Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở trường chính trị tỉnh hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
ss

HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM VĂN VƯƠNG

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM VĂN VƯƠNG

THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ


TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
Ngành: Triết học
Mã số: 8 22 90 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Đại tá,TS. Nguyễn Thanh Tịnh

HÀ NỘI, 2018

HÀ NỘI, 2018


Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày 8 tháng 10 năm 2018
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS,TS. Nguyễn Minh Hoàn


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Luận văn
được hồn thành dưới sự hướng dẫn của Đại tá, TS. Nguyễn Thanh Tịnh. Số
liệu trong luận văn là khách quan, chính xác, căn cứ vào các báo cáo, tổng
kết, đánh giá, kết hợp với kết quả điều tra, khảo sát thực tế hoạt động giảng
dạy đối tượng các lớp đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở
Trường Chính trị tỉnh Hà Nam từ năm 2014 đến nay.
Tác giả luận văn


Phạm Văn Vương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: THỰC CHẤT VÀ YÊU CẦU CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG
NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG HOẠT ĐỘNG GIẢNG
DẠY Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH ................................................................... 9
1.1. Thực chất của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh ........................................... 9
1.2. Yêu cầu cơ bản của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh ............. 26
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH
HÀ NAM HIỆN NAY ................................................................................... 39
2.1. Thực trạng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay .... 39
2.2. Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường
Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay ............................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 100
TÓM TẮT LUẬN VĂN .............................................................................. 116


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lê nin. Nó có tầm quan trọng đặc biệt trong việc định hướng cho
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thực hiện tốt nguyên tắc này trong
giảng dạy lý luận chính trị - hành chính sẽ góp phần hình thành thế giới quan,
phương pháp luận; bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; rèn luyện
bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho người học; thông qua việc trang bị,
củng cố hệ thống tri thức lý luận cơ bản để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Việc đảm bảo tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng
dạy lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Trường Chính trị tỉnh) vốn là nội
dung ln được đặt ra như một yêu cầu, một nguyên tắc quan trọng hàng đầu,
mang tính tất yếu khách quan.
Hiện nay, trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập quốc tế, cùng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch, thêm vào đó tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương ln có sự
vận động biến đổi cần có sự tổng kết thực tiễn, sự giải đáp thỏa đáng, kịp thời.
Do đó, việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động giảng dạy lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh
hiện nay nói chung, Trường Chính trị tỉnh Hà Nam nói riêng càng trở nên cấp
thiết hơn bao giờ.
Trường Chính trị tỉnh Hà Nam có chức năng, nhiệm vụ trọng tâm là tổ
chức đào tạo chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính và đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thuộc hệ thống chính trị trong toàn tỉnh. Trên cơ
sở nhận thức rõ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Nhà
trường, trong những năm qua Đảng ủy, Ban Giám hiệu và đội ngũ cán bộ,



2

giảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam ln quan tâm, coi trọng hoạt
động giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Vì vậy,
hoạt động giảng dạy lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Hà
Nam đã khơng ngừng được đổi mới mạnh mẽ theo hướng gắn lý luận với thực
tiễn, bám sát thực tiễn và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đòi hỏi phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Qua đó, hoạt động giảng dạy của Nhà trường đã đạt
được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc củng cố nền tảng
tư tưởng của Đảng, nâng cao nhận thức, tình cảm và niềm tin của các đối
tượng học viên đối với sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo. Tuy nhiên, do tác động bởi những điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan khác nhau mà trên thực tế việc vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy và học tập lý
luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam thời gian qua còn
bộc lộ những hạn chế nhất định như: Bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo điều
trong giảng dạy chưa được khắc phục triệt để; hiệu quả của sự gắn kết giữa lý
luận với thực tiễn trong quá trình đào tạo các khóa học cịn chưa cao; việc xác
định nội dung và phương pháp giảng dạy có lúc chưa thực sự phù hợp với
từng đối tượng học viên. Một số học viên cịn lúng túng trong tìm tịi, sử dụng
phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu, tìm hiểu thực
tế.v.v..Những hạn chế nêu trên nếu chậm được khắc phục sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Nhà trường.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị
tỉnh Hà Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bàn về mối quan hệ thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động giảng dạy nói chung, giảng dạy lý luận chính trị - hành chính nói riêng
đã có nhiều cơng trình nghiên cứu với các góc độ tiếp cận khác nhau như:



3

* Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng tác giảng dạy ở
trường Chính trị các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có các đề tài, bài
viết sau: Đề tài “Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành
chương trình Trung cấp lý luận chính trị trong các trường đào tạo cán bộ của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000” và đề tài “Thực trạng
tình hình đội ngũ cán bộ giảng dạy của các trường Chính trị tỉnh, thành phố”.
Đây là 02 đề tài khoa học cấp Bộ các năm 1995 và 1998 do tác giả Tống Trần
Sinh - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm. Với đề tài
năm 1995, tác giả đã chỉ ra cơ sở khoa học và thực tiễn của việc hình thành
chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị (từ ngày 01/9/2009 đến nay
là chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính); làm rõ tính
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc thiết kế nội dung, chương
trình, giáo trình sao cho phù hợp với đối tượng đào tạo ở các trường Chính trị
tỉnh, thành phố. Với đề tài năm 1998, tác giả nghiên cứu, khảo sát thực trạng
tình hình đội ngũ cán bộ, giảng viên và hoạt động giảng dạy ở các trường
Chính trị tỉnh, thành phố nhằm tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc nâng
cao chất lượng nội dung, chương trình đào tạo Trung cấp lý luận chính trị, đáp
ứng kịp với sự biến đổi tình hình thực tiễn của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, cịn có: Bài viết “Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn”của tác giả Vi Thái Lang và “Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn với việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các
trường Chính trị hiện nay” của tác giả Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết học,
số 1/1999; “Một số nguyên tắc phương pháp luận trong vận dụng quan hệ lý
luận và thực tiễn”, tác giả Lương Việt Hải, Tạp chí Triết học, số 5/1999; sách
“Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình
các mơn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, tác giả Lương Gia
Ban (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; “Nguyên tắc thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều” của PGS.TS Trần Văn Phòng trong sách “Triết học với đổi mới và


4

đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007;
“Liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong dạy và học”, tác giả Lê Xuân Lựu, Tạp
chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1/2007; sách “Triết học Mác - Lênin:
Lý luận và vận dụng”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008; “Nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở tỉnh Bắc
Cạn trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Bùi Thị Phong Huyền, luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2012; “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị tại Trường Chính trị
tỉnh Thanh Hóa hiện nay”, tác giả Trịnh Thị Phượng, luận văn thạc sĩ Triết học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2014.v.v..
Qua nghiên cứu các cơng trình trên cho thấy, các tác giả đã làm rõ thực
chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với tư cách là một nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định vai trò của nguyên tắc này với
việc nâng cao tư duy lý luận cho giảng viên ở các trường Chính trị tỉnh, thành
phố, đồng thời chỉ ra phương châm căn bản, chủ yếu nhất là gắn lý luận với thực
tiễn trong dạy học. Theo các tác giả, hoạt động giảng dạy phải gắn lý luận với
thực tiễn, tri thức khoa học với tri thức kinh nghiệm, người học phải đóng vai trị
là chủ thể trong q trình tiếp nhận tri thức, hình thành kỹ năng, nghiệp vụ và rèn
luyện phẩm chất đạo đức, tác phong trong công tác; quá trình giảng dạy ở nhà
trường phải hình thành ở người học khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Các tác giả đã đề cập thực trạng việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm quán triệt tốt
hơn nguyên tắc này trong hoạt động giảng dạy các mơn lý luận chính trị - hành
chính nói chung ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố.

*Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến cơng tác giảng dạy lý
luận chính trị tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp có các đề tài, bài
viết sau: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học các môn học Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học”, Tiến sĩ Nguyễn Duy
Bắc (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; "Nghiên cứu các giải


5

pháp nâng cao năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên Trường Trung cấp
kỹ thuật Hải quân", tác giả Hoàng Ngọc Khải, đề tài khoa học cấp Quân
chủng, năm 2005;“Gắn lý luận với thực tiễn, nhà trường với đơn vị trong xác
định mục tiêu đào tạo chính uỷ, chính trị viên hiện nay", tác giả Dương Quốc
Dũng, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 4/2008; “Mấy suy nghĩ
về việc nâng cao chất lượng đào tạo - giảng dạy Triết học trong các trường
đại học ở nước ta hiện nay”,Nguyễn Thái Sơn, Tạp chí Triết học, số 8/2010;
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác-Lê nin,
(đề cương bài giảng môn Triết học, chương trình cao học), tác giả PGS, TS
Nguyễn Tấn Hùng và TS Lê Hữu Ái, Đại học Đà nẵng, 2014; “Nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị cho học viên Trường Cao đẳng An ninh nhân
dân hiện nay, tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng, luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, 2015; “Gắn lý luận với thực tiễn trong giảng
dạy các môn khoa học Mác- Lênin ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay”,
của tiến sỹ Đinh Xuân Khuê, (tham luận tại Hội thảo khoa học Quốc gia, Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức năm 2015).v.v..
Từ các cơng trình nghiên cứu trên đây cho thấy, các tác giả đã khái quát
những vấn đề nổi bật, phân tích thực trạng của việc giảng dạy lý luận Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, giảng dạy lý luận chính trị nói chung
ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, qua đó chỉ ra vai trị, u cầu tất
yếu của việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào

hoạt động giảng dạy, đặt ra các vấn đề cần suy nghĩ, giải quyết về chương
trình, phương pháp, cách thức tổ chức giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy các mơn lý luận chính trị nói chung trong các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung cấp hiện nay.
* Ngồi ra cịn nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu có liên quan, có giá
trị tham khảo quan trọng như: “Cần có phương pháp tư duy khoa học, đề
cao tự phê bình, nói đi đơi với làm”, của tác giả Lê Linh, Tạp chí Quốc phịng
tồn dân số 3/1989; “Thấm nhuần, thực hiện có hiệu quả phương châm học đi


6

đôi với hành như Bác Hồ đã dạy”, tác giả Bùi Mạnh Hùng, Tạp chí Giáo dục
lý luận chính trị quân sự, số 3/2004; “Một số vấn đề triết học Mác-Lênin giữa
lý luận và thực tiễn", tác giả Lê Doãn Tá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004; “Quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi
mới của Đảng”, của PGS, TS Trần Văn Phòng, trong sách “Đảng cộng sản
Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội,
2010; “Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên các Trung tâm Bồi dưỡng
Chính trị tỉnh Kiên Giang”, tác giả Nguyễn Hoàng Nam, luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2015.v.v..
Những đề tài, bài viết thuộc các nhóm cơng trình nghiên cứu được đề
cập trên đây rất đa dạng và phong phú. Với nhiều góc độ nghiên cứu tiếp cận
khác nhau, những đề tài đó đã có những đóng góp nhất định trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn chung quanh việc quán triệt và vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở nhiều lĩnh vực hoạt động, công tác,
trong đó trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động giảng dạy lý luận
chính trị - hành chính ở các trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Tất cả các đề tài đó là những tài liệu tham khảo quý giá đối với tác giả
trong quá trình thực hiện luận văn.

Tuy vậy, đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về việc
vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động
giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam.
Do đó, đề tài về “ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay” không trùng lặp
với các cơng trình khoa học đã được cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt
động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh. Đánh giá thực trạng, đề xuất các giải


7

pháp cơ bản nhằm quán triệt và vận dụng có hiệu quả nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh
Hà Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh.
- Đánh giá thực trạng việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc
quán triệt và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay .
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở
Trường Chính trị tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở
Trường Chính trị tỉnh Hà Nam. Đối tượng giảng dạy thuộc chương trình đào
tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. Số liệu điều tra, khảo sát từ năm
2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của luận văn
- Cơ sở lý luận: Hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn nói chung, việc vận dụng nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy và học tập lý luận chính trị - hành
chính nói riêng.


8

- Cơ sở thực tiễn: Căn cứ vào các báo cáo, tổng kết, đánh giá, kết hợp
với kết quả điều tra, khảo sát thực tế hoạt động giảng dạy cho đối tượng đào
tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam
từ năm 2014 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn vận dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Khái quát hoá, trừu tượng hoá, hệ thống cấu trúc,
phân tích và tổng hợp, lơgic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, so sánh, sử dụng
kết quả khảo sát, hỏi ý kiến chuyên gia...
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn nhằm quán triệt và vận dụng tốt hơn nữa nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong hoạt động đào tạo Trung cấp lý luận chính trị - hành
chính ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay. Ngoài ra, luận văn dùng làm

tài liệu tham khảo, bổ trợ cho việc giảng dạy các đối tượng thuộc chương
trình đào tạo, bồi dưỡng khác ở Trường Chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết.


9

Chương 1
THỰC CHẤT VÀ YÊU CẦU CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG HOẠT ĐỘNG
GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH
1.1. Thực chất của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong hoạt động giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh
1.1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm

Triết học Mác- Lê nin
* Quan niệm về thực tiễn
Theo tiếng Hy Lạp cổ, thực tiễn là practica, có nghĩa là “hoạt động tích
cực”. Theo Từ điển Triết học do nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva xuất bản
năm 1986: “Thực tiễn - đó là hoạt động của con người nhằm đảm bảo cho xã
hội tồn tại và phát triển, và trước hết nó là q trình khách quan của sản xuất
vật chất - quá trình này là cơ sở của đời sống con người, đồng thời nó cũng là
hoạt động cải tạo - cách mạng của các giai cấp và tất cả các hình thức hoạt
động thực tiễn xã hội khác nhằm biến đổi thế giới. Thí nghiệm khoa học cũng
là một trong những hình thức của thực tiễn” [64, tr. 343].
Các nhà triết học duy tâm cho hoạt động nhận thức, hoạt động tinh thần
nói chung là hoạt động thực tiễn. Các nhà triết học tôn giáo cho hoạt động
sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là hoạt động thực tiễn.

Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học duy vật đã có nhiều
đóng góp cho quan điểm duy vật về nhận thức nói chung, về thực tiễn nói
riêng. Tuy nhiên, chưa một đại biểu duy vật trước Mác nào hiểu được đúng
bản chất của thực tiễn, cũng như vai trị của nó đối với nhận thức. Đi-đrô
(1713- 1784) nhà triết học người Pháp đã thấy được vai trò to lớn của thực
nghiệm khoa học đối với nhận thức và đồng nhất thực nghiệm khoa học với
thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ, chưa bao quát hết tất cả


10

các hình thức của hoạt động thực tiễn. Cịn L.Phoi-ơ-bắc (1804 – 1872) chỉ
coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người, cịn thực tiễn thì
chỉ được ơng xem xét và xác định trong hình thức biểu hiện ở những hoạt
động như: Hoạt động buôn bán nhỏ, hoạt động sinh lý, hoạt động ăn uống,
tiêu dùng xã hội của con người... Vì vậy, ơng khơng hiểu được ý nghĩa của
hoạt động "cách mạng", của hoạt động "thực tiễn - phê phán” [37, tr.9].
Các nhà triết học phương Tây hiện đại đã quan tâm nhiều đến hoạt động
thực tiễn của con người. Tuy nhiên, thực tiễn được họ hiểu là phản ứng của con
người trước hoàn cảnh một cách hiệu quả nhất. Quan niệm này dễ dẫn tới việc
lấy mục tiêu biện hộ cho hành động, dễ dẫn tới chủ nghĩa Thực dụng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trong lịch sử
thơng qua việc phân tích các khía cạnh xung quanh phạm trù thực tiễn trong
các tác phẩm của mình. Do đó, có thể hiểu: Thực tiễn là phạm trù triết học
dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính, có tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Từ khái niệm trên cho thấy, thực tiễn gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thực tiễn khơng phải tồn bộ hoạt động của con người, mà
chỉ là những hoạt động vật chất – cảm tính. Đó là những hoạt động vật chất

mà con người có thể cảm giác được, tức là nhìn được, đong, đo đếm được,
quan sát được... Những hoạt động vật chất – cảm tính là những hoạt động con
người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào đối
tượng vật chất để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến
đổi được thế giới khách quan.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử - xã
hội của con người, nghĩa là thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội với
sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, con
người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác.


11

Hơn nữa, hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử xã
hội cụ thể. Vì thế, ở mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau thì trình độ của hoạt
động thực tiễn cũng khác nhau.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có mục đích nhằm cải tạo tự nhiên, xã
hội và chính bản thân con người. Hoạt động này hoàn toàn khác với hoạt động
bản năng tự phát nhằm thích nghi thụ động với thế giới. Con người bằng và
thông qua hoạt động thực tiễn chủ động tác động cải tạo thế giới để thỏa mãn
nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động tích cực với thế giới. Như
vậy, nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người,
khác với hoạt động bản năng thụ động của động vật.
Nếu xem xét như một quá trình hoạt động của con người, thực tiễn bao
gồm: Mục đích, phương tiện và kết quả. Mục đích được nảy sinh từ nhu cầu và
lợi ích. Nhu cầu xét đến cùng nảy sinh từ điều kiện khách quan. Lợi ích chính là
cái thỏa mãn nhu cầu. Để đạt được mục đích, con người trong hoạt động thực
tiễn của mình phải lựa chọn phương tiện, công cụ để thực hiện. Kết quả phụ
thuộc vào nhiều nhân tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào mục đích đặt ra và
phương tiện mà con người sử dụng để đạt được mục đích (thực hiện mục đích).

Như vậy, thực tiễn là hoạt động mang tính tự giác cao của con người
chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Rõ
ràng, hoạt động thực tiễn là phương thức hoạt động cơ bản của con người trong
mối quan hệ với thế giới, là phương thức cơ bản của sự tồn tại và phát triển của
con người và xã hội lồi người. Khơng có hoạt động thực tiễn thì bản thân con
người, xã hội lồi người khơng thể hình thành, tồn tại và phát triển được. Nhờ có
hoạt động thực tiễn mà con người tách mình được khỏi thế giới tự nhiên. Đồng
thời, nhờ hoạt động thực tiễn mà con người có mối quan hệ với tự nhiên. Thực
tiễn là cầu nối giữa con người với tự nhiên và cũng là cầu nối để tách con người
khỏi giới tự nhiên. Tách ra để khẳng định mình đối với tự nhiên; đồng thời tách
ra để quan hệ với tự nhiên ở một trình độ cao hơn.


12

Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau, ở những lĩnh
vực khác nhau, song có thể khái quát thực tiễn gồm những hình thức cơ bản sau:
Sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản nhất và quan trọng nhất của
hoạt động thực tiễn. Nó biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Khơng có sản xuất vật chất thì bản thân con người và xã hội lồi người khơng
thể tồn tại và phát triển, đồng thời sản xuất vật chất còn là cơ sở cho các hoạt
động sống khác của con người. Hoạt động sản xuất vật chất thường gắn với
nhu cầu tự nhiên của con người, nhu cầu của con người ngày càng tăng lên
dẫn đến sản xuất vật chất cũng tăng lên; sản xuất vật chất tăng lên làm nảy
sinh những nhu cầu mới. Những nhu cầu đó địi hỏi phải được đáp ứng trong
một môi trường xã hội thuận lợi.
Hoạt động chính trị - xã hội: Đây là dạng hoạt động thực tiễn thể hiện
tính tự giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội, nhằm tạo ra môi trường xã hội thuận lợi
cho con người phát triển. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các hoạt động:

đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh cho hịa bình, dân
chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội… Hoạt
động chính trị - xã hội tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các hoạt động
thực tiễn khác diễn ra.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: Đây là hình thức đặc biệt của hoạt
động thực tiễn, bởi lẽ trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ
động tạo ra những điều kiện không có sẵn trong tự nhiên (những điều kiện
nhân tạo) để trên cơ sở đó vận dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào
nhận thức và cải tạo thế giới. Ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học công
nghệ phát triển mạnh mẽ như vũ bão, hoạt động thực nghiệm khoa học ngày
càng trở thành yếu tố đóng vai trị rất quan trọng, tạo động lực thúc đẩy các
hoạt động khác của con người đạt hiệu quả cao hơn.


13

Các hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản nói trên có quan hệ biện chứng
tác động qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là hình thức
hoạt động cơ bản nhất đóng vai trị quan trọng, quyết định các hình thức khác,
vì xã hội chỉ có thể hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động sản
xuất vật chất. Tuy nhiên, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm
khoa học có ảnh hưởng quan trọng đến hình thức sản xuất vật chất. Chẳng hạn,
xã hội khơng ổn định thì sản xuất vật chất không thể phát triển. Thực nghiệm
khoa học ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất vật chất.
* Quan niệm về lý luận
Trong Từ điển Triết học do nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva xuất bản
năm 1986 định nghĩa:
Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con
người, là toàn bộ những tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống
tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lơgíc

khách quan của các khái niệm cái lơgíc khách quan của các sự vật
[64, tr. 342-343].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong q trình lịch sử” [47, tr. 497].
Con người muốn cải tạo thế giới thì phải có những hiểu biết về nó,
nhưng những hiểu biết này khơng có sẵn trong con người, cho nên muốn có
sự hiểu biết, con người phải tác động vào thế giới bằng và thơng qua hoạt
động thực tiễn. Trên cơ sở đó, con người tích lũy được tri thức kinh nghiệm,
nhưng tri thức kinh nghiệm mới chỉ đem lại sự hiểu biết riêng lẻ, bề ngồi của
sự vật. Để hiểu được tính tất yếu, bản chất của sự vật con người phải khái
quát những tri thức kinh nghiệm thành lý luận. Lý luận được hình thành trên
cơ sở khái quát kinh nghiệm thực tiễn, nhưng khơng phải có kinh nghiệm thực
tiễn là có lý luận. Lý luận được hình thành thơng qua hoạt động tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, hoạt động khái quát lý luận của các nhà lý luận.


14

Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn tới sự xuất hiện của
lý luận. Cho nên lý luận là sản phẩm và là sự thể hiện ở trình độ phát triển cao
của quá trình nhận thức. Dựa trên trình độ, kết quả thâm nhập vào bản chất
của đối tượng nhận thức, có thể phân chia kết quả nhận thức của con người
thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận. Đây là những tri thức khác
nhau về đối tượng, tính chất, chức năng, hình thức và trình độ phản ánh.
Vì vậy, lý luận khơng thể ra đời một cách tự phát mà luôn luôn được bổ
sung hoàn thiện, phát triển bằng tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn mới,
phong phú bởi các nhà lý luận. Do tính độc lập tương đối của mình, lý luận có
thể phản ánh vượt trước các dữ liệu thực tiễn. Nhưng xét đến cùng, lý luận
không thể không dựa trên cơ sở thực tiễn.

Như vậy, có thể hiểu lý luận là một hệ thống những tri thức được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên,
mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lý luận có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, lý luận mang tính hệ thống, tính khái qt hóa, trừu tượng
hóa sâu sắc. Bởi lẽ, lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ
kinh nghiệm thực tiễn, nên nó phải mang tính hệ thống chặt chẽ và mang tính
khái qt rất cao, khơng đi vào những thuộc tính bên ngồi, ngẫu nhiên,
khơng bản chất, mà phản ánh một cách khái quát nhất những thuộc tính của
sự vật, hiện tượng, cho nên dù lý luận ở hình thức nào đi chăng nữa thì đều
mang tính hệ thống, tính khái qt, tính lơ-gích chặt chẽ. Kinh nghiệm là
những tri thức rời rạc về một mặt, một khía cạnh của hiện thực.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là kinh nghiệm thực tiễn, nghĩa là chất liệu
để làm nên lý luận chính là tri thức kinh nghiệm. Nhưng không phải mọi tri
thức kinh nghiệm đều có thể khái quát thành lý luận. Bởi lẽ, tri thức kinh
nghiệm có hai loại: Một là, tri thức kinh nghiệm thông thường - những tri
thức kinh nghiệm nảy sinh từ đời sống thường ngày, từ lao động sản xuất,


15

chiến đấu, nó đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống thường ngày của
con người, nhưng từ những tri thức kinh nghiệm thơng thường thì khơng thể
khái qt thành lý luận được. Hai là, tri thức kinh nghiệm thực nghiệm (tri thức
kinh nghiệm khoa học), những tri thức này được nảy sinh từ phịng thí nghiệm,
chương trình thực nghiệm, trong thực nghiệm sản xuất. Những tri thức kinh
nghiệm phải mang tính phổ biến mới có thể khái qt thành lý luận. Những tri
thức nhỏ lẻ, rời rạc của cuộc sống không thể khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được đúng bản chất của
sự vật hiện tượng. Bởi lẽ, lý luận không phản ánh những mối liên hệ ngẫu nhiên,

bề ngoài mà phản ánh những mối liên hệ tất nhiên, bản chất mang tính quy luật
của các sự vật, hiện tượng và do đó có thể phản ánh được bản chất của chúng.
* Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, lý luận và thực tiễn có mối
quan hệ biện chứng thống nhất với nhau. Trong đó, thực tiễn là yếu tố cơ bản
làm nảy sinh lý luận, đồng thời cũng là yếu tố cơ bản để phát triển lý luận. Mọi
lý luận chỉ có thể hình thành từ thực tiễn và được bổ sung trong thực tiễn. Tuy
nhiên, khi được hình thành, lý luận có tính độc lập tương đối, từ đó có vai trị
tác động trở lại rất mạnh mẽ, to lớn và quan trọng đối với thực tiễn. Trong mối
quan hệ biện chứng ấy, thực tiễn là hoạt động vật chất, lý luận là hoạt động tinh
thần, nên thực tiễn quyết định lý luận. Điều này được thể hiện:
Một mặt, lý luận khoa học được hình thành trên cơ sở xuất phát từ
chính thực tiễn, bằng con đường khái quát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
phản ánh thực tiễn đó, nếu khơng lý luận đó sẽ là lý luận suông, lý luận thuần
tuý sách vở, xa rời cuộc sống, dễ trở thành lý luận ảo tưởng, không có căn cứ,
giáo điều, kinh viện. Bởi lẽ:
Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn,
con người tác động vào sự vật, hiện tượng làm cho các sự vật, hiện tượng bộc
lộ thuộc tính, tính chất, quy luật… Trên cơ sở ấy con người mới có những hiểu


16

biết, có tri thức về những sự vật hiện tượng đó. Như vậy, chính thực tiễn là cơ
sở mà trên đó nhận thức của con người được nảy sinh, vận động và phát triển.
Chính thực tiễn cung cấp tài liệu, tri thức cho nhận thức, khơng có thực tiễn thì
khơng có nhận thức, khơng có khoa học, khơng có lý luận. Mọi tri thức của con
người xét đến cùng đều được nảy sinh từ thực tiễn.
Thực tiễn là động lực của lý luận: Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ
và phương hướng phát triển của nhận thức (lý luận) vì thế nó ln thúc đẩy cho sự

ra đời của các ngành khoa học.
Nhờ có hoạt động thực tiễn mà bộ óc và các giác quan của con người
ngày càng được rèn luyện, làm cho chúng phát triển hoàn thiện hơn, tinh tế
hơn, nhờ đó giúp q trình nhận thức của con người sẽ sâu sắc, hiệu quả hơn,
như Ph.Ăngghen khẳng định: “Chính việc người ta biến đổi tự nhiên là cơ sở
chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của nhận thức và tư duy của con người, trí tuệ
của con người phát triển song song với việc người ta học cách cải biến tự
nhiên” [39, tr. 720].
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn mà con người mới có thể chế tạo
ra được những cơng cụ, phương tiện, máy móc ngày càng tinh vi, hiện đại hỗ
trợ cho các giác quan và cho tư duy trừu tượng trong quá trình nhận thức của
mình, giúp con người nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn…
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Nhận thức của con người, ngay từ
đầu xét về mặt lịch sử đã bị quy định bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại tức là
nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất ra
của cải vật chất, phải cải tạo xã hội, muốn vậy, con người phải tìm hiểu thế giới
xung quanh, tức là nhận thức. Khi con người xuất hiện trong thế giới, thì xuất
hiện nhu cầu nhận thức để phục vụ cho sự tồn tại của mình. Nếu nhận thức của
con người không nhằm phục vụ thực tiễn, không nhằm soi đường dẫn dắt chỉ
đạo thực tiễn, vì thực tiễn thì nhận thức nhất định sẽ mất phương hướng, sẽ bế
tắc. Mọi tri thức - kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi được vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người.


17

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn của lý luận: Tri
thức của con người là kết quả của q trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản
ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách quan, do vậy phải kiểm tra tri
thức đó. Lý luận là những tri thức được đúc rút và khái quát từ thực tiễn,

nhưng phản ánh gián tiếp thực tiễn nên có xu hướng thoát ly, xa rời thực tiễn
hoặc mâu thuẫn với thực tiễn luôn vận động, biến đổi. Do vậy, để biết nhận
thức có đúng đắn, đầy đủ hay khơng phải đưa kết quả nhận thức vào trong
thực tiễn để kiểm nghiệm. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức. Cũng
không thể lấy sự hiển nhiên, sự tán thành của số đơng, điều có lợi, có ích để
kiểm tra tính đúng đắn của tri thức. Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là
tiêu chuẩn khách quan để kiểm tra chân lý, bởi lẽ, chỉ có thơng qua hoạt động
thực tiễn, con người mới có thể “vật chất hóa” được tri thức, hiện thực hóa
được tư tưởng, thơng qua đó mới có thể khẳng định hoặc phủ định một tri
thức nào đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định:
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan hay khơng, hồn tồn không phải là một vấn đề lý luận
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức
mạnh, tính trần tục của tư duy của mình...[37, tr.9 - 10].
Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau, do vậy cũng có
nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác nhau, như bằng thực nghiệm khoa học,
bằng việc áp dụng lý luận xã hội vào cải biến xã hội, bằng việc áp dụng tri
thức khoa học - kỹ thuật vào sản xuất vật chất, bằng việc kiểm tra, xác nhận...
Tuy nhiên, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa
có tính tương đối: Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất chứng minh, khẳng định được chân
lý, bác bỏ được sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ thực tiễn luôn vận động,
biến đổi, phát triển, do đó “khơng bao giờ có thể xác nhận và bác bỏ một cách


18

hồn tồn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào
chăng nữa” [31, tr.168]. Vì vậy, thực tiễn được xem xét trong khơng gian càng

rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai
lầm. Cũng vì vậy, những tri thức đã đạt được trước kia và đã được thực tiễn kiểm
nghiệm, thường xuyên cần được kiểm tra bởi thực tiễn mới để được bổ sung, hoàn
thiện hơn. Cho nên V.I.Lênin yêu cầu “ quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức” [31, tr. 167].
Mặt khác, thực tiễn đúng đắn luôn được chỉ đạo, soi đường, định hướng
bởi một lý luận khoa học, đúng đắn, nếu khơng thực tiễn đó sẽ là thực tiễn tự
phát, mò mẫm, mất phương hướng.
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh khái quát những vấn đề sinh
động của thực tiễn. Nó do thực tiễn quy định, phụ thuộc vào thực tiễn, nhưng
khi được hình thành, lý luận có tính độc lập tương đối, có đời sống riêng, có
quy luật vận động riêng. Tính độc lập tương đối của lý luận so với thực tiễn
được thể hiện là, nó có thể phản ánh lạc hậu hơn hoặc phản ánh vượt trước
thực tiễn. Cũng có những lý luận được phát triển trên cơ sở kế thừa những lý
luận trước đó mà khơng xuất phát trực tiếp từ thực tiễn. Một khi lý luận phản
ánh đúng đắn hiện thực khách quan và thâm nhập được vào quần chúng thì nó
có vai trị tác động thúc đẩy tích cực đối với thực tiễn. Nếu lý luận sai lầm, ảo
tưởng, chủ quan, giáo điều, kinh nghiệm... sẽ tác động kìm hãm tiêu cực đối
với thực tiễn. Nhờ những ưu điểm của mình mà lý luận có vai trị tác động trở
lại hết sức to lớn, quan trọng đối với hoạt động thực tiễn. Cho nên, chúng ta
phải coi trọng lý luận nhưng không được xem nhẹ, hạ thấp thực tiễn và tách
rời lý luận khỏi thực tiễn. Lý luận khoa học thơng qua hoạt động thực tiễn của
con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và chính thực tiễn. Lý
luận đóng vai trị soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nó vạch ra phương
hướng và phương pháp cho hoạt động thực tiễn, nhằm biến đổi hiện thực
khách quan theo hướng tiến bộ vì lợi ích con người. Nói về vai trị của lý luận


19


cách mạng, V.I.Lênin đã khẳng định: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng
khơng thể có phong trào cách mạng…” [29, tr.30].
Lý luận có vai trị to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên,
tổ chức, tập hợp quần chúng cũng như định hướng họ trong cuộc sống và
trong hoạt động cách mạng. Vì vậy, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng
thì cũng sẽ trở thành sức mạnh “vật chất” to lớn. Với sức mạnh nội tại của
mình, lý luận có thể dự kiến được xu hướng vận động, biến đổi, phát triển của
sự vật, hiện tượng cũng như của thực tiễn. Nó giúp con người chủ động, tự
giác hơn trong hoạt động thực tiễn, tránh bớt được sự mò mẫm, tự phát.
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thống nhất ở đây khơng phải là đồng nhất,
trùng khít, cũng khơng phải ngược với chia cắt. Thống nhất ở đây được hiểu
theo tinh thần biện chứng của Triết học Mác - Lênin, nghĩa là thực tiễn và lý
luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau. Khơng có thực
tiễn thì khơng thể có lý luận, khơng có cơ sở để khái qt thành lý luận.
Ngược lại, khơng có lý luận khoa học thì cũng khơng thể có thực tiễn chân
chính. Bởi lẽ, lý luận là kết quả khái quát kinh nghiệm thực tiễn, mà kinh
nghiệm thực tiễn chỉ được nảy sinh trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, lý luận
đích thực ln có cội nguồn từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, được kiểm tra
bởi thực tiễn và luôn được bổ sung, phát triển bằng những kết luận rút ra từ
tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn. Lý luận là kim chỉ nam của hoạt động
thực tiễn, nó hướng dẫn, chỉ đạo, vạch ra phương hướng, phương pháp giúp
cho hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hoạt động thực tiễn chỉ có hiệu quả
khi tuân theo những tri thức do lý luận dem lại, vì lý luận nâng cao hiệu quả
và làm cho hoạt động thực tiễn hướng đích một cách rõ ràng. Khơng có lý
luận khoa học soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng thì khơng thể có thực
tiễn đúng đắn, đúng hướng, đạt hiệu quả. Thực tiễn đúng đắn, đúng hướng,
đạt hiệu quả là thực tiễn cải tạo được tự nhiên và xã hội trên thực tế, phục vụ



20

cho mục đích tốt đẹp của con người. Rõ ràng, sản xuất vật chất chỉ đạt hiệu
quả cao, chính trị - xã hội chỉ được cải tạo theo hướng nhân văn vì con người,
thực nghiệm khoa học chỉ gắn với phát triển sản xuất và cải tạo xã hội vì con
người khi được chỉ đạo bởi một lý luận thực sự khoa học, đúng đắn.
Sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn sẽ tạo nên những khuynh hướng
sai lầm hay những căn bệnh cơ bản trong quá trình nhận thức lý luận và hoạt
động thực tiễn, đó là bệnh kinh nghiệm (do tuyệt đối hóa tri thức kinh
nghiệm) và bệnh giáo điều (do tuyệt đối hóa tri thức lý luận). Nói cách khác,
nếu khơng qn triệt tốt ngun tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì sẽ
dễ mắc phải bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều. Do vậy, trong quá
trình nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo, biến đổi hiện thực thì thực tiễn
và lý luận là hai mặt không thể tách rời nhau, mà phải luôn thống nhất với
nhau. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà khơng có liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông” [47, tr.496] .
1.1.2. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng
dạy ở Trường Chính trị tỉnh
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động giảng dạy ở
trường Chính trị tỉnh biểu hiện chủ yếu ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, thực tiễn giảng dạy luôn được định hướng, chỉ đạo bởi một lý
luận khoa học, nếu không sẽ rơi vào thực tiễn tự phát, mị mẫm, khơng có tính
hướng đích.
Thực tiễn hoạt động giảng dạy (trọng tâm là giảng dạy lý luận chính trị
- hành chính) ở Trường Chính trị tỉnh ln đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết, điều đó đòi hỏi hoạt động này cần được định hướng, chỉ đạo bởi một
hệ thống tri thức lý luận và lý luận dạy học khoa học, tiến bộ. Có như vậy,
hoạt động giảng dạy mới thật sự đảm bảo được đúng nội dung, phương pháp,
mục tiêu mà chương trình giảng dạy cần hướng tới, góp phần tạo khả năng tiếp

thu tốt nhất cho người học.


×