạt 29,6 triệu đồng (tương
đương 1,629 USD) tăng gấp 2,1 lần so với năm 2005 và vượt mục tiêu nghị
quyết của Đảng bộ tỉnh đề ra.


20

Sản xuất công nghiệp phát triển khá, theo hướng hiện đại, năng lực sản
xuất tăng mạnh. Giá trị sản xuất tồn ngành tăng bình qn 18%/năm, trong
đó giá trị sản xuất các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chiếm tỷ trọng
83,8% [40, tr 13].
Tỉnh Đồng Nai có 30 khu cơng nghiệp được Chính phủ phê duyệt với
diện tích 9.573 ha. Các khu cơng nghiệp đóng vai trị quan trọng trong phát

triển các ngành công nghiệp, tạo động lực cho q trình đơ thị hóa, phát triển
dịch vụ; đồng thời tạo điều kiện đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Những điều kiện thuận lợi cơ bản về vị trí địa lý, về truyền thống lịch
sử, nguồn lực lao động dồi dào, sáng tạo, tác phong làm việc công nghiệp,
hiện đại... là cơ sở để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và góp phần
xây dựng, phát triển nhiều loại hình tổ chức cơ sở đảng.
Tuy nhiên, Đồng Nai là tỉnh cơng nghiệp, có nhiều loại hình doanh
nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, liên doanh-liên kết, có vốn đầu tư nước ngoài,
100% vốn nước ngoài...), nên việc xây dựng và phát triển các loại hình tổ
chức cơ sở đảng, việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đường lối chủ trương
của đảng gặp khơng ít khó khăn.
Bên cạnh đó, trên địa bàn Đồng Nai là nơi có đơng đồng bào theo đạo
Thiên chúa vào hàng nhất nhì cả nước (chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh). Lực
lượng giáo dân chủ yếu là di cư 1954, các khu dân cư của giáo dân phần lớn
là do Mỹ-Ngụy xây dựng từ trước năm 1975. Đó là đặc điểm có ảnh hưởng
đến chất lượng chính trị của vùng có đơng giáo dân ở Đồng Nai càng làm cho
vấn đề xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của các
tổ chức cơ sở đảng ở vùng này trở nên yêu cầu cấp bách.
Với những thuận lợi và khó khăn của tình hình kinh tế, xã hội, xây
dựng đảng nêu trên, đặt ra cho Tỉnh Đồng Nai nhiệm vụ xây dựng và phát


21

triển tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức làm trịn vai trị hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở là khâu quan trọng, nhằm góp phần xây dựng
Đảng bộ tỉnh ngày càng vững mạnh đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa tỉnh nhà.
1.2.2. Thực trạng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở tỉnh Đồng Nai trước

năm 2000.
Đến cuối năm 1996, Đảng bộ tỉnh có 675 tổ chức cơ sở Đảng các loại
hình. Trong đó, có 152 Đảng bộ hai cấp (788 chi bộ nhỏ) và 523 chi bộ cơ sở.
Tổng số đảng viên trong toàn tỉnh là 17,098 đồng chí, trong đó có 3,331 đảng
viên nữ, 180 đảng viên người dân tộc thiểu số, 176 đảng viên gốc đạo (có 169
Cơng giáo). Sau Đại hội Đảng các cấp, Tỉnh ủy đã quan tâm chỉ đạo sắp xếp
lại đội ngũ cán bộ chủ chốt từ cơ sở đến cấp tỉnh, xây dựng quy chế làm việc
của các cấp ủy trong nhiệm kỳ mới.
Hoạt động kiểm tra Đảng đã chủ động, tập trung giải quyết những vụ
việc tồn đọng và phát sinh trước, trong và sau Đại hội Đảng các cấp, góp phần
kiện tồn, củng cố tổ chức yếu kém, nâng cao chất lượng đảng viên, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng. Trong 3,661 đảng viên được Ủy Ban Kiểm tra
các cấp và chi bộ cơ sở trực tiếp kiểm tra trong năm 1996 có 45 trường hợp vi
phạm (giảm 40% so với năm 1995), và xử lý 29 trường hợp (giảm 29,3%).
Ngày 26-5-1998, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị sơ kết thực hiện Quy định 50
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, Đảng
bộ nông thôn (xã). Thời điểm này, tỉnh Đồng Nai có 8 huyện, 1 thành phố,
163 xã, phường, thị trấn (54 xã và 4 thị trấn miền núi). Có 140 xã, thị trấn với
140 tổ chức cơ sở đảng ở vùng nông thôn (53 Đảng bộ cơ sở, 87 chi bộ cơ sở)
có 5,782 đảng viên, trong đó có 235 đảng viên hưu trí mất sức, đảng viên trẻ
chiếm tỷ lệ thấp.


22

Trong những năm 1996-2000 là giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng của
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Quán triệt nghị
quyết Đại hội VIII của Đảng, Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ VI đã đề ra
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đối với công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng. Quá trình chỉ đạo thực hiện đạt được những kết quả tích cực.

Cơng tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng luôn được Đảng bộ tỉnh
coi là nhiệm vụ hàng đầu. Việc thực hiện Nghị quyết 27/TU, Nghị quyết
09/TW và Nghị quyết 01/TW của Bộ Chính trị về cơng tác giáo dục, bồi
dưỡng nâng cao nhận thức lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cán bộ, đảng viên được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, đồng thời đẩy
mạnh công tác giáo dục rèn luyện về đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch,
lành mạnh trong cán bộ, đảng viên thông qua triển khai các đợt học tập về đạo
đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; quán triệt Nghị quyết TW 5,
NQTW 6 (lần 2) của Trung ương Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được hầu hết đảng viên và tổ chức cơ sở
đảng chấp hành nghiêm túc. Công tác xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng
được các cấp ủy quan tâm tập trung chỉ đạo. Đã thực hiện thống nhất quy định
ngày sinh hoạt cơ sở đảng trong toàn tỉnh. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng hàng năm
đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh được nâng lên, bình quân trong nhiệm
kỳ 1996-2000 đạt 69,5% (cao hơn 12,2% bình quân nhiệm kỳ trước).
Đội ngũ đảng viên không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Đến tháng 12 năm 2000 tồn Đảng bộ có 22.753 đảng viên đang sinh hoạt ở
706 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 4,768 đảng viên nữ, 1,640 đảng viên dự
bị. Kết quả đánh giá chất lượng hàng năm phần lớn đảng viên đều đủ tư cách
đảng viên mức 1 như: năm 1996 đạt 88,4%,. Năm 1997 đạt 88,50%, năm
1998 đạt 88,34%, năm 1999 đạt 84,9%.


23

Cơng tác kiểm tra đã có chuyển biến cả về nhận thức, lãnh đạo và tổ
chức thực hiện. Trong nhiệm kỳ qua (1996-2000), hầu kết các tổ chức đảng
đều được kiểm tra, kết quả đã xử lý kỷ luật 901 đảng viên và 20 tổ chức đảng
với các hình thức: khiển trách 334 đảng viên và 5 tổ chức đảng, cảnh cáo 365
đảng viên và 15 tổ chức đảng, cách chức 74 đảng viên, khai trừ 128 đảng

viên.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cơng tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trước năm
2000 của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai còn những hạn chế, khuyết điểm:
Một số cấp ủy tổ chức cơ sở đảng chưa quan tâm thật sự đến công tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Công tác quy hoạch cán bộ
tuy được quan tâm chỉ đạo nhưng thực hiện còn nhiều lúng túng, chưa đồng
bộ, nhất là ở cơ sở. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh
chưa thật đồng đều. Số thôn, ấp “trắng” tổ chức Đảng và Đảng viên cịn
nhiều. Đến tháng 7-1996, tồn tỉnh cịn 114 ấp và khu phố “trắng”. Trong đó
nhiều nhất là huyện Tân Phú 39 ấp và 1 khu phố, Định Quán 31 ấp. Cơng tác
tự phê bình và phê bình ở một số cán bộ, đảng viên cịn yếu. Thực hiện cơng
tác kiểm tra của tổ chức đảng có mặt cịn yếu, có việc, có trường hợp cán bộ
vi phạm xử lý chưa nghiêm. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng
viên có nơi thực hiện chưa tốt.
Những hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng
trước năm 2000 của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai tập trung ở những nguyên nhân
chính: do năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi còn yếu,
dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước chưa nghiêm, cản trở quá trình phát triển và ảnh hưởng đến
lòng tin của nhân dân. Một số cấp ủy Đảng chưa thật sự quan tâm đến công
tác vận động quần chúng. Việc quan tâm chỉ đạo của cấp ủy cấp trên cơ sở
chưa được thường xuyên, liên tục.


24

Qua 5 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII, các Nghị quyết Trung ương khóa VIII, Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ
tỉnh (1996-2000), tuy cịn gặp nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ tỉnh đã tập
trung chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của từng tổ chức cơ sở Đảng và đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, cơng tác kiện tồn tổ chức,
phát triển Đảng viên và công tác kiểm tra của tổ chức cơ sở đảng, góp phần to
lớn khẳng định vai trị, vị trí là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở của tổ chức
cơ sở đảng, làm tiền đề bước sang thời kỳ mới với sự lãnh đạo của tổ chức cơ
sở đảng ngày càng được khẳng định trong thực tiễn. Những thành công và hạn
chế cũng như những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng trước năm 2000 là cơ sở để Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai đề ra chủ trương, Nghị quyết chỉ đạo sát thực tế, có hiệu quả đối
với cơng tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong những năm tiếp theo.
1.3. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện xây dựng và phát
triển tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2000-2005)
Bước vào giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn cả nước tiếp tục tiến hành
đẩy mạnh CNH-HĐH, để thực hiện nhiệm vụ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
này, nhất là Đồng Nai với vị trí nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía
Nam; Phương hướng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII càng khẳng
định yêu cầu xây dựng củng cố và chỉnh đốn Đảng về nhận thức tư tưởng
chính trị; về đạo đức, lối sống; về tổ chức cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo
của toàn Đảng bộ và từng tổ chức đảng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH- HĐH.
Xuất phát từ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu rõ: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang
tầm đồi hỏi của thời kỳ mới là nhiệm vụ then chốt của toàn Đảng, toàn dân


25

hiện nay. Phương hướng cơ bản là phải giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực
cán bộ, đảng viên, củng cố, tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,

chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, công tác kiểm tra và kỷ luật của đảng.
Trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng Nghị quyết khẳng định: Tất
cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở đều phải phấn đấu thực hiện đúng chức năng là
hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đồn thể, các tổ chức kinh tế,
sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở, nâng cao tính
chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, bng lỏng vai trị lãnh đạo.
Cấp ủy cấp trên tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu kém, kịp
thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn,
nội bộ mất đoàn kết, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Phân công,
hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên
phong gương mẫu trong công tác học tập và lối sống; giữ mối liên hệ với
quần chúng nơi công tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.
Quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng về công tác xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã có nhiều chủ trương,
quyết sách đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn địa phương trong công
tác xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng trong thời kỳ mới.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VII ( nhiệm kỳ 20012005) đề ra những nhiệm vụ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức:
Xây dựng chỉnh đốn Đảng về tư tưởng chính trị, tăng cường sự thống
nhất trong Đảng từ nhận thức đến hành động coi công tác chính trị tư tưởng là
nhiệm vụ hàng đầu. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nhận thức lý luận
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho


×