TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
Mơn thi: TÀI CHÍNH HÀNH VI .............................................................
Họ và tên sinh viên: Lai Trần Thái Bình ...........................................................................................
MSSV: 030334180023 ...................................Lớp học phần: FIN314_211_D01 ...............................
THƠNG TIN BÀI THI
Bài thi có: (bằng số): 6… trang
(bằng chữ): sáu… trang
YÊU CẦU
Theo nhiều kết quả nghiên cứu thực nghiệm, các nhà dự báo chuyên nghiệp về thị trường
chứng khoán (các nhà quản lý danh mục, các nhà phân tích, dự báo,..) thường quá tự tin. Từ
góc độ tài chính hành vi, bạn hãy phân tích hiện tượng này. Theo bạn, liệu các nhà dự báo
chuyên nghiệp có học hỏi từ những sai lầm của họ trong quá khứ hay không? Bàn luận
1. Viết một bài tiểu luận để bàn luận về vấn đề nói trên.
2. Thể thức trình bày: Bài tiểu luận phải có đầy đủ ba phần: giới thiệu (mở bài), khai
triển (thân bài), kết luận và dài tối đa không quá 7-9 trang. Bài viết được trình bày
trên giấy A4, định dạng theo font chữ Times New Roman, cỡ chữ 13, lề trên 25mm,
lề dưới 25mm, lề phải 25mm, lề trái 30mm, khoảng cách giữa các đoạn (giãn đoạn,
paragraph spacing): trước 12pt, sau 0pt, giãn dòng) khoảng cách giữa các dòng (line
spacing): đơn.
3. Bài làm hoàn chỉnh được nén dưới định dạng pdf và nộp một lần thông qua hệ thống
LMS của Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh trước 11g ngày 18/11/2021,
không được phép nộp trễ hạn.
BÀI LÀM
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--- --- --- --- --- ---
TIỂU LUẬN MƠN
TÀI CHÍNH HÀNH VI
Đề tài
SỰ TỰ TIN THÁI QUÁ VÀ ỨNG DỤNG
TRONG QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHỐN TẠI VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên: LAI TRẦN THÁI BÌNH
MSSV: 030334180023
Khóa học: K34
Lớp học phần: FIN314_211_D01
Giảng viên hướng dẫn: Ts. Hồ Công Hưởng
TP. Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 11 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ SỰ TỰ TIN THÁI QUÁ..................................... 1
1.1. Khái niệm .............................................................................................. 1
1.2. Các hình thức biểu hiện ........................................................................... 2
1.2.1.
Ước lượng sai (miscalibration) ........................................................ 2
1.2.2.
Lạc quan thái quá (excessive optimism) ........................................... 2
1.2.3.
Hiệu ứng tốt hơn mức trung bình (better-than-average effect) ............ 3
1.2.4.
Ảo tưởng kiểm sốt (illusion of control)........................................... 3
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VỀ SỰ TỰ TIN QUÁ MỨC ..................................... 4
2.1. Các yếu tố cản trở việc sử sai ................................................................... 4
2.1.1.
Thuyết quy kết (attribution theory) và thiên kiến quy kết tự kỷ (self-
attribution bias).......................................................................................... 4
2.1.2.
Thiên kiến nhận thức muộn (hindsight bias) ..................................... 4
2.1.3.
Thiên kiến tự xác nhận (confirmation bias)....................................... 5
2.2. Ứng dụng hiện tượng tự tin thái quá vào thực tiễn môi trường đầu tư tại Việt
Nam ............................................................................................................. 5
2.2.1.
Mang lại thành quả vượt trội ........................................................... 5
2.2.2.
Xoa dịu sự thất vọng trong đầu tư .................................................... 5
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN................................................................................. 6
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................
LỜI NĨI ĐẦU
Lĩnh vực tài chính hành vi đang phát triển nhanh chóng và sử dụng các kiến
thức từ tâm lý học để tìm hiểu cách thức hành vi của con người ảnh hưởng đến các
quyết định của các nhà đầu tư các nhân và chuyên nghiệp hay của tất cả các thị
trường và các nhà quản lý. Chúng ta đều là con người, điều đó có nghĩa là hành vi
của chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tâm lý. Một vài quyết định đơn giản và là những
lựa chọn hằng ngày, như việc chúng ta sẽ học tập chăm chỉ như thế nào cho kỳ thi
sắp tới, hay nhãn hiệu nước giải khát nào chúng ta sẽ mua, nhưng những quyết định
khác lại có thể ảnh hưởng đáng kể đến tình hình tài chính của chúng ta, như là
chúng ta có nên mua một cổ phiếu nào đó hay không, hay chúng ta sẽ phân bổ tiền
trong tài khoản hưu trí của chúng ta vào các quỹ đầu tư khác nhau và như thế nào.
Hiểu được điều đó, mục đích của bài biết này sẽ trình bày một trong những
hiện tượng trong hành vi liên quan đến việc ra quyết định, từ đó là sự ảnh hưởng
đến quyết định đầu tư trong lĩnh vực tài chính. Chúng ta sẽ hiểu và nhìn nhận được
những vấn đề vẫn đang tồn tại, song song với việc rút ra bài học không chỉ cho lĩnh
vực đầu tư tài chính, mà cịn là những vấn đề khác trong cuộc sống.
Hiện tượng được xem như là mang tính phổ biến nhất và nhiều người thất bại
nhất trong việc rút ra sai lầm trong quá khứ mà bài viết nhắc tới, chính là hiện tượng
Tự tin thái quá (hay còn gọi là Sự tự tin quá mức). Đây là vấn đề được các nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học chứng minh rằng, hầu hết mọi người đều quá
tự tin trong phần lớn thời gian. Khi xét đến khía cạnh tài chính, mà cụ thể hơn là
khía cạnh đầu tư, Tự tin thái quá đã tạo nên ảnh hưởng lớn trong việc đưa các
quyết định tài chính.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ SỰ TỰ TIN THÁI QUÁ
1.1. Khái niệm
Sự tự tin thái quá (overconfidence) là khuynh hướng con người đề cao kiến
thức, khả năng, và tính chính xác trong thơng tin của mình, hoặc lạc quan q mức
về tương lai và khả kiểm sốt tình thế.
Theo nghĩa dễ hiểu hơn, chúng ta có thể hiểu sự tự tin thái quá qua việc phân
tích từ bộ phận chữ nghĩa:
• Tự tin là có một cảm giác chính xác về kỹ năng, kiến thức của bản
thân
• Thái quá là một sự phóng đại, quá mức.
Tự tin thái quá là khuynh hướng người ta phóng đại sự chính xác kiến
thức của bản thân.
1
1.2. Các hình thức biểu hiện
Quá tự tin được biểu hiện theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó sự đánh
giá sai về kiến thức được xem như là biểu hiện rõ nhất cho hiện tượng tự tin thái
quá. Không chỉ vậy, trong một biểu hiện khác, nhiều người không thực tế đơi khi có
khuynh hướng nghĩ rằng khả năng và hiểu biết của họ trên mức trung bình. Ảo
tưởng kiểm soát lại làm cho con người ta tin rằng họ có khả năng kiểm sốt tình
huống tốt hơn những gì họ thực sự có thể. Mặt khác, lạc quan quá mức phản ánh
cảm giác tin rằng mọi thứ tốt đẹp hơn so với phân tích khách quan chỉ ra.
1.2.1. Ước lượng sai (miscalibration)
Khi thiết lập nghiên cứu, sự tự tin quá mức có thể được đo lường bằng một
số cách. Chúng ta bắt đầu với sự ước lượng sai (miscalibration). Sự ước lượng sai
là một khuynh hướng người ta phóng đại sự chính xác kiến thức của bản thân. Một
kiểm tra sự ước lượng bản thân thường được thực hiện theo hình thức sau:
Trong mơi trường được kiểm sốt, người tham gia được yêu cầu xây dựng
một khoảng tin cậy 90% dựa trên mức độ hiểu biết của bản thân hiện tại (hoặc trước
đây) về một số kiến thức (như độ cao của đỉnh Everest, hay biến động chỉ số Dow
Jones trong một tháng). Theo cách thức này, những người được cho là ước lượng
sai khi khoảng tin cậy của họ quá hẹp.
Nói đúng hơn, nếu một người được hỏi một số lượng lớn các câu hỏi với
khoảng tin cậy x% - sai số thống kê mẫu sẽ được giảm thiểu nếu số câu hỏi đủ nhiều
– thì việc ước lượng đúng ám chỉ rằng xấp xỉ x% các khoảng tin cậy của họ sẽ chứa
câu trả lời chính xác cho các câu hỏi đó. Hoặc nếu ta tập trung vào một câu hỏi cụ
thể nào đó, và đem nó đi hỏi nhiều người; khi đó, nếu xem mẫu đại diện cho tổng
thể, thì x% số người được hỏi sẽ có khoảng tin cậy chứa câu trả lời đúng.
Tuy nhiên, thực tế cho ra các kết quả khác. Tỷ lệ số người đưa ra khoảng tin
cậy chứa câu trả lời đúng thấp hơn x%. Điều này cũng đúng ở cấp độ mỗi cá nhân.
Nếu một người được hỏi một loạt những câu hỏi (sẽ được trình bày rõ trong “kiểm
tra sự ước lượng” ở phần kế tiếp), thì tỷ lệ khoảng tin cậy chứa câu trả lời đúng
thường thấp hơn đáng kể so với x%. Tóm lại, những nghiên cứu về sự ước lượng
chỉ ra rằng khoảng tin cậy mà các cá nhân đưa ra là quá hẹp, dẫn đến những câu trả
lời đúng nằm trong khoảng tin cậy đó thường ít hơn so với mức độ chính xác hàm ý.
1.2.2. Lạc quan thái quá (excessive optimism)
Có khá nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh sự tồn tại của biểu
hiện lạc quan thái quá (excessive optimism). Lạc quan thái quá hiện diện khi con
người đánh giá xác suất các kết quả thuận lợi/bất lợi, quá cao/quá thấp so với kinh
nghiệm quá khứ hoặc những phân tích suy luận.
Những ví dụ về các sự kiện rất tích cực và rất tiêu cực là thắng xổ số hay
chết vì ung thư. Ngoài ra, các sinh viên kỳ vọng họ nhận được điểm số cao hơn
điểm họ thật sự có, và họ cũng đánh giá quá cao số lượng các cơ hội nghề nghiệp so
với thực sự họ có thể nhận được trong tương lai. Hay mặc dù tỷ lệ ly hôn ngày càng
2
tăng, thì hầu hết các cặp vợ chồng mới cưới vẫn kỳ vọng về sự bền vững của cuộc
hôn nhân. Có một dang được gọi là sai lầm trong việc lập kế hoạch (planning
fallacy), là việc người ta thường nghĩ họ có thể hồn thành kế hoạch vượt mức so
với thực tế, và tất cả các chi phí phát sinh đều đã được tính đến. Trong thực tế,
nhiều người trong chúng ta thường xuyên không đạt được các mục tiêu trong cuộc
sống và công việc. và việc chi vượt kết hoạch luôn là vấn đề phioos biến đối với
những dự án cơng cộng lớn. Điển hình như dự án rạp hát Opera Sydney, được kỳ
vọng sẽ hoàn thành trong năm 1963 với chi phí khoảng 7 triệu USD. Thay vào đó,
nó đã kéo dài thêm 10 năm và tiêu tốn một khoản tiền là 102 triệu USD.
1.2.3. Hiệu ứng tốt hơn mức trung bình (better-than-average effect)
Trong một số nghiên cứu khác, nhà nghiên cứu yêu cầu người tham gia đánh
giá một số thuộc tính tích cực của bản thân họ khi so với mức trung bình, chẳng hạn
như kỹ năng vận động, khả năng lái xe, và nhận thấy rằng các câu trả lời phù hợp
với hiệu ứng tốt hơn mức trung bình (better-than-average effect), rất nhiều
trong số đó đánh giá khả năng của họ cao hơn mức trung bình. Nhưng dĩ nhiên, chỉ
có 50% (hoặc ít hơn một chút) trong bất bì một nhóm nào đó là thực sự có năng lực
cao hơn trung bình. Một nhà nghiên cứu khảo sát một mẫu sinh viên, kết quả cho
thấy 82% sinh viên tự cho là mình thuộc nhóm 30% những người lái xe an toàn
nhất.
Một yếu tố khác làm người ta tin rằng khả năng của bản thân trên mức turng
bình thường là do những định nghĩa chính xác về sự xuất sắc hay năng lực lại không
rõ ràng. Theo lẽ tự nhiên, trong thân tâm, con người thường giữ những định nghĩa
mà theo đó họ sẽ giỏi nhất. Lấy ví dụ về lái xe: Một vài người có thể cho rằng tốt
nhất ở đây là có tay lái tốt nhất; người khác lại có thể nghĩ tốt nhất ở đây là năng lực
lường trước nguy hiểm, và lại có những người khác cho rằng tốt nhất ở đây là có kỹ
năng tốt trong việc giảm và tăng tốc khi xe đang chạy trên xa lộ. Cả cơ chế nhận
thức và cơ chế vận động viên dường như ẩn sau hiệu ứng tốt hơn trung bình. Ở khía
cạnh động viên, việc tin rằng bạn lái “tốt hơn mức trung bình” làm gia tăng lịng tự
trong. Ở khía cạnh nhận thức, tiêu chí thành tích vốn dễ dàng in vào tâm trí thường
là những gì bạn giỏi nhất.
1.2.4. Ảo tưởng kiểm soát (illusion of control)
Một biểu hiện khác của sự tự tin thái quá là ảo tưởng kiểm soát (illusion of
control). Đó là khi con người nghĩ rằng họ có khả năng kiểm sốt tình huống hơn
thực tế có thể. Lấy ví dụ như: một người thấy những người chơi xúc sắc hành động
như thể là những người đó có thể kiểm soát được kết quả từ việc tung xúc sắc, và
người ta thực sự tin rằng rủi ro truyền nhiễm một loại bệnh nào đó phụ thuộc một
phần vào đặc điểm của người mà họ sẽ tiếp xúc.
Trong một thí nghiệm, những sinh viên được tham gia một trò chơi. Khi mỗi
sinh viên lần lượt bước vào phòng, họ đối diện với một người khác, cũng tham gia
vào cuộc chơi, nhưng người này thực chất đã được hứng dẫn để đóng vai một người
“lanh lợi” hoặc “khờ khạo”. Nhà tổ chức xáo bài, đưa cho mỗi người một lá bài úp
lại. Mỗi người được phép đặt cược (bí mật) tối đa 25 xu một vòng, khi lá bài của
người cược lớn hơn đối thủ của mình. Rõ ràng đây là một trị chơi may rủi, khơng
3
liên quan đến bất cứ một kỹ năng nào. Tuy nhiên, người chơi thực hiện những
khoản cược lớn hơn (16.25 xu so với 11.04 xu) khi đối thủ của họ trơng có vẻ “khờ
khạo”. Có thể là cảm giác mà người tham gia ln nghĩ mình hơn người khác đã
làm họ suy nghĩ là họ có thể tác động đến kết quả
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VỀ SỰ TỰ TIN QUÁ MỨC
2.1. Các yếu tố cản trở việc sử sai
Trong quá khứ, những nhà nghiên cứu đã cố gắng giải thích tại sao sự quá tự
tin lại phổ biến, và nhất là tại sao con người thất bại trong biệc rút ra bài học từ sai
lầm trong quá khứ. Có ba khuynh hướng lệch lạc trong hành vi con người có thể
đóng góp vào việc duy trì sự q tự tin. Điều này sẽ được trình bày trong các phần
tiếp theo.
2.1.1. Thuyết quy kết (attribution theory) và thiên kiến quy kết tự kỷ (selfattribution bias)
Lý thuyết về sự quy kết (attribution theory) trong tâm lý học xã hội là việc
nghiên cứu cách con người đưa ra các quy kết nhân quả, nghĩa là cách con người
tìm ra những lý giải cho những nguyên nhân của các hành động và các kết quả.
Xuất hiện những sai lầm dai dẳng nào đó.
Ví dụ, con người khi quan sát người khác, có xu hướng quy kết quá mức
hành vi cho các nhân tố nội tại (ngược lại đối với các nhân tố bên ngoài). Nếu một
người dường như có những hành vi khiếm nhã, chúng ta hiển nhiên tin rằng người
đó có tính cách xấu, thay vì tìm kiếm các yếu tố mơi trường có thể giải thích cho
cách hành xử đó.
Một biểu hiện khác của khuynh hướng lệch lạc quy kết có thể kể đến là thiên
kiến quy kết tự kỷ (self-attribution bias) là khuynh hướng người ta quy kết những
thành công hoặc kết quả tốt đẹp cho khả năng của họ, trong khi họ đổ lỗi những thất
bại cho các điều kiện ngồi tầm kiểm sốt, điều này có thể dẫn đến việc gia tăng sự
quá tự tín.
Ví dụ, một người quá tự tin quan sát thành quả của cá nhân, mà các thành
quả này vốn là sự kết hợp cảu cả các nhân tố bên trong (thuộc về cá nhân) lẫn các
nhân tố bên ngoài. Nếu mọi thứ diễn ra tốt đẹp, họ sẽ nghĩ là họ có năng lực, kỹ
năng và kiến thức (nhiều hơn so với các đánh giá khách quan), và kết quả là làm gia
tăng sự quá tự tin. Thế nhưng, khi kết quả lại là những sự kiện tiêu cực, họ lại tự đổ
lỗi cho bản thân ở mức độ vừa phải, thậm chí cịn đổ lỗi cho các nhân tố bên ngoài,
điều này cũng gây nên sự quá tự tin.
2.1.2. Thiên kiến nhận thức muộn (hindsight bias)
Là một trong ba khuynh hướng chính gây nên sự quá tự tin. Thiên kiến
nhận thức muộn( hindsight bias) là khuynh hướng đưa người ta đến những suy
nghĩ, kiến thức đã biết, một cách dễ hiểu hơn, khuynh hướng còn được gọi với cái
tên khác là hiện tượng “biết tuốt”. Đây là loại khuynh hướng cực kỳ phổ biến khi
một sự kiện trọng đại có các kết quả khác nhau được xác định rõ
4
2.1.3. Thiên kiến tự xác nhận (confirmation bias)
Liên quan chặt chẽ với 2 khuynh hướng trên là thiên kiến tự xác nhận
(confirmation bias), là xu hướng tìm kiếm những bằng chứng phù hợp với niềm tin
ban đầu và lờ đi những dữ liệu cho thấy điều ngược lại.
Ví dụ, trong một thí nghiệm xã hội về tranh cãi có hay khơng việc nên thi
hành án tử hình, cả những người đề xuất hay những người chống đối án tử hình
được nghe trình bày các bằng chứng khác nhau, nhưng sự phân cực rõ rệt trong suy
nghĩ đã xảy ra, những người ở mỗi nhóm sàng lọc các chứng cứ ủng hộ cho quan
điểm trước đó của họ.
2.2. Ứng dụng hiện tượng tự tin thái quá vào thực tiễn môi trường đầu tư tại
Việt Nam
2.2.1. Mang lại thành quả vượt trội
Quá tự tin hoặc q lạc quan, có thể khơng phải là một sai lầm hoàn toàn.
Trong nhiều nghiên cứu thực tế, sự lạc quan quá mức như vậy, có thể mang lại
thành quả đầu tư vượt trội hơn dự tính ban đầu. Sự lạc quan về dự đoán tương lai sẽ
theo chiều hướng tích cực hơn trong các trường hợp sau:
• Thời gian dự báo cho mục tiêu ở rất xa.
• Những diễn biến hành động đã được cam kết, thực hiện.
Ví dụ với trường hợp thực tế trên thị trường chứng khốn Việt Nam. Trong
một báo cáo của Cơng ty Cổ phần Chứng khoán SSI về cổ phiếu HDC (Công ty Cổ
phần Phát triển nhà Bà Rịa – Vũng Tàu). Qua q trình tổng hợp thơng tin, phân
tích và đưa ra kết luận khuyến nghị đầu tư, giá mục tiêu mà bộ phần phân tích
chứng khốn đưa ra là 72.000VND/ cổ phiếu nắm giữ trong vòng 1 năm từ ngày ra
báo cáo (24/05/2021) tại giá 46.000VND/ cổ phiếu.
Quả thực khi ta xét đến hiện tại, nếu SSI có sự lạc quan thái quá, trong
trường hợp này lại là điều tốt. Giá hiện tại tính đến ngày 17/11/2021 đã là 108.600/
cổ phiếu. Giá hiện tại đã vượt rất xa giá mục tiêu ban đầu, ngay cả khi tính đến tác
động của chia cổ tức.
2.2.2. Xoa dịu sự thất vọng trong đầu tư
Mặc dù đơi khi thành quả có thể gia tăng, nhưng nó thường khơng được như
các dự báo. Tuy nhiên, sẽ xuất hiện những động cơ biện hộ nào đó cho sự thất bại
khi đầu tư. Điều này có thể áp dụng vào các nhà đầu tư tại thị trường chứng khốn
Việt Nam.
Cụ thể, có thể trong q trình từ thu thập thơng tin, phân tích và ra quyết
định đầu tư, có thể có lệch lạc đâu đó trong quá trình trên gây nên tâm lý tiêu cực và
ảnh hưởng đến những quyết định đầu tư độc lập khác không liên quan. Điều này
gây nên một chuỗi các quyết định bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực từ thành quả
đầu tư thất bại ban đầu. Nhưng với những biểu hiện từ thiên kiến quy kết tự kỷ, nhà
5
đầu tư có thể xoa dịu bớt sự thất vọng, cho phép một người đi theo hướng tốt thiểu
hóa sự tổn hại đến lòng tự trọng và tiếp tục sự lạc quan cho các quyết định tiếp theo.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Sự tự tin thái quá phổ biết trong nhiều lĩnh vực kinh tế, kể cả trong việc ra
quyết định tài chính, cấp độ thị trường, kinh tế quản lý, khởi nghiệp,…
Trong nhiều nghiên cứu đưa ra những chứng cứ cho thấy, quá tự tin dẫn đến
việc người ta thực hiện giao dịch q nhiều, ít đa dạng hóa và cũng chấp nhận nhiều
rủi ro hơn. Sự ước lượng sai hay việc tin rằng thơng tin và phân tích của cá nhân
chính xác hơn thực tế, có thể đưa người ta đến sự nhầm tưởng về khả năng phân
tích.
Sự quá tự tin còn tác động vào cấp độ thị trường. Thực tế tự tin thái quá là sự
lý giải cho những bất thường trong tác động của tài chính hành vi đối với thị trường
như: qn tính giá, hiệu ứng cơng ty nhỏ,…
Các nhà quản lý và doanh nhân có thể bị hủy hoại bởi sự quá tự tin. Những
chứng cứ đưa ra cho thấy, họ luôn sẵn sàng gia nhập thị trường, cho phép dòng tiền
ảnh hưởng đến việc đầu tư, đầu tư q mức, thâu tóm các cơng ty, sử dụng quá
nhiều nợ,… Tất cả những hành động ấy đều xuất phát từ sự quá lạc quan và những
khuynh hướng khác của sự quá tự tin.
Thế nhưng, tự tin thái q có thể khơng phải là tiêu cực hồn tồn, nghĩa là
nó có thể gia tăng thành quả. Xem xét một tình huống gia nhập thị trường, một cá
nhân quyết định thành lập doanh nghiệp và quyết tâm thực hiện. Mặc dù quá lạc
quan có thể là tiêu cực ở phương diện có quá nhiều người theo đuổi mục tiêu này,
dựa trên chứng cứ cho thấy một tỷ lệ thất bại cao của các doanh nghiệp mới nổi.
Nhưng niềm tin vào sự thành cơng của bản thân, có thể thúc đẩy nỗ lực và động cơ,
và thực sự làm tăng khả năng thành cơng của người đó.
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lucy F. Ackert – Richard Deaves, 2018. Tài chính hành vi, tâm lý học, đưa
ra quyết định và thị trường. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch: Lê Đạt Chí,
2018. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức.
2. SSI, 2021. CTCP Phát triển nhà Bà RịaVũng Tàu (HDC: HOSE): Hưởng lợi
từ quỹ đất giá rẻ.