Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.56 KB, 106 trang )

Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để
đáp ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những
biện pháp được các nhà quản lý đặt biệt quan âm hiện nay là công tác kế
toán nói chung cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm nói riêng.
Trong đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được coi là
một khâu trung tâm của công tác kế toán mở ra hướng đi hết sức đúng đắn
cho các doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản xuất là đầu vào của quá trình
sản xuất, do vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm, đồng
thời đảm bảo đầu ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp
nhận và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa, mục đích
cuối cùng của quá trình sản xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm
chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Xuất phát từ vấn đề đó mức tính giá thành sản
phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất bỏ ra theo đúng chế
độ của Nhà nước.
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những
mặt thuận lợi, cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các
doanh nghiệp. Vì vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuận cao
thì bên cạnh việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp
thị hiếu người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải
có giá thành hạ, phù hợp với sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản
phẩm đã trở thành nhân tố quyết định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp.
Đặc biệt trong ngành xây dựng cơ bản, hạ giá thành sản phẩm đã được đặt
ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm tạo tiền đề cho các ngành
Trang 1
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
sản xuất trong nền kinh tế quốc dân cùng hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy


xây dựng cơ bản nhằm trang bị tài sản cố định cho tất cả các ngành kinh tế
quốc dân khác góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng
lực sản xuất cho nền kinh tế.
Với tất cả ý nghĩa như vậy, cùng với thời gian thực tập ở Công ty xây
lắp và vật tư xây dựng 5, em thấy vấn đề chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm là vấn đề nổi bật, cần phải được các nhà quản lý và hạch toán
quan tâm. Tuy còn nhiều thiếu sót và hạn chế, song với vốn kiến thức đã
được học và tích luỹ trong nhà trường, kết hợp với các tài liệu đọc thêm,
em quyết định đi sâu vào nghiên cứu đề tài: "Hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5" để
hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài có kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp xây lắp
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại công ty xây lắp vật tư xây dựng 5.
Chương 3: Một số nhận xét và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây lắp và
vật tư xây dựng 5.
Trang 2
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1 Sự cần thiết phải tổ chức kế toán tập hợp chi phí và giá thành
trong doanh nghiệp xây lắp:
Hiện nay, nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước - thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường. Nhưng để doanh nghiệp kinh doanh thực sự có lãi, mở
rộng quy mô sản xuất thì vấn đề làm thế nào để xác định kết quả SXKD

của mình cao hay thấp so với chi phí bỏ ra là điều mà các doanh nghiệp
thực sự quan tâm, trên cơ sở hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm.
Việc có các thông tin về chi phí là cơ sở để các nhà quản lý doanh nghiệp
ấn định giá, phân tích việc sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực và
sử dụng chúng có hiệu quả hay không. Từ đó, đưa ra những quyết định
đúng đắn cho quá trình SXKD của đơn vị.
Lĩnh vực XDCB là một trong những ngành có tốc độ phát triển
nhanh đặc biệt trong những năm gần đây. Khác với các đơn vị SXKD khác,
XDCB là ngành sản xuất vật chất tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm chiếm tỷ trọng lớn vốn đầu tư
của nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng thường là những công trình
xây dựng có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, có ý nghĩa quan trọng về
kinh tế. Hơn nữa sản phẩm của xây dựng còn thể hiện bản sắc văn hoá, ý
thức thẩm mỹ và cách cấu trúc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Ngành XDCB với đặc điểm sản xuất là thời gian dài, vốn lớn, ...
nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý vốn có hiệu quả, hạn chế tối đa
Trang 3
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
tình trạng thất thoát và lãng phí vốn trong quá trình thi công nhằm giảm chi
phí trong xây dựng, hạ giá thành sản phẩm và tăng tính cạnh tranh trên thị
trường. Do vậy, hạch toán chi phí và tính GTCT xây lắp chiếm một vị trí
quan trọng không thể thiếu được đối với các công trình xây dựng nói riêng
và đối với xã hội nói chung, là cơ sở để nhà nước kiểm soát vốn đầu tư
XDCB và tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Thông qua công tác
hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm các nhà quản lý có thể phân
tích đánh giá tình hình thực tế sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu
quả.
Vì những lí do trên, việc nghiên cứu các khoản mục CPSX và tính GTCT
xây lắp là một đòi hỏi cần thiết. Từ đó, doanh nghiệp sẽ thực hiện các
khoản mục CPSX và tính giá thành đồng thời tìm ra các biện pháp phù hợp,

đúng đắn nhằm hạ giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Nhận
thức được ý nghĩa và tầm quan trọng này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài:"Hạch toán chi phí và tính giá thành công trình xây lắp tại Công ty
Xây lắp và Vật tư xây dựng 5 - Hà Nội".
1.1.1 Chi phí sản xuất và giá thành trong doanh nghiệp xây lắp
- Chi phí sản xuất trong hoạt động kinh doanh xây lắp, CPSX là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật
hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành sản
phẩm xây lắp
Chi phí về lao động sống gồm: chi phí tiền lương hoặc tiền công, trích
BHXH, BHYT, KPCĐ.
Chi phí về lao động vật hoá gồm: Chi phí nguyên - nhiên vật liệu, chi phí
khấu hao TSCĐ...
Như vậy, quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá là quá trình kết
hợp 3 yếu tố cơ bản:
- Tư liệu lao động: Nhà xưởng, máy móc thiết bị
- Đối tượng lao động: Nguyên, nhiên vật liệu
Trang 4
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
- Sức lao động: Gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp.
Ba yếu tố trên hình thành nên các CPSX để tạo ra giá trị sản phẩm
sản xuất và là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
người sản xuất.
Vì vậy, việc tính đúng, đủ và chính xác những chi chí bỏ ra qua
quá trình thi công công trình ở các doanh nghiệp xây lắp rồi phân tích
chúng một cách khoa học, khách quan sẽ là cơ sở để doanh nghiệp có kế
hoạch trong việc cân đối dự trữ các yếu tố đầu vào, kịp thời xử lý các biến
động về giá cả, từ đó thấy được kết quả SXKD của công ty để có thể nâng
cao mức doanh lợi và quản lý được chặt chẽ, tiết kiệm hơn các chi phí.
- Giá thành sản phẩm xây lắp : là toàn bộ chi phí sản xuất để hoàn thành

một khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định.
Giá thành hạng mục công trình hoặc công trình hoàn thành là toàn bộ giá
thành sản phẩm đạt giá trị sử dụng của sản phẩm xây lắp
Trong doanh nghiệp xây lắp giá thành sản phẩm mang tính cá biệt, luôn
chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong của nó, đó là chi phí bỏ ra
và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong công trình khi đã hoàn
thành. Mỗi CT, HMCT đều có một giá thành riêng và khi nhận thầu một
CT, HMCT thì giá bán đã có trước khi thi công vì vậy giá bán có trước khi
xác định gía thành kế hoạch và giá thành dự toán.
1.1.2 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp xây lắp
Mối quan hệ biện chứng giữa CPSX và giá thành sản phẩm là chúng đều
có giới hạn để tập hợp chi phí nhằm phục vụ cho quản lý, phân tích và
kiểm tra công tác giá thành. Bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển
dịch giá trị của những yếu tố chi phí vào những sản phẩm, công việc nhất
định đã hoàn thành. Giá thành luôn chứa đựng hai mặt khác nhau, bên
trong nó là CPSX và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối
lượng sản phẩm công việc đã hoàn thành. Chi phí là biểu hiện về mặt hao
Trang 5
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
phí, còn giá thành biểu hiện về mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là
hai mặt thống nhất của một quá trình nên CPSX và giá thành sản phẩm
giống nhau về chất. CPSX và giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm các
hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã
bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nhưng do bộ phận CPSX không
đều nhau nên CPSX và giá thành sản phẩm xây lắp khác nhau về lượng.
Nếu CPSX là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định
thì gía thành sản phẩm là tổng hợp những chi phí chi ra gắn liền với việc
sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp nhất định được
nghiệm thu, bàn giao và thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao hàm

những chi phí cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên
quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân bổ kỳ
sau. Nhưng GTSP lại bao gồm những CPSX kỳ trước chuyển sang, những
chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những chi
phí của kỳ trước chuyển sang phân bổ cho kỳ này. Mối quan hệ giữa CPSX
và giá thành sản phẩm được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí và giá thành
C
DDĐK
C
PSTK
Z C
DDCK
Ta có: Z = C
DDĐK
+ C
PSTK
- C
DDCK
Trong đó: Z: Tổng giá thành sản phẩm
C
DDĐK
: Chi phí dở dang đầu kỳ
C
PSTK
: Chi phí phát sinh trong kỳ
C
DDCK
: Chi phí dở dang cuối kỳ
Trang 6

Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp là các tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân và
điều kiện để thực hiện những công việc có liên quan đến quá trình thi công
xây dựng và lắp đặt thiết bị cho các công trình, hạng mục công trình như:
công ty xây dựng, công ty lắp máy, tổng công ty xây dựng... Các đơn vị
này tuy có khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng đều là
những tổ chức hạch toán kinh tế có đầy đủ chức năng nhận thầu xây lắp các
công trình xây dựng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp có đặc điểm
như sau:
- Được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng đã ký với đơn vị chủ đầu
tư sau khi trúng thầu hoặc được chỉ định thầu. Trong hợp đồng hai
bên đã thống nhất với nhau về giá trị thanh toán của công trình
cùng với các điều kiện khác. Do vậy, tính chất hàng hóa của sản
phẩm xây lắp không được thể hiện rõ, nghiệp vụ bàn giao công
trình, hạng mục công trình hoặc khối lượng xây lắp hoàn thành đạt
điểm dừng kỹ thuật cho bên giao thầu chính là quá trình tiêu thụ
sản phẩm xây lắp.
- Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc... có quy mô
lớn, kết cấu phức tạp , mang tính chất đơn chiếc, thời gian xây
dựng dài.
- Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện cần
thiết cho sản phẩm như các loại xe máy,thiết bị, nhân công... phải
di chuyển theo địa điểm đặt công trình. Mặt khác, việc xây dựng
còn chịu tác động của địa chất công trình và điều kiện thời tiết,
khí hậu của địa phương....vì vậy công tác quản lý và sử dụng tài
sản, vật tư cho công trình rất phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng đơn
Trang 7

Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
giá cho từng loại công tác xây lắp cũng như đơn giá cho từng
vùng lãnh thổ.
- Sản phẩm xây lắp hoàn thành thường được tiêu thụ trước khi tiến
hành sản xuất theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước.
Do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ.
- Trong các doanh nghiệp xây lắp, cơ chế khoán gọn đang được
áp dụng rộng rãi với các hình thức giao khoán khác nhau như:
khoán gọn công trình (khoán toàn bộ chi phí), khoán theo từng
khoản mục chi phí. Do vậy, phải hình thành bên giao khoán, bên
nhận khoán và giá khoán.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây dựng
nên việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết
kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan
tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay,
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận
thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh
nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở định mức, đơn
giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và
khả năng của bản thân doanh nghiệp. Mặt khác, phải đảm bảo kinh doanh
có lãi. Để thực hiện các yêu cầu trên đòi hỏi phải tăng cường công tác quản
lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm
là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành đảm bảo phát huy tối
đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất.
1.1.4 Nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành trong
các doanh nghiệp xây lắp
Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh xây lắp nên nhiệm vụ chủ
yếu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp là: Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành phù hợp với điều kiện hiện tại của doanh nghiệp và thoả mãn yêu

Trang 8
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
cầu do quản lý đặt ra, vận dụng các phương pháp tính giá thành và phương
pháp kế toán theo một trình tự logic, tính toán chính xác, đầy đủ kiểm tra
các khâu hạch toán như: tiền lương, vật liệu, tài sản cố định, ... xác định số
liệu cần thiết cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
Cụ thể phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
* Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực chất phát
sinh.
* Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, lao động,
sử dụng máy thi công và các dự toán chi phí khác, phát hiện kịp thời các
khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các
khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng... trong sản xuất để đề xuất những biện
pháp ngăn chặn kịp thời.
* Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ
hoàn thành của doanh nghiệp.
* Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp
theo từng công trình, hạng mục công trình, từng loại sản phẩm lao vụ, vạch
ra khả năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý có hiệu quả.
* Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng
công tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng
thi công dở dang theo nguyên tắc quy định.
• Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh ở
từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ
đội sản xuất... trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo
về chi phí sản xuất, tính giá thành công tác xây lắp, cung cấp
chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và
giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh
nghiệp.
Trang 9

Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
• Lập Báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành công tác
xây lắp, cung cấp số liệu chính xác, nhanh chóng, kịp thời các
thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu quản lý của lãnh đạo.
1.2 Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh
ngiệp xây lắp.sản xuất
1.2.1 Phân loại chi phí sản xuất
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác, trong doanh nghiệp xây dựng
có rất nhiều loại chi phí khác nhau, tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng
cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi phí... mà chi phí sản xuất được
phân loại theo các tiêu thức sau:
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung và tính chất
kinh tế của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí về các loại đối
tượng lao động là nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng
thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản...
- Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản khác phải trả
cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số phải trích khấu hao
trong kỳ đối với tất cả các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền trả cho các dịch vụ mua ngoài
để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá
trình hoạt động sản xuất ngoài bốn yếu tố chi phí trên.
Phân loại chi phí theo cách này có tác dụng cho biết kết cấu tỷ trọng
từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động sản
Trang 10
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính

xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ cho yêu
cầu thông tin và quản trị doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự
toán chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài
liệu quan trọng dùng làm căn cứ xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập
quốc dân.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo công dụng của chi phí:
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được chia thành:
- Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm: là toàn bộ chi phí liên quan đến
việc sản xuất, chế tạo sản phẩm cũng như các chi phí liên quan đến hoạt
động quản lý và phục vụ sản xuất trong các phân xưởng, tổ đội sản xuất.
Chi phí này được chia thành:
+ Chi phí trực tiếp: là những chi phí có liên quan đến quá
trình chế tạo sản phẩm bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và
chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp (chi phí sản xuất chung): là những chi phí
phục vụ quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các lao vụ
dịch vụ.
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ
bán sản phẩm hàng hoá, lao vụ dịch vụ, còn gọi là chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí hoạt động khác: là những chi phí phát sinh trong quá trình
tiến hành các hoạt động khác như: chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất
thường.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ các chi phí phục vụ và
quản lý chung hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: chi
phí quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính.
Theo cách phân loại này các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm sẽ là
những chi phí cấu thành trong quá trình sản phẩm theo các khoản mục giá
Trang 11
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính

thành đã quy định đó là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm sản xuất của ngành,
ngoài ba loại chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp
và chi phí sản xuất chung còn có thêm chi phí sử dụng máy thi công là toàn
bộ chi phí cho sử dụng máy thi công như chi phí nhiên liệu cho máy, chi
phí nhân công sử dụng máy, chi phí khấu hao máy.
Ngoài cách phân loại chủ yếu trên phục vụ trực tiếp cho công tác
quản lý và công tác kế toán chi phí sản xuất kinh doanh còn có thể được
phân loại theo các hình thức khác như: căn cứ vào mối quan hệ chi phí sản
xuất kinh doanh với khối lượng sản phẩm lao vụ hoàn thành (chia thành chi
phí cố định và chi phí biến đổi) hay căn cứ vào phương pháp tập hợp kế
toán chi phí (chi phí trực tiếp và chi phí phân bổ gián tiếp)
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho
từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng
chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả nhất toàn bộ chi
phí sản xuất phát sinh trong toàn doanh nghiệp, trong từng thời kỳ nhất
định.
1.2.2 Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Trong các doanh nghiệp xây lắp có những loại giá thành sau:
 Nếu căn cứ vào cơ sở số liệu tính giá thành, giá thành được chia làm
3 loại:
 Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối
lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán
được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá
của Nhà nước. Giá thành kế hoạch: là giá thành được xây dựng
trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định
Trang 12
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
mức, đơn giá, biện pháp thi công. Giá thành này nhỏ hơn giá trị dự

toán xây lắp ở mức hạ giá thành kế hoạch.
 Giá thành thực tế: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để
hoàn thành khối lượng xây lắp. Giá thành này được xây dựng trên
cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất đã tập hợp được cho khối
lượng xây lắp thực hiện trong kỳ. Giá thành công trình lắp đặt
thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt, bởi vì thiết
bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp
nhận thầu xây lắp.
Thông thường do yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán kinh tế
thì giá thành thực tế phải nhỏ hơn giá thành kế hoạch để có mức tiết kiệm
chi phí, hạ giá thành sản phẩm và chúng có mối quan hệ:
Giá thành thực tế < Giá thành kế hoạch < Giá thành dự toán
Vì các sản phẩm xây lắp có thời gian thi công kéo dài nên để theo
dõi một cách chặt chẽ những chi phí phát sinh, doanh nghiệp có thể phân
giá thành thực tế thành các bộ phận sau:
- Giá thành thực tế công tác xây lắp: phản ánh giá thành của một
lượng công tác xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật nhất định. Theo cách
này cho phép xác định, kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để điều chỉnh cho
phù hợp ở những giai đoạn sau và phát hiện ra những nguyên nhân gây
tăng, giảm chi phí.
- Giá thành thực tế CT, HMCT hoàn thành: là toàn bộ chi phí
bỏ ra để tiến hành thi công một CT, HMCT từ khi chuẩn bị
đến khi hoàn thành đảm bảo kỹ thuật đúng chất lượng thiết
kế được bên giao thầu nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
 Nếu căn cứ vào mức độ hoàn thành khối lượng xây lắp, giá thành sản
phẩm được chia làm 2 loại:
 Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh: là giá thành của CT,
HMCT đã hoàn thành, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật chất lượng theo
Trang 13
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính

thiết kế và hợp đồng đã được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận
thanh toán.
 Giá thành khối lượng hoàn thành quy ước: là giá thành xây lắp
hoàn thành đến một giai đoạn quy ước thỏa mãn các điều kiện đã
quy định.
 Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán, giá thành sản phẩm xây lắp gồm 2
loại
 Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát
sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi
phân xưởng sản xuất.
 Giá thành tiêu thụ(giá thành toàn bộ sản phẩm) : là chỉ tiêu phản
ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
1.3 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản
phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp
1.3.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Thực chất của việc xác định đối tượng hạch toán CPSX là xác định
phạm vi hay giới hạn của chi phí, nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân
tích chi phí và tính giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán
CPSX là công việc đầu tiên và quan trọng của việc tổ chức hạch toán quá
trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm 2 giai đoạn kế
tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán
CPSX phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai
Trang 14
Giá thành
toàn bộ sản
phẩm
=
Giá thành sản

xuất sản phẩm
+
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
+
Chi phí bán
hàng
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
đoạn công nghệ phân xưởng... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết
sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định.
Việc xác định đối tượng hạch toán CPSX phải căn cứ vào:
- Tính chất sản xuất và quy trình sản xuất: đơn giản hay phức tạp,
quy trình công nghệ liên tục hay song song.
- Loại hình sản xuất: đơn chiếc hay hàng loạt.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất.
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Do đặc điểm SXKD xây lắp có quy trình công nghệ phức tạp và
loại hình sản xuất đơn chiếc, thường phân chia thành nhiều khu vực, bộ
phận thi công. Mỗi hạng mục cấu tạo vật chất khác nhau và đều có thiết kế
riêng, giá dự toán riêng. Vì vậy tuỳ thuộc vào công việc cụ thể, tuỳ thuộc
trình độ quản lý của doanh nghiệp mà có đối tượng hạch toán chi phí khác
nhau, có thể là: CT, HMCT, từng đơn đặt hàng, từng giai đoạn công việc.
1.3.2 Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Khái niệm: đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ
mà doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành, đòi hỏi phải tính tổng giá thành
và giá thành đơn vị.
Đối tượng tính GTCT xây lắp:
Việc đầu tiên trong công tác tính GTCT xây lắp là việc xác định đúng
đối tượng để tính giá thành. Trong các doanh nghiệp XDCB, do sản phẩm
mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm đều có dự toán và thiết kế riêng, tiêu

chuẩn kỹ thuật riêng nên đối tượng tính GTCT xây lắp thường là các CT,
HMCT hay khối lượng công việc có thiết kế và dự toán riêng đã hoàn
thành. Từ đó căn cứ vào chu kỳ SXKD, đặc điểm sản xuất sản phẩm và tổ
chức công tác kế toán mà doanh nghiệp xác định kỳ tính giá thành để đảm
bảo cung cấp số liệu kịp thời phục vụ cho nhu cầu quản lý.
1.3.3 Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành
Trang 15
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
Qua phân tích hai khái niệm trên ta thấy: đối tượng kế toán chi phí
sản xuất và đối tượng tính giá thành có những đặc điểm giống và khác
nhau:
 Giống nhau: đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành giống nhau ở bản chất, đều là những phạm vi, giới hạn
nhất định để tập hợp chi phí sản xuất và theo đó cũng phục vụ
cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí, giá thành sản
phẩm
 Khác nhau:
+ Xác định đối tượng tính chi phí là xác định phạm vi, giới hạn cuả chi
phí liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành của quy trình sản
xuất phát sinh trong kỳ
+ Xác định đối tượng tính giá thành là xác định phạm vi, giới hạn liên
quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành của quy trình công nghệ.
 Mối quan hệ:
+ Một đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối
tượng tính giá thành
+ Một đối tượng tính giá thành có thể bao gồm nhiều đối tượng chi phí.
1.4 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
xây lắp thường được tiến hành vào cuối kỳ kế toán hoặc chi phí công trình

hoàn thành toàn bộ trên cơ sở các bảng tính toán phân bổ chi phí vật liệu,
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công,và chi phí sản
xuất chung cho các đối tượng tập hợp chi phí đã được xác định. Việc tổng
hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp phải thực hiện theo
từng CT, HMCT và theo các khoản mục chi phí đã được quy định.

Trang 16
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
Phương pháp tập hợp CPSX
Các doanh nghiệp xây lắp thường sử dụng 2 phương pháp sau để tập hợp
CPSX:
* Phương pháp tập hợp trực tiếp:
Khi áp dụng phương pháp này thì chi phí liên quan tới CT, HMCT
nào đã được xác định ghi chép ban đầu thì kết chuyển trực tiếp vào CT,
HMCT đó. Khi sử dụng phương pháp này để tập hợp chi phí được đánh giá
là cách tập hợp chính xác nhất. Đồng thời, theo dõi trực tiếp chi phí liên
quan đến đối tượng cần theo dõi. Nhưng việc sử dụng phương pháp này tốn
nhiều thời gian, công sức và không phải lúc nào cũng sử dụng được bởi có
những đối tượng không thể theo dõi riêng.
* Phương pháp phân bổ gián tiếp:
Vì trong doanh nghiệp xây lắp cũng có những đối tượng không thể
theo dõi riêng được nên kế toán không thể tổ chức hạch toán riêng do vậy
cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ sao cho hợp lý với từng đối tượng.
Tính chính xác của phương pháp này phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ.
Theo phương pháp này thì cần tiến hành hai bước sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ
Hệ số phân bổ =
Tổng chi phí cần phân bổ
Tổng đơn vị tiêu thức cần phân bổ cho
các đối tượng

Bước 2: Tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng:
Chi phí phân bổ
cho đối tượng A
=
Hệ số
phân bổ
X
Tiêu thức phân bổ
của đối tượng A
Sự phân bổ chi phí theo phương pháp phân bổ gián tiếp mang tính
chính xác không cao do phụ thuộc vào việc lựa chọn tiêu thức phân bổ.
Nhưng nếu xác định được tiêu thức phân bổ hợp lý thì độ chính xác của
phương pháp này đáng tin cậy.
1.4.1 Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Trang 17
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
+ Chi phí vật liệu trực tiếp xây lắp là những chi phí vật liệu chính,
vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu CT, vật liệu luân
chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp hoặc
giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như :
sắt thép, xi măng, gạch, gỗ, cát, đá, sỏi, đà giáo...
+ Chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành công
tác xây lắp. Do đó, việc hạch toán chi phí vật liệu chính xác có ý
nghĩa quan trọng để xác định lượng tiêu hao vật chất trong sản
xuất cũng như tính chính xác hợp lý của giá thành công trình
xây lắp.
Trong hạch toán chi phí vật liệu xây dựng trực tiếp, kế toán cần phải tôn
trọng những quy định có tính nguyên tắc như sau:
- Vật liệu sử dụng cho việc xây dựng hạng mục công trình nào thì
tính trực tiếp cho CT, HMCT đó trên cơ sở các chứng từ gốc có

liên quan, theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo giá thành
thực tế xuất kho.
- Cuối kỳ hạch toán hoặc khi CT hoàn thành phải tiến hành kiểm
kê số vật liệu chưa sử dụng hết ở các công trường, bộ phận sản
xuất để tính số vật liệu thực tế sử dụng cho CT, đồng thời phải
hạch toán đúng đắn số phế liệu thu hồi (nếu có) theo từng đối
tượng CT.
- Trong điều kiện vật liệu sử dụng cho nhiều HMCT thì kế toán áp
dụng phương pháp phân bổ, tính chi phí vật liệu trực tiếp cho
từng đối tượng HMCT theo tiêu thức hợp lý: có thể tỷ lệ với định
mức tiêu hao...
- Kế toán phải sử dụng triệt để hệ thống định mức tiêu hao vật liệu
sử dụng trong xây dựng cơ bản và phải tác động tích cực để
không ngừng hoàn thiện hệ thống định mức đó.
Trang 18
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
Để phản ánh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621-“chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp”
Trình tự kế toán một số nghiệp vụ chủ yếu
(1) Xuất kho nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho CT, HMCT kế toán tính
theo giá thực tế, ghi:
Nợ TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
(2) Trường hợp mua nguyên vật liệu sử dụng ngay cho các CT, HMCT
thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, ghi:
Nợ TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 133- Thuê GTGT được khấu trừ(nếu có)
Có TK 111,112,331
Trường hợp vật liệu mua về sử dụng ngay cho các CT, HMCT thuộc đối
tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, ghi:

Nợ TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có TK 331 hoặc TK 111,112
(3) Trường hợp DNXL giao khoán cho đơn vị trực thuộc không tổ chức
hạch toán kế toán riêng. Khi DNXL tạm ứng cho đơn vị nhận khoán
một số tiền, ghi:
Nợ TK 141-Tạm ứng(1413)
Có TK 111-Tiền mặt
Khi quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp giao khoán nội bộ
hoàn thành đã bàn giao, ghi:
Nợ TK 621(theo giá chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 133(thuế GTGT được khấu trừ)
Có TK 141(1413)(số đã tạm ứng về chi phí vật liệu)
Hoặc trường hợp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT,ghi:
Nợ TK 621(tổng giá thanh toán)
Có TK 141(1413)(số đã tạm ứng về chi phí vật liệu)
Trang 19
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
(4) Trường hợp số vật liệu xuất ra không sử dụng hết cho hoạt động xây
lắp, cuối kỳ nhập lại kho, ghi:
Nợ TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nếu không nhập lại kho mà tiếp tục sử dụng cho kỳ sau, ghi
âm(...)
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
(5) Cuối kỳ căn cứ vào kết quả bảng phân bổ vật liệu cho từng CT, HMCT
theo phương pháp trực tiếp hoặc phân bổ gián tiếp, ghi:
Nợ TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang(1541-
xây lắp)
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp

1.4.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp:bao gồm tiền lương, tiền công phải trả cho số
ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác
xây lắp, công nhân phục vụ công trình xây lắp, kể cả công nhân vận
chuyển, bốc dỡ vật liệu trong phạm vi mặt bằng thi công và công nhân
chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi công, không phân biệt công nhân
trong danh sách hay công nhân thuê ngoài
Kế toán chi phí nhân công trực tiếp của hoạt động xây lắp phải tôn trọng
những quy định sau:
- Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân liên quan đến CT,
HMCT nào thì phải hạch toán trực tiếp cho CT, HMCT đó trên cơ
sở các chứng từ gốc về lao động và tiền lương. Trong điều kiện sản
xuất xây lắp không cho phép tính chi phí trực tiếp chi phí nhân
công cho từng CT, HMCT thì kế toán phải phân bổ chi phí nhân
Trang 20
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
công trực tiếp cho các đối tượng theo tiền lương định mức hay giờ
công định mức.
- Các khoản chi phí trích theo tiền lương phải trả công nhân trực tiếp
xây lắp (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) được
tính vào chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp.
Để kế toán chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622- chi phí
nhân công trực tiếp
Trình tự kế toán một số nghiệp vụ chủ yếu:
(1) Căn cứ vào bảng tính tiền lương phải trả cho công nhân xây lắp, ghi:
Nợ TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 334-phải trả công nhân viên
Có TK 3341- phải trả công nhân viên
Có TK 3342 – phải trả lao động thuê ngoài
(2) Trường hợp tạm ứng để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ(đơn vị

nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng). Khi bản quyết
toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao
được duyệt thì riêng phần chi phí nhân công trực tiếp sẽ ghi:
Nợ TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 141- tạm ứng(1413)
(3) Cuối kỳ, kế toán tính phân bổ và kết chuyển chi phí nhân công trực
tiếp cho từng CT, HMCT theo phương pháp trực tiếp hoặc phân bổ
gián tiếp, ghi:
Nợ TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
1.4.3 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công
 Máy thi công là loại xe máy chạy bằng động lực(điện, xăng, khí
nén...) được sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp các công trình như:
Trang 21
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi,... các loại
phương tiện thi công này doanh nghiệp có thể tự trang bị hoặc thuê
ngoài.
 Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân
công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và
được chia thành hai loại:
+ Chi phí thường xuyên: là những chi phí phát sinh trong quá trình
sử dụng xe máy thi công được tính thẳng vào giá thành của ca
máy như: tiền lương của công nhân trực tiếp điều khiển hay phục
vụ xe máy, chi phí về nhiên liệu, vật liệu, động lực dùng cho xe
máy thi công, khấu hao và sửa chữa thường xuyên xe máy thi
công, tiền thuê xe máy thi công...
+ Chi phí tạm thời: là chi phí phân bổ dần theo thời gian sử dụng
máy thi công như: chi phí tháo lắp, vận chuyển,chạy thử máy thi
công khi di chuyển từ công trường này đến công trường khác: chi

phí về xây dựng, tháo dỡ những công trình tạm thời loại nhỏ như
lều lán...phục vụ cho sử dụng máy thi công. Những chi phí này
có thể phân bổ dần hoặc trích trước theo kế hoạch.
 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công cần phải tôn trọng những quy
đinh sau:
+ Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phải phù hợp với hình
thức quản lý sử dụng máy thi công của doanh nghiệp, thông
thường có hai hình thức quản lý, sử dụng máy thi công: tổ chức
máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng thi công
bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp.
- Nếu doanh nghiệp xây lắp có tổ chức đội máy thi công riêng
biệt và đội máy có tổ chức kế toán thì chi phí sử dụng máy và
giá thành của ca hoặc khối lượng do máy đã hoàn thành được
Trang 22
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
hạch toán giống như bộ phận sản xuất phụ. Chi phí sử dụng máy
thi công tính cho các CT, HMCT có thể tính theo giá thành thực
tế của ca máy hoặc theo khối lượng do máy đã hoàn thành hay
tính theo giá khoán nội bộ.
- Nếu doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công
riêng biệt mà giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp
sử dụng thì chi phí sử dụng máy(kể cả chi phí thường xuyên và
chi phí tạm thời) được hạch toán tương tự như chi phí sản xuất
chung.
+ Chi phí sử dụng máy thi công phải được hạch toán chi tiết theo
từng loại máy hoặc nhóm máy thi công, đồng thời phải chi tiết
theo các khoản mục chi phí quy định.
+ Tính toán phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các đối
tượng sử dụng phải dựa trên cơ sở giá thành một giờ/ máy hoặc
giá thành một ca/máy hoặc một đơn vị khối lượng công việc hoàn

thành.
Để phản ánh chi phí sử dụng máy thi công, kế toán sử dụng TK 623 “chi
phí sử dụng máy thi công”. Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi
phí sử dụng máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp và chỉ
sử dụng để hạch toán chi phí sử dụng máy thi công đối với trường hợp
doanh nghiệp xây lắp công trình theo phương pháp thi công hỗn hợp, vừa
thủ công vừa kết hợp bằng máy. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây
lắp công trình hoàn toàn theo phương pháp bằng máy thì không sử dụng
tài khoản này mà doanh nghiệp hạch toán các chi phí xây lắp trực tiếp vào
các TK 621,622,627. Không hạch toán vào tài khoản này các khoản trích
theo tiền lương phải trả cho công nhân sử dụng sử dụng máy thi công(bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn).
Trang 23
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu
 Trường hợp doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công
riêng biệt:
+ Căn cứ vào bảng tính tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân
điều khiển máy, phục vụ máy thi công, ghi :
Nợ TK 623- Chi phí sử dụng máy thi công (6231)
Có TK 334- Phải trả công nhân viên
+ Khi xuất kho, hoặc mua vật liệu, nhiên liệu, công cụ, dụng cụ sử
dụng cho máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
(6232, 6233)
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu
trừ(nếu có)
Có TK 152,153,142,111,112,331
+ Khấu hao xe máy thi công sử dụng ở đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công

(6234)
Có TK 214- Hao mòn TSCĐ
+ Các chi phí dịch vụ mua ngoài phát sinh có liên quan đến sử dụng
máy thi công như: điện, nước, tiền thuê ngoài sưả chữa máy thi
công...,ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112
+ Các chi phí khác bằng tiền có liên quan đến sử dụng máy thi công,
ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 111, 112
Trang 24
Võ Thị Kim Hồng K40-21-11- Học Viện Tài Chính
+ Trường hợp tạm ứng chi phí sử dụng máy để thực hiện khoán xây
lắp nội bộ, khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp
hoàn thành đã bàn giao được duyệt sẽ ghi:
Nợ TK 623- Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 141- Tạm ứng(1413)
+ Cuối kỳ kế toán phân bổ hoặc kết chuyển chi phí sử dụng máy thi
công vào từng công trình, hạng mục công trình, ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở
dang
Có TK 623-chi phí sử dụng máy thi
công
 Trường hợp doanh nghiệp xây lắp có đội máy thi công riêng biệt
+ Các chi phí có liên quan đến hoạt động của đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 621,622,627
Có TK liên quan:111, 112, 152,153...
+ Cuối kỳ, kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi

phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung của đội máy thi công
để tính giá thành một ca máy hay một đơn vị khối lượng mà máy thi
công đã hoàn thành, ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 621,622,627
+ Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ sử
dụng máy thi công lẫn nhau mà không có tổ chức kế toán riêng ở
đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang
Trang 25

×