Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

THU HOẠCH tăng cường công tác dân vận của các đơn vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.27 KB, 38 trang )

THU HOẠCH-Tăng cường Công tác dân vận của các đơn vị đóng
quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình hình hiện
nay
Mở đầu
Cơng tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ
phận công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt
động cơng tác chính trị trong qn đội nhằm vận động cách mạng đối
với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Tiến hành cơng tác dân vận góp phần giữ vững ổn định chính trị, tham
gia phát triển kinh tế, văn hố xã hội, quốc phòng, an ninh, tăng cường
củng cố khối đại đồn kết tồn dân tộc, đồn kết qn dân; phịng,
chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của
chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch
chống phá cách mạng nước ta, bảo đảm thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới.
Đại đoàn kết toàn dân là một truyền thống quý báu, một giá trị
tinh thần bền vững, một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển
của dân tộc. Do đó, trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln quan tâm sâu sắc đến công tác vận
động quần chúng nhân dân. Đặc biệt từ Đại hội VI đến nay, nhận thức
của Đảng ta về đại đồn kết dân tộc có những phát triển mới. Đảng ta
khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng ln qn triệt


2

tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động”1 và luôn nhất quán quan điểm: cách mạng là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân.


Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân,
ngay từ khi mới thành lập đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
trao nhiệm vụ vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và
lao động sản xuất, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của Nhà
nước và nhân dân. Do đó, tiến hành cơng tác dân vận (CTDV) là nhiệm
vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn
đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thực tiễn
trong 62 năm qua, mỗi bước trưởng thành và chiến thắng của quân đội
ta đều luôn gắn liền với việc đẩy mạnh và thực hiện tốt CTDV, đều
được dựa chắc vào thế trận lòng dân, được nhân dân đùm bọc, tin yêu.
Hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang lợi dụng
chiêu bài dân tộc, tơn giáo, nhân quyền hịng đẩy mạnh thực hiện âm
mưu chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, chống phá cách mạng Việt
Nam. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ dân ở địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và bình n đất nước
là trách nhiệm của tồn Đảng, của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, việc
tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và tăng cường hơn nữa
CTDV của các đơn vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo là yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trực tiếp đặt ra đối với quân đội ta
hiện nay; đòi hỏi phải được nghiên cứu, triển khai thực hiện và vận
dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Trong phạm vi bài tiểu luận tác giả
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr.
29.


3

phân tích làm rõ nội dung: “tăng cường cơng tác dân vận của các đơn

vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình hình
hiện nay”, nội dung gồm 2 phần:
Phần một: Sự cần thiết phải tăng cường cơng tác dân vận của các
đơn vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình
hình hiện nay
Phần hai: Một số giải pháp tăng cường cơng tác dân vận của các
đơn vị đóng qn trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình
hình hiện nay
Nội dung
1. Sự cần thiết phải tăng cường cơng tác dân vận của các đơn
vị đóng qn trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo trong tình
hình hiện nay
1.1. Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ, mục tiêu công
tác dân vận của quân đội hiện nay
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung
thành và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của quần chúng trong sự
nghiệp cách mạng; khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ nhân
dân. Quan hệ mật thiết với nhân dân là mối liên hệ bản chất của Đảng,
của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, CTDV ln được coi là một công tác
cơ bản của Đảng.
Công tác dân vận của Qn đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai
trị rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản


4

Việt Nam, một mặt hoạt động cơng tác chính trị trong quân đội, nhằm
vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối
quan hệ, đoàn kết quân dân. CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong

sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội
ta. Các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: quần chúng
nhân dân có vai trị to lớn, là người chủ chân chính của lịch sử, là lực
lượng đông đảo của cách mạng. Do đó, phải tiến hành thật tốt cơng tác
tun truyền vận động quần chúng.
V.I. Lênin cho rằng: “Khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa
số nhân dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của mình, tức là đối
với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được.
Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó khơng thể có ngay được và khơng
phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc
đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được” 2. Người
cũng chỉ rõ: sức mạnh của cách mạng là ở sự ủng hộ của quần chúng,
chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân; chỉ có tranh thủ quần chúng và chỉ có như thế chúng ta mới có cơ
sở vững chắc cho thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp; chỉ có người
nào tin tưởng vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động
của nhân dân, mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền. “Một
nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi
nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần chúng có thể phê phán
được mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức” 3. Vì vậy, khi
2
3

V.I.Lê nin: Tồn tập, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 39, tr. 251.
V.I.Lê nin: Toàn tập, Nxb tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tập 35, tr. 23.


5

đánh giá thành tích một Đảng, phải căn cứ vào cách đối xử đúng đắn

với quần chúng, căn cứ vào cách vận động quần chúng của Đảng.
Trung thành và phát triển sáng tạo những tư tưởng đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác vận động quần chúng.
Người chỉ rõ: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải
công việc của một, hai người. Lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng.
Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Dân chúng biết
giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra. Có lực
lưọng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Vì
vậy Người chỉ rõ: “Cách mạng trước hết phải làm cho dân giác ngộ” 4,
phải tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân, phải biết tôn trọng
nhân dân, biết tin và dựa vào dân. Theo Người: “Dân vận là vận động
tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người nào,
góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm,
những cơng việc chính phủ và đồn thể giao cho” 5. Tiến hành CTDV là
trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và trưởng thành từ trong
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân do Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, giáo dục và rèn
luyện. Quân đội ta vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội qn cơng tác,
có nhiệm vụ tiến hành công tác vận động quần chúng trong mọi điều
kiện hồn cảnh và mọi tình huống. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt
4
5

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr. 267.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr. 698.


6


Nam tun truyền giải phóng qn, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định:
“Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng qn nghĩa là chính trị
trọng hơn qn sự. Nó là đội quân tuyên truyền”. Như vậy, ngay từ
ngày đầu thành lập lực lượng vũ trang cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ CTDV của quân đội là một vấn đề thuộc chức
năng, một nhiệm vụ chính trị của quân đội kiểu mới, quân đội của giai
cấp vô sản.
Trong suốt 62 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, lúc khó
khăn cũng như lúc thuận lợi, trong chiến tranh hay hồ bình, qn đội
ta ln dựa vào nhân dân, bảo vệ nhân dân, chia ngọt sẻ bùi với nhân
dân, được nhân dân che chở, đùm bọc, tin cậy. Khơng có sự giúp đỡ
của nhân dân, qn đội ta không thể thực hiện được nghệ thuật chiến
tranh nhân dân, không thể giành thắng lợi vẻ vang. Dù ở Đồng bằng
hay miền núi, quân đội ta luôn sống trong lịng dân, CTDV của qn
đội ln trở thành một kênh chuyển tải các chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước đến với đồng bào, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ
đồng bào đưa đường lối chính sách vào cuộc sống, đã góp phần quan
trọng xây dựng lịng tin của dân đối với Đảng, tin vào thắng lợi của
cách mạng. Dù ở những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, những nơi khó khăn
ác liệt nhất, nhờ có CTDV mà quân đội ta ln sống trong lịng dân,
nhân dân ln che chở, bảo vệ qn đội. Đó là nền tảng chính trị tinh
thần vững chắc bảo đảm cho mọi thắng lợi của quân đội, của cách
mạng.
Làm tốt CTDV, quân đội ta khơng chỉ góp phần thực hiện có hiệu
quả một trong ba chức năng của quân đội, mà còn thể hiện rõ mục tiêu,


7


lý tưởng chiến đấu, bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của
quân đội kiểu mới, gắn bó máu thịt với nhân dân qua mọi thử thách.
Công tác dân vận là một trong những nội dung CTĐ, CTCT của
quân đội, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần giáo dục cho bộ đội về ý thức
trách nhiệm của người quân nhân cách mạng, thực hiện quân với dân
một ý chí. CTDV của quân đội do chính chủ thể CTĐ, CTCT tiến
hành, đồng thời nó là trách nhiệm của mọi qn nhân. Dân vận tốt
chính là góp phần giữ vững, tăng cường đoàn kết quân dân, quan hệ
giữa Đảng với dân, khối đại đồn kết tồn dân, góp phần trực tiếp vào
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù, giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát huy bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ
Hồ”.
Hiện nay, nhiệm vụ CTDV của quân đội là tuyên truyền vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã
hội chủ nghĩa; thực sự là một mũi tiến cơng chính trị có hiệu quả trong
phịng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị của đất nước.
CTDV tham gia tích cực xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh tồn
diện, trước hết là về chính trị; xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế
trận chiến tranh nhân dân vững chắc, thực hiện chính sách dân tộc - tơn
giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia có hiệu quả vào các phong trào,
các cuộc vận động cách mạng, các chương trình phát triển kinh tế xẫ


8

hội, giúp dân xố đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định

đời sống nhân dân nhất là ở các vùng trọng điểm chiến lược. Đồng
thời, CTDV còn giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ về bản lĩnh chính trị, đạo
đức, năng lực, phương pháp, tác phong cơng tác dân vận, giữ nghiêm
kỷ luật trong quan hệ với nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.
1.2- Xuất phát từ thực trạng của cơ sở địa phương và cơng tác
dân vận của các đơn vị đóng qn trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo hiện nay.
Thực trạng của cơ sở địa phương: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo quá
trình xây dựng cơ sở địa phương của Đảng và Nhà nước từng bước
được đổi mới, nhất là từ khi Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 8B
khóa VI về: “Đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng và
tăng cường mối quân hệ giữa Đảng và nhân dân” đến Nghị quyết
Trung ương 7 khoá IX về: “Phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc vì
dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Cho thấy
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến tình hình mọi mặt của nhân dân.
Trong khi đó công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế
tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị
cơ bản ổn định, công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống
chính trị được củng cố tăng cường, văn hố xã hội có những tiến bộ,
nhất là cơng tác quốc phịng, an ninh được củng cố một bước, các tệ
nạn xã hội từng bước được ngăn chặn và giải quyết tốt. ý thức trách
nhiệm, trình độ hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng lên. Phát huy được


9

tính chủ động sáng tạo của người dân trong phát triển kinh tế địa
phương và từng hộ gia đình. Đây chính là những vấn đề rất cơ bản cho

việc nâng cao nhận thức của nhân dân để nhân dân tin tưởng vào
đường lối của Đảng, tin tưởng vào công cuộc đổi mới xây dựng của đất
nước, phát triển kinh tế...
Bên cạnh đó ở các địa phương thuộc địa bàn vùng núi, biên giới,
hải đảo còn tồn tại những hạn chế, khó khăn: Hệ thống chính trị tuy
được tăng cường củng cố nhưng nhiều cơ sở địa phương nhất là vùng
dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo còn yếu, vẫn cịn khơng ít tổ chức
đảng, chính quyền và đồn thể quần chúng không nắm bắt được tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, trình độ cán bộ cấp xã, Thị trấn ở miền núi
còn thấp hơn so với các xã, phường ở vùng đồng bằng. Hoạt động của
các tổ chức không sát dân, chưa hiệu quả, không tập hợp được nhân
dân. Một số cán bộ đảng viên suy thối về chính trị tư tưởng, về đạo
đức lối sống, giảm sút ý chí chiến đấu, ngộ nhận trước thủ đoạn lừa bịp
của các thế lực thù địch, nên để kẻ địch lợi dụng, tìm cách lơi kéo, mua
chuộc thực hiện các hành vi gây rối vi phạm pháp luật, tác động xấu
đến việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
đến việc củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị trật tự an tồn
xã hội ở địa phương. Kinh tế phát triển nhưng chưa thật bền vững, tốc
độ phát triển thấp. Các tiềm năng của từng địa phương khai thác còn
hạn chế. Các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa cịn rất khó khăn về mọi
mặt, tình trạng du canh du cư, di dân tự do vẫn tiếp tục diễn biến phức
tạp, kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém, thu nhập, đời sống kinh tế còn
quá chênh lệch với đồng bằng, thành phố và thị xã.


10

Trong lĩnh vực văn hoá, xã hội: Nhiều địa phương vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo cịn
thấp, cơng tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cịn nhiều khó khăn,

mức hưởng thụ văn hố cịn thấp. Một số tập qn lạc hậu mê tín, dị
đoan trong các tầng lớp dân cư, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội
có diễn biến ngày càng phức tạp.
Từ tình hình trên nếu khơng được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ dẫn đến
lịng dân khơng yên, bị các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để
lợi dụng, gây mất ổn định chính trị xã hội, cùng với tác động ngày càng
mạnh từ mặt trái của cơ chế thị trường càng làm cho tình hình xã hội ở
các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa diễn biến ngày càng phức tạp, đòi hỏi
các đơn vị đóng quân trên địa bàn phải tăng cường hơn nữa CTDV góp
phần xây dựng địa phương vững mạnh, địa bàn an tồn.
Cơng tác dân vận của các đơn vị quân đội trong thời gian qua.
Những năm qua nhận thức và trách nhiệm của cấp uỷ đảng, cơ
quan chức năng và cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang về công tác
dân vận được nâng lên tạo được sự thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện. Nội dung, hình thức, phương thức tiến hành
cơng tác dân vận có sự đổi mới, phù hợp với các loại hình đơn vị trên
các địa bàn hoạt động của lực lượng vũ trang. Cơ quan và đội ngũ cán
bộ chuyên trách công tác dân vận từng bước được củng cố, kiện tồn
ngày càng phát huy tốt vai trị làm tham mưu giúp cấp uỷ và chỉ huy
các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới, cùng với việc làm tốt công tác nhiệm vụ sẵn sàng chiến
đấu, xây dựng các phương án đối phó với tình huống “diễn biến hoà


11

bình”, bạo loạn lật đổ của địch khơng để xẩy ra bị động, bất ngờ, thực
hiện tốt yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh,
nhất là trên địa bàn trọng yếu. Tham gia giải quyết các “điểm nóng”,
tham gia xây dựng kinh tế, xố đói giảm nghèo, phòng chống tiêu cực

và các tệ nạn xã hội, giúp nhân dân phòng chống thiên tai, bão lụt, lũ
quét... Thông qua nhiều hoạt động kết nghĩa đã củng cố, giữ vững và
tăng cường, bản chất truyền thống gắn bó máu thịt quân với dân.
Tuy nhiên, công tác dân vận của lực lượng vũ trang thời gian qua
còn những mặt hạn chế, chưa ngang tầm với đòi hỏi của yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng trong tình hình mới. Nhận thức của cán bộ chiến sĩ về
CTDV chưa sâu sắc. Cán bộ tham gia xây dựng cơ sở địa phương chưa
hiểu rõ phong tục tập quán của địa phương. Số cán bộ tăng cường đi cơ
sở làm CTDV chưa đáp ứng được u cầu nhiệm vụ, trình độ năng lực
cịn hạn chế, thực hiện vai trò tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền trong
lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác qn sự địa phương và cơng tác xây dựng địa
bàn an tồn còn hạn chế. Quy chế hoạt động và mối quan hệ giữa các tổ,
đội cơng tác với cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể địa phương chưa
thống nhất. Chất lượng hiệu quả hoạt động CTDV của một số đơn vị còn
ở mức độ, Việc chấp hành kỷ luật quan hệ quân dân tuy có chuyển biến
nhưng chưa vững chắc, còn để xẩy ra một số vụ nghiêm trọng ảnh hưởng
đến bản chất, truyền thống của quân đội.
Từ những lý do trên cho thấy, trong tình hình hiện nay quân đội
cần phải tích cực hơn nữa trong CTDV, nhất là trong việc tham gia xây
dựng cơ sở địa phương vững mạnh mà chỉ thị 58/TTg ngày 15/2/1993
của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: “Xây dựng cơ sở vững mạnh là vấn


12

đề có ý nghĩa chiến lược trong tình hình hiện nay và là nhiệm vụ quan
trọng cấp bách của toàn Đảng, tồn dân và của cả hệ thống chính trị”.
Địi hỏi quân đội phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm tham gia xây
dựng cơ sở địa phương vững mạnh.
1.3- Xuất phát từ đặc điểm địa lý, kinh tế, văn hóa xã hội của

đồng bào các dân tộc sinh sống trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo hiện nay
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc. Trong đó, dân tộc Kinh
chiếm hơn 86%, còn lại 53 dân tộc anh em khác khoảng 10 triệu người,
chiếm 14% dân số cả nước6. Diện tích rừng núi, biên giới, hải đảo
chiếm 3/4 diện tích của cả nước, với 3.000 km đường biên giới. Dân cư
nước ta phân bố khơng đều có những xã ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa
số dân rất ít, cư trú trên địa bàn rộng, chủ yếu là dân tộc thiểu số, sống
du mục chưa quen tập quán định canh, định cư; kinh tế tự túc, tự cấp.
Đồng bào thường cư trú tập trung thành từng cụm dân cư theo các
bn làng, bản làng, phum, sóc, trên các triền núi cao, trong thung
lũng, ven rừng, trên các giồng đất, cát cao hoặc các vùng nơng thơn
ven biển. Nhìn chung, đây là các vùng có khí hậu khắc nghiệt, ảnh
hưởng cả đến sản xuất, sức khoẻ và đời sống của đồng bào. Dân cư các
vùng vừa tập trung tại các cụm, vừa phân tán giữa các khu vực với cự
ly rất xa, có nơi phải đi nhiều ngày đường. Điều kiện giao thơng, đi lại
hết sức khó khăn, dốc cao, vực thẳm. Thậm chí, có vùng việc đi lại
khơng thể sử dụng phương tiện giao thông mà chủ yếu bằng đi bộ, đi
6

TCCT, Về vấn đề dân tộc ở Nam Bộ và Tây Nguyên hiện nay, Tài liệu phục vụ lãnh đạo, H.
2003, tr. 8.


13

ngựa. Vào các mùa mưa lũ, khơng ít vùng đồng bào bị cơ lập trong
nhiều ngày.
Do q trình giao lưu, xâm nhập, q trình di cư có tổ chức và di
cư tự do, cũng đã tạo nên đặc điểm có sự chung sống xen kẽ giữa cư

dân các dân tộc, chủ yếu là người Kinh với các DTTS khác. Đây vừa là
đặc điểm thuận lợi vừa là những điều kiện nhạy cảm dễ phát sinh mâu
thuẫn nội bộ các vùng đồng bào trong điều kiện hiện nay, khi mà kẻ thù
lợi dụng xun tạc, kích động.
Đặc điểm văn hố, tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân các dân tộc
sinh sống trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo: với truyền thống
văn hố lâu đời, tình đồn kết gắn bó keo sơn của mỗi tộc người, mỗi
bn, bản, phum sóc thường được biểu hiện tập trung ở các già làng,
trưởng bản, ở các sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể được gìn giữ,
lưu truyền và bổ sung, phát triển qua muôn đời. Tuy đời sống kinh tế
chưa cao, chưa được ổn định, nhưng tình làng, nghĩa xóm, lịng trung
thành với tín ngưỡng, tập qn tốt đẹp, truyền thống nội tộc được thể
hiện rõ nét. Tôn giáo và tín ngưỡng dân gian trong các bn làng ln
gắn liền với nhau, các vùng dân cư, tồn tại nhiều loại chùa triền, miếu
thờ, đền thờ, nhiều loại hình lễ hội dân gian phong phú cả về nội dung,
tính chất, quy mơ, nghi thức...có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tâm
linh của mỗi dân tộc, vùng miền. Với nhiều loại hình tơn giáo như Phật
Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo, Cơng Giáo,Hoà Hảo, Cao Đài, Tin Lành,
Hồi Giáo... đây là vấn đề nhạy cảm trong các địa bàn nhạy cảm hiện
nay mà kẻ thù đang triệt để lợi dụng để chống phá ta.


14

Bên cạnh đó, các tập quán, thói quen, hủ tục lạc hậu và cả những
tệ nạn xã hội mới nảy sinh như du canh, du cư, không dùng thuốc mà
cúng ma để chữa bệnh, phân biệt đối xử, sinh hoạt khép kín trong các
tộc người, hút thuốc phiện...là những tàn dư lạc hậu cần phải từng bước
xoá bỏ.
Một số vùng đồng bào dân tộc vừa có ngơn ngữ riêng, vừa biết sử

dụng ngôn ngữ tiếng Việt phổ thông. Tuy nhiên khơng ít dân tộc chỉ sử
dụng ngơn ngữ riêng, thậm chí chỉ có tiếng nói mà khơng có chữ viết
riêng. Trình độ dân trí thấp, văn hố, giáo dục chậm phát triển, thiếu
các trung tâm văn hoá; nhà trường, bệnh viện thưa thớt và chất lượng
thấp. Tỷ lệ mù chữ, trẻ em thất học hoặc tái mù chữ còn cao. Các dịch
vụ văn hố báo chí, phát thanh, truyền hình, phim ảnh...cịn khơng ít
thiếu thốn, khó khăn. Đây là những khó khăn lớn tác động đến cơng tác
vận động quần chúng của bộ đội trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo.
Đặc điểm kinh tế, xã hội: Đại bộ phận đồng bào sống bằng nghề
sản xuất nhỏ gắn với địa bàn cư trú, chủ yếu là nương rẫy, đánh bắt
nhỏ, khai thác rừng tạp. Mức phát triển kinh tế và đời sống thấp, nhiều
vùng sâu, vùng xa tụt hậu rất xa so với miền xuôi. Một số vùng thiếu
đất canh tác, thiếu vốn, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Tỷ lệ hộ
nghèo còn rất cao. Địa bàn cư trú rộng, giao thơng, thơng tin liên lạc
khó khăn, trong khi đó, điều kiện và trình độ quản lý của các cấp chính
quyền địa phương cịn yếu, chưa nắm chắc được đồng bào. Đội ngũ
cán bộ ở cơ sở chưa đủ trình độ tổ chức quản lý trong những điều kiện


15

phức tạp. Tỷ lệ cán bộ, đảng viên là người dân tộc ít người cịn thấp,
trình độ cịn bất cập.
Việc qua lại biên giới dễ dàng, tạo thuận lợi trong giao lưu về
kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào ta với nhân dân với các nước
lánh giềng. Tuy nhiên, chính đặc điểm này tạo ra nhiều mâu thuẫn
trong bảo vệ chính trị, quốc phịng, an ninh, trật tự xã hội cho ta. Địch
thường lợi dụng các điều kiện này để trà trộn với đồng bào dân tộc,
xâm nhập trái phép qua biên giới, len lỏi, chui sâu vào nội địa nước ta

để móc nối hoạt động chống phá cách mạng. Thực tiễn những năm qua
đã xuất hiện nhiều điểm nóng do kẻ thù lợi dụng như ở vùng Tây Bắc,
Tây Nghệ An, Tây Nguyên Và Tây Nam Bộ.
Từ những đặc điểm trên cho thấy để quần cư, tồn tại trên một địa
vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, đòi hỏi các dân tộc Việt Nam
phải nương tựa vào nhau, đùm bọc và đoàn kết với nhau. Bên cạnh đó
lại phải thường xuyên đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh.
Một dân tộc nhỏ, đứng trước hoạ xâm lăng, muốn khơng bị đồng hố
hoặc bị tiêu diệt tất yếu phải đứng lên tự bảo vệ với ý thức đoàn kết, tự
lực, tự cường cao nhất mới có thể tồn tại và phát triển.
Do nhận thức đúng các vấn đề đó, những năm qua cấp uỷ và chỉ
huy các đơn vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo đã
lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai CTDV một cách toàn diện, đồng bộ, theo
một cơ chế thống nhất, chặt chẽ với nhiều nội dung, hình thức phong
phú. Nội dung CTDV đã bám sát và đi sâu vào thực tế các lĩnh vực đời
sống xã hội, vận động mọi tầng lớp dân cư, nhất là đồng bào các dân


16

tộc, tôn giáo trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu và địa bàn
trọng điểm chiến lược. Các hình thức cơng tác có tính phổ biến được
Hội nghị CTDV của quân đội tổng kết là: Kết nghĩa; hành quân dã
ngoại, làm công tác dân vận; hoạt động của tổ, đội công tác và cử cán
bộ tăng cường cho cơ sở, được vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả.
Đã có 100% đơn vị cấp cơ sở tổ chức kết nghĩa với các đơn vị địa
phương, phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở, vành đai an toàn. Đã
tổ chức trên 16.000 lượt hành quân dã ngoại làm dân vận từ cấp đại
đội, tiểu đoàn đến cấp trung, lữ đồn; đã góp phần tham gia xây dựng
2.743 lượt xã, phường, cơ sở vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân

tộc.
Từ năm 2002, thực hiện chỉ thị 123/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ
Quốc phịng về “Củng cố, kiện tồn và hoạt động của các tổ đội công
tác tăng cường trên các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và
biên giới Việt Lào”, các quân khu và Quân đoàn 3 đã thành lập 216 đội
công tác, với 1658 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và hạ sĩ quan
chiến sĩ tham gia về 25 tỉnh, trên 100 huyện, 240 xã miền núi, tổ chức
tuyên truyền tập trung 3.348 buổi, có 29 vạn đồng bào tham gia; góp
phần củng cố 222 lượt tổ chức cơ sở đảng, 579 tổ chức chính quyền
cấp xã, thôn, 1.118 lượt tổ chức quần chúng, xây dựng 1.027 lượt tổ an
ninh nhân dân; củng cố huấn luyện quân sự cho 76 đơn vị dân quân tự
vệ; tham gia cùng địa phương xố đói giảm nghèo cho 245 hộ với
1.552 nhân khẩu, giúp địa phương giải quyết kịp thời, dứt điểm 715 vụ
việc phức tạp phát sinh ở cơ sở8. Đồng thời các đơn vị đã kết hợp tốt
8

Tóm lược số liệu, theo Lê Văn Dũng, Xây dựng QĐNDVN về chính trị, Nxb QĐND, H. 2004,
tr. 394.


17

các hình thức mới như tham gia chương trình phổ cập tiểu học, chương
trình quân- dân y, liên kết ứng dụng khoa học kỹ thuật, tạo nguồn cán
bộ cơ sở, giao lưu văn nghệ, thể thao... Các đoàn kinh tế quốc phòng
trên các địa bàn trọng điểm chiến lược đã góp phần quan trọng giữ
vững ổn định chính trị cùng với bộ đội biên phòng bảo vệ vững chắc
chủ quyền an ninh biên giới quốc gia, góp phần xố đói giảm nghèo
vùng đồng bào vùng cao, vùng biên giới. Các đơn vị này đã thực sự
trở thành chỗ dựa của cấp uỷ, chính quyền cơ sở, được đồng bào các

dân tộc tin cậy, yêu mến.
Những kết quả CTDV của các đơn vị trên đại bàn rừng núi, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đạt được trong thời gian qua là rất quan
trọng. Song từ thực tiễn hoạt động và những diễn biến mới nảy sinh,
CTDV ở đó đang đặt ra nhiều vấn đề bất cập, cần có nhận thức đúng và
khắc phục kịp thời đó là:
- Nhận thức vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung, yêu cầu
nhiệm vụ CTDV trên địa bàn chiến lược của khơng ít cán bộ, chiến sĩ,
thậm chí có cả cán bộ chủ trì đơn vị cơ sở cịn thiếu sâu sắc, thiếu tồn
diện.
- Một số đơn vị tiến hành các hình thức CTDV cịn thiếu linh
hoạt, thậm chí cịn có biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích, chưa
coi trọng chất lượng, hiệu quả; số ít trường hợp lợi dụng cơng tác dân
vận để mưu lợi cá nhân.
- Năng lực tiến hành CTDV của số khơng ít cán bộ, chiến sĩ khi
tiếp xúc với đồng bào các DTTS còn hạn chế, thiếu hiểu biết về đặc


18

điểm văn hoá, truyền thống, phong tục, tập quán, những điều cấm kỵ
riêng biệt...hiện tượng không biết, không hiểu ngôn ngữ dân tộc còn
khá phổ biến, ảnh hưởng lớn đến cơng tác vận động đồng bào dân tộc ít
người trong thời gian qua.
- Khơng ít trường hợp có biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác đối
với âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, thiếu kiên định, vững
vàng khi gặp phải những trường hợp phức tạp nảy sinh về chính trị, xã
hội, tỏ ra lúng túng do khơng nắm vững chủ trương, chính sách, kiến
thức cơng tác vận động nhân dân.
- Cơ sở vật chất trong tiến hành CTDV ở các vùng DTTS, trang

bị còn thiếu thốn, đơn điệu, khơng thiết thực.
Tồn bộ tình hình đó phản ảnh một tình trạng chung của CTDV
của quân đội ở địa bàn rừng núi, vùng sâu, vùng xa còn biểu hiện chưa
thực sự vững chắc, thiếu tính tồn diện, hệ thống, manh mún, kém hiệu
quả.
1.4. Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng nước ta hiện nay
âm mưu xuyên suốt của kẻ thù là chia rẽ dân tộc, nhất là chia rẽ
các DTTS với người Kinh, chia rẽ nhân dân các DTTS với Đảng, Nhà
nước và chế độ, chia rẽ nội bộ nhân dân các dân tộc; phá hoại khối đại
đồn kết tồn dân tộc, kích động ly khai, xúi dục xưng vương, đòi tự trị
dân tộc hòng chia rẽ, xé nhỏ, làm suy yếu rồi đi đến xóa bỏ chế độ
XHCN ở nước ta.


19

Hiện nay, các thế lực thù địch đang có những âm mưu, thủ đoạn
riêng mà chúng cho là thích hợp với từng vùng như:
Đối với các dân tộc khu vực miền núi phía Bắc: chúng kích động
đồng bào địi thành lập “Vương quốc Hmông tự trị”, “Khu tự trị người
Thái”, tuyên truyền tư tưởng “Đại Thái”, kích động xưng vua, tổ chức
dư cư bất hợp pháp...
Đối với các dân tộc vùng núi Tây nguyên: bọn đế quốc và các thế
lực thù địch bên ngồi đã chỉ đạo, kích động, mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ
các đối tượng phản cách mạng trong nước đòi ly khai, đòi thành lập
“Nhà nước Đề Ga độc lập”, lập ra “Tin lành Đề Ga” (tách khỏi Tin
lành của người Kinh) để hoạt động chống phá ta. Chúng không ngừng
phát triển thứ đạo Tin lành theo kiểu Mỹ, tổ chức dư cư bất hợp pháp...
Đối với vùng Tây Nam Bộ: Thủ đoạn chủ yếu của chúng là gây

thù hằn, chia rẽ người Khơme với người Kinh, giữa Việt Nam với
Campuchia, tuyên truyền vận động theo một luận điệu phản động là
đòi “trả” vùng Khơme Nam Bộ về Campuchia, lập “Nhà nước Khơme
Campuchia Krôm độc lập”.
Chúng thường hoạt động lén lút, núp dưới chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền”, “hoạt động nhân đạo”... vừa bí mật, vừa “cơng khai
hố”, “quốc tế hố”, kêu gọi bên ngồi can thiệp khi bị xử lý. Nổi lên
trong giai đoạn hiện nay là các thủ đoạn sau:
Tăng cường tập hợp lực lượng phản động lưu vong ở bên ngoài
vào các tổ chức, hội, nhóm, đẩy mạnh liên kết với nhau và câu kết với
các phần tử chống đối trong nước hoạt động chống phá ta. Bọn phản


20

động người Chăm lưu vong lập ra các tổ chức: “Văn phịng Chămpa
quốc tế”, “Hội bảo tồn văn hố Chămpa tại Hoa Kỳ”, “Hội văn hoá
truyền thống Chămpa”...tại Hoa Kỳ và Pháp, trong đó chủ yếu là các
phần tử chống đối cũ, gồm cả chức sắc bất mãn, bọn FULRO. Bọn
phản động người H mông, người Thái, người Dao lưu vong tại Mỹ,
Pháp thành lập các tổ chức: “Hội người Hmơng thế giới”, “Hội văn hố
cổ truyền người H mơng”, “Liên hiệp những người Dao”, “Trung tâm
nghiên cứu Thái học”...
Lợi dụng chính sách mở cửa của ta và sự phát triển khoa học kỹ
thuật về mạng thông tin quốc tế toàn cầu, từ bên ngoài chúng tăng
cường tác động vào các vùng DTTS nước ta. Ngoài việc đưa người
trực tiếp móc nối, chỉ đạo lực lượng phản động trong nước, chúng đã
và đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, đài
phát thanh...), phương tiện kỹ thuật hiện đại (điện thoại, Fax,
Internet...) để tác động vào trong nước, để tuyên truyền, chia rẽ khối

đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách, kích động tư tưởng hẹp hòi
dân tộc, tư tưởng hướng ngoại, tuyên truyền phát triển đạo trái phép
vào các vùng DTTS, đặc biệt là vùng Tây Bắc và Tây Nguyên. Lợi
dụng chính sách mở cửa, đa dạng hố, đa phương hố, thơng qua hoạt
động du lịch, thăm thân nhân, tài trợ, hợp tác, hoạt động từ thiện để
đưa người, tài liệu vào hoạt động móc nối, gây cơ sở, lơi kéo, kích
động tư tưởng chống đối vào số trí thức, các cán bộ người dân tộc.
Chúng đặc biệt chú ý lợi dụng các hoạt động nghiên cứu văn hoá
dân tộc để thâm nhập vào nội bộ, đi sâu xuống tận cơ sở thu thập tin
tức, lôi kéo những phần tử bất mãn, chức sắc người DTTS, âm mưu tạo


21

dựng “ngọn cờ” nhằm tập hợp quần chúng, hình thành tổ chức, lực
lượng bên trong, tạo cớ can thiệp và bạo loạn khi có cơ hội. Đẩy mạnh
các hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc bằng các thủ
đoạn: Khơi lại vấn đề lịch sử, sưu tầm tài liệu, thu thập “bằng chứng”
về quá trình hình thành, phát triển và diệt vong của mỗi dân tộc nhằm
mục đích lừa bịp các dân tộc thiểu số rằng họ bị dân tộc Kinh “xâm
lược”, cai trị, đồng hoá nên các dân tộc nhỏ bé bị mất nước, kích động
đòi phục hồi các quốc gia xa xưa.
Lợi dụng những khó khăn về đời sống, khuyết điểm và thiếu sót
trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tơn giáo và kinh tế - xã hội ở
vùng cao, vùng sâu, vùng xa, chúng xuyên tạc, kích động chống đối
trong đồng bào. Chúng khơi lại các mâu thuẫn, xung đột xảy ra giữa
các dân tộc trong quá khứ nhằm kích động sự chống đối trong người
DTTS đối với người Kinh. Như, đối với vùng Khơme Nam Bộ: Chúng
tuyên truyền vùng đất Nam Bộ trước đây là của Campuchia bị Việt
Nam xâm chiếm, và rằng “ở đâu có cây thốt nốt, có chùa Khơme thì ở

đó là đất Khơme...”. Chúng tun truyền luận điệu người Kinh phá
chùa, giết sư sãi, cấm đạo, cấm học chữ Khơme, đồng hoá người
Khơme. Đối với dân tộc Chăm: chúng tuyên truyền rằng lịch sử
Chămpa đã từng có nhà nước hưng thịnh, quá trình diệt vong của
Vương quốc Chămpa là do người Việt gây nên, kích động địi phục hồi
“Nhà nước Chămpa”. Đối với vùng Tây Nguyên: Chúng tuyên truyền
luận điệu rằng người Kinh lên chiếm đất và tài nguyên của người dân
tộc, phân biệt đối xử với người dân tộc, bóc lột, nơ dịch người dân tộc
miền núi...


22

1.5- Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của qn đội
địi hỏi CTDVphải có sự phát triển mới.
Ngày nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng
CNXH, vấn đề củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất giữa
Đảng và nhân dân, sự đồng thuận giữa các dân tộc Việt Nam càng trở
nên cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi cuộc cách mạng
XHCN mà nhân dân ta xây dựng là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn
diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay go, phức tạp nhất trong lịch
sử. Đòi hỏi Đảng ta phải động viên và phát huy đến mức cao nhất tính
tức cực và sáng tạo của quần chúng nhân dân, chỉ có như vậy chúng ta
mới xây dựng thành công CNXH, thực hiện được ước muốn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và con đường của cả dân tộc ta đã lựa chọn.
Nghị quyết Hội nghị TW8 khoá IX đã xác định mục tiêu của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là: “Bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo

vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hố; giữ vững ổn
định chính trị và mơi trường hồ bình, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết số 152/NQ-ĐUQSTW ngày 1-8-2003 của ĐUQSTW
về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ
trang trong thời kỳ mới, đã chỉ rõ: “Bảo vệ khơng chỉ là phịng ngừa
mà trước hết phải chăm lo xây dựng cho mình mạnh lên, kết hợp chặt
chẽ giữa xây dựng và bảo vệ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì


23

có lợi cho dân, cho nước, có ích cho độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm”.
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp,
không thể coi thường bất kỳ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
số bộ phận cán bộ, đảng viên, gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng
phí là rất nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu
“diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền” hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trong bối cảnh ấy, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay có bước phát
triển, bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học-cơng nghệ, văn hố, đối ngoại;
bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân,
tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi ngăn chặn và làm thất bại mọi âm

mưu, thủ đoạn "diễn biến hồ bình", đẩy lùi và khắc phục nguy cơ đe
doạ an ninh đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, giữ mơi trường hồ bình ổn
định lâu dài là nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách hàng đầu trong bảo vệ Tổ
quốc hiện nay”.
Quân đội là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành
tin cậy của Đảng và Nhà nước, quân đội với chức năng và nhiệm vụ
của mình, nhiệm vụ trọng tâm của quân đội là sẵn sàng chiến đấu và


24

chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị quốc
phịng an ninh của địa phương và trong phạm vi cả nước, đồng thời
thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất,
tham gia xây dựng phát triển kinh tế trên địa bàn, tham gia xây dựng cơ
sở địa phương vững mạnh, xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận
quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng
khu vực phịng thủ vững chắc. Vì vậy, Đảng ủy quân sự Trung ương đã
xác định, công tác dân vận là một mũi tiến cơng chính trị vào kẻ thù
nhằm giữ dân, bảo vệ dân, nắm vững dân, hiểu dân, củng cố và xây
dựng lòng tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân
đội.
Đặc biệt, với bản chất truyền thống của quân đội ta là ln gắn bó
máu thịt với nhân dân trên địa bàn đóng quân, có nhiều kinh nghiệm
trong vận động quần chúng nhân dân đấu tranh chống bọn phản động,
giúp dân xố đói giảm nghèo, định canh định cư... Cho nên trong giai
đoạn hiện nay, yêu cầu đặt ra để thực hiện tốt chức năng của mình, các
đơn vị quân đội có trách nhiệm tham gia xây dựng cơ sở địa phương
vững mạnh, trước hết là vững mạnh về chính trị, nâng cao hiệu lực của
hệ thống chính trị, gắn liền xây dựng địa bàn an toàn với phát triển

kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh vững mạnh.
2. Một số giải pháp cơ bản tăng cường công tác dân vận của
các đơn vị đóng quân trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải đảo giai
đoạn hiện nay


25

Việc xác định đúng đắn những giải pháp cơ bản có khả thi để
tăng cường CTDV của các đơn vị quân đội trên địa bàn rừng núi, biên
giới, hải đảo hiện nay là vấn đề khơng đơn giản, nhưng có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong phát triển mối quan hệ quân dân lên một tầm cao
mới. Từ vị trí, vai trò, thực trạng và yêu cầu của CTDV hiện nay, đòi
hỏi các đơn vị khi tiến hành CTDV trên địa bàn rừng núi, biên giới, hải
đảo cần quán triệt và thực hiện tốt các giải pháp sau:
2.1- Tiếp tục giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, bồi
dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận cho các tổ chức, các lực
lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, chỉ huy đơn vị, cơ quan chính trị,
cán bộ chính trị, các tổ đội công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Đây là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các
giải pháp khác. Có nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định
hướng và thúc đẩy hành động tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức
càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ càng mạnh mẽ, vai trò định
hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc biệt là nhận
thức của lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan có vai trị rất quan trọng.
Nhưng nhận thức của cán bộ, chiến sĩ khơng phải tự phát hình
thành mà phải thơng qua hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng
bộ, và phải thường xun, có kế hoạch, có mục đích, phương pháp cụ
thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ. Thực tiễn cho thấy, ở đâu

cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm cao thì ở đó
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng phương


×