ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÁO CÁO NHĨM
CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI VŨ TRỌNG PHỤNG
QUA TIỂU THUYẾT “GIƠNG TỐ”
1
MỤC LỤC
1. Vũ Trọng Phụng và tác phẩm “Giơng tố”
1.1 Tiểu sử Vũ Trọng Phụng
1.2 Đặc trưng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
2. Vũ Trọng Phụng với chủ nghĩa tự nhiên
2.1 Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tự nhiên
2.1.2 Những ngun tắc sáng tác chính của chủ nghĩa tự nhiên
2.2 Sự tiếp nhận của Vũ Trọng Phụng đối với chủ nghĩa tự nhiên
2.3 Ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết
2.3.1 Sơ lược về tác phẩm “Giơng tố”
2.3.2 Yếu tố tự nhiên chủ nghĩa trong tiểu thuyết “Giơng tố” của Vũ Trọng
Phụng
3. Kết luận
4. Tư liệu tham khảo
5. Nhóm thực hiện
2
1. Vũ Trọng Phụng và tác phẩm “Giơng tố”
1.1 Tiểu sử Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng (1912 1939) sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo, cha
mất sớm khi nhà văn vỏn vẹn mới được 7 tháng tuổi, được mẹ đơn thân tảo tần ni
dạy. Ngay sau khi tốt nghiệp cấp tiểu học, Vũ Trọng Phụng phải đi làm kiếm sống,
sống chật vật bấp bênh bằng nghề viết báo, viết văn chun nghiệp. Dù lao động, sáng
tác cật lực, nhưng ngịi bút của ơng vẫn khơng đuổi ni sống gia đình. 1937 1938, ơng
mắc bệnh lao phổi nhưng khơng có điều kiện chạy chữa. Đến năm 1939, ơng mất tại
Hà Nội khi chỉ mới 27 tuổi, để lại gia đình cịn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái
chưa đầy 1 tuổi.
Những tác phẩm của ơng đều đi sâu vào phản ánh hiện thực và các vấn đề tệ
nạn xã hội trong thời kỳ bấy giờ. Đặc biệt, những tác phẩm tiểu thuyết của ơng đã
gây cuộc tranh cãi về vấn đề “dâm hay khơng dâm” ơng cổ vũ cho quan điểm nghệ
thuật hiện thực, các sáng tác tiểu thuyết của ơng đều theo khuynh hướng tả thực. Phần
lớn, các sáng tác của ơng đều hiện thực hóa, phải nhìn thẳng vào sự thật đời sống,
phanh phui tội ác xã hội “tiểu thuyết là sự thật ở đời”. Đó là sự thật về cuộc sống của
người dân lao động, về vơ vàn tội ác của bọn quan lại, địa chủ, tư sản. Từ đó, thể hiện
khát vọng tư tưởng vị nhân sinh, hướng tới tính nhân đạo, thể hiện thái độ câm phẫn
với xã hội “chó đểu”.
Nghệ thuật trào phúng là một yếu tố đặc trưng trong những sáng tác tiểu thuyết
của ơng, được thể hiện qua nhân vật trào phúng, tình huống trào phúng, giọng điệu trào
phúng và ngơn ngữ trào phúng. Cụ thể hơn, nhân vật trào phúng được ơng khắc họa
dựa trên những nét trào phúng thơng qua cử chỉ trong các sự việc mà người đọc tự
nhận thấy đặc trưng tính cách của nhân vật cũng như tính chất châm biếm, mỉa mai.
3
Từ đó, nhà văn khơng phải miêu tả kỹ càng tâm lý nhân vật, suy nghĩ của từng nhân
vật.
1.2 Đặc trưng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn đa tài, ơng có thể sáng tác các thể loại khác
nhau, trong số đó, các tác phẩm tiểu thuyết của ơng đã gây được nhiều tiếng vang. Ơng
để lại rất nhiều tiểu thuyết xuất sắc như: Giơng tố, Số đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ, Trúng số
độc đắc…, Nhiều năm trơi qua, với sự vận động khơng ngừng của đời sống xã hội,
nhiều tác phẩm của nhiều tác giả đã dần trở nên lạ lẫm và đi vào sự qn lãng. Nhưng
đối với Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của ơng dường như có khả năng vượt thời gian
một cách kỳ diệu, ln được nhiều độc giả quan tâm và được đánh giá cao.
Trong giới tiểu thuyết những năm ba mươi của thế kỉ XX, Vũ Trọng Phụng có
con đường đi rất riêng, rất khác biệt với các tác giả viết tiểu thuyết cùng thời. Ơng vơ
cùng nhạy cảm trước thời cuộc, các tác phẩm của ơng cập nhật liên tục những vấn đề
nóng bỏng của cuộc sống, của thời đại. Thơng qua những trải nghiệm của bản thân,
Vũ Trọng Phụng đã miêu tả hết sức sắc sảo đời sống và tâm lý của lớp người dưới
đáy xã hội. Ngịi bút của Vũ Trọng Phụng khơng ngần ngại phê phán, phanh phui
những điều xấu xa, dơ bẩn của xã hội đương thời. Bên cạnh đó, ơng đặt tấm lịng đầy
sự chân thành, trân trọng khi viết về những con người sống có lí tưởng, có nhân cách
cao thượng, sống vì lợi ích chung của cộng đồng. Do theo sát những vấn đề của cuộc
sống, của thời sự nên tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng mang nhiều tính chất phóng
sự, cũng vì vậy, ơng đã có được đóng góp quan trọng cho nền văn học Nam. Đó là sự
kết hợp giữa những đặc trưng trong tiểu thuyết và tính chất cơ bản của phóng sự, một
cách tân về mặt thể loại. Sự kết hợp ấy đã làm tăng chất hiện đại cho tác phẩm của
nhà văn Vũ Trọng Phụng và làm cho người đọc ngạc nhiên và bất ngờ, thích thú. Với
khả năng phát hiện nhanh nhạy những vấn đề đáng quan tâm nhất của thời đại mình
cùng với những hiểu biết sâu sắc về người và đời, Vũ Trọng Phụng có thể được xem
là “nhà tiên tri” dự cảm.
4
Nét độc đáo và sức lơi cuốn của tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được thể hiện ở
nhiều phương diện: chất liệu cuộc sống, cốt truyện, chủ đề tư tưởng, nhân vật. Các
chất liệu cuộc sống mà ơng sử dụng để tạo nên các tác phẩm khơng ở đâu xa xơi, mà
chính là những câu chuyện được rút ra từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày xung quanh.
Vũ Trọng Phụng chủ yếu viết về nếp sống sinh hoạt của các tầng lớp viên chức, trí
thức, tư sản, nhất là bọn dốt nát gặp thời, bọn lưu manh trụy lạc, những “thành quả”
mà xã hội đương thời đã tạo ra. Ở ơng, cốt truyện khơng rườm rà mà chỉ xoay quanh
số phận của một gia đình và một vài nhân vật. Ngịi bút tiểu thuyết của Vũ Trọng
Phụng cịn độc đáo, sắc sảo ở cách xây dựng hình tượng nhân vật. Ơng sáng tạo ra
những hình tượng điển hình trong văn học mà ít có nhà văn nào cùng thời có thể đạt
được. Nhắc đến nhân vật của Vũ Trọng Phụng ta khơng thể nào qn được những cái
tên như: Nghị Hách, Xn Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cụ cố Hồng, thật là một đỉnh cao, độc
đáo tài hoa của sáng tạo nghệ thuật, đó là những tính cách làm sống lại cả một thời
đại. Biệt tài của Vũ Trọng Phụng là chỉ qua một cái tên, một vài câu nói, một vài chi
tiết tiêu biểu, đặc trưng đã đủ sức khắc họa nên những nhân vật, những tính cách có
một khơng hai, khơng trùng lắp, khơng trộn lẫn với một ai.
Một điều ngạc nhiên ở nhà văn này là ngay khi ở độ tuổi cịn rất trẻ, ơng đã có
sự hiểu biết và sự trải nghiệm phong phú đến vậy. Cũng vì thế, những bức tranh mà
ơng đã dựng lên về cuộc sống vơ cùng đa dạng và chân thực. Nhân vật của Vũ Trọng
Phụng thường là những con người có cá tính, có ý thức về hồn cảnh mình đang sống
và họ ln cố gắng để thích nghi, hịa hợp để có thể thốt khỏi những bế tắc, hoặc
“vươn lên” hoặc lợi dụng thời thế để nổi danh, để hưởng thụ như Nghị Hách, Xn
Tóc Đỏ, bà Phó Đoan hay cả cơ gái nhà q như Thị Mịch. Những người như ơng Hải
Vân, Tú Anh, Phú, giáo Minh lại thốt ra khỏi hồn cảnh bằng cách cố giữ gìn nhân
cách của mình, sống có lí tưởng, chịu thiệt thịi, hi sinh để làm những việc có ích, để đi
theo lý tưởng Cách mạng.
Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ln sống, ln vận động khơng
ngừng trong một khơng gian rộng lớn với hàng loạt mối quan hệ xã hội phức tạp, đa
5
chiều. Cái xấu, cái ác ln tràn ngập trong xã hội lúc bấy giờ nhưng đâu đó vẫn cịn
những con người có phẩm chất cao cả, sống vì lẽ phải. Cuộc sống khơng chỉ là bóng
tối mà cịn có ánh sáng, có thiên đường tươi đẹp và có hi vọng, nhưng cái hi vọng ấy
q mong manh nên sự bi quan vẫn cịn tràn ngập trong tư tưởng của người cầm bút.
Qua các nhân vật của Vũ Trọng Phụng, mỗi con người ai cũng đều có số phận, khơng
ai có thể thốt khỏi số phận ấy, đó có thể được coi là định mệnh hay là quy luật của
tạo hóa dành cho con người. Vũ Trọng Phụng vẫn chưa dám tin là con người có thể
vượt lên trên định mệnh và hồn cảnh xã hội để tự cứu lấy bản thân mình. Tuy vậy,
ơng vẫn tin rằng cái xấu, cái ác có thể loại trừ, có lẽ vì vậy mà ơng đã dành hết tâm
huyết của mình để sáng tác nên các tác phẩm phơi bày cái xấu của con người để họ
nhìn vào đó mà tự soi lại mình. Vũ Trọng Phụng thường xây dựng hình tượng cho
nhiều nhân vật trong cùng một tác phẩm với đủ mọi tầng lớp xã hội từ nơng thơn đến
thành thị, từ những tầng lớp dưới đáy xã hội đến bọn thống trị.
Vũ Trọng Phụng cịn được xem là cây bút trào phúng bậc thầy bởi lối viết táo
bạo, sắc sảo và gây cấn. Ơng dùng tiếng cười mang tính chất chê bai, phê phán, răn
bảo để chế giễu, đả kích những thói hư tật xấu, những con người và sự việc tiêu cực.
Với nghệ thuật đặc sắc đầy khả năng biến hố, ngơn ngữ và giọng điệu hài hước, trào
phúng, ơng đã dựng lên hàng loạt chân dung biếm hoạ có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tiêu
biểu là trong tiểu thuyết Số đỏ, Trúng số độc đắc, thơng qua bức tranh xã hội đầy rẫy
những ngẫu nhiên vơ nghĩa lí của cuộc đời, Vũ Trọng Phụng đã châm biếm, đả kích
những kẻ có tiền nhưng vơ đạo đức lúc bấy giờ. Điều đó đã góp phần đặt Vũ Trọng
Phụng vào vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Khác với những
cây bút trào phúng như Nguyễn Cơng Hoan hay Ngơ Tất Tố, Vũ Trọng Phụng là tác giả
của những phóng sự, tiểu thuyết dài nên tác phẩm của ơng thường là một chuỗi liên
kết hàng loạt tình huống gắn với hàng loạt mâu thuẫn phức tạp. Các tình huống trào
phúng ấy tạo nên sức cuốn hút đầy kịch tính của văn chương, đồng thời bộc lộ sâu sắc
tính chất nghịch lý, phi lý của cuộc đời.
6
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống và con
người. Ơng là nhà văn đổi mới mạnh bạo trong thời đại của mình và có những đóng
góp quan trọng bậc nhất vào việc hình thành và phát triển thể loại tiểu thuyết ở nước
ta trong thời kì hiện đại của lịch sử văn học Việt Nam.
2. Vũ Trọng Phụng với chủ nghĩa tự nhiên
2.1 Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tự nhiên.
Chủ nghĩa tự nhiên vừa có nghĩa là trào lưu vừa có nghĩa là phương pháp sáng
tác, hình thành một cách tiêu biểu trong trong văn học Pháp nửa sau thế kỷ XIX và đã
một thời tác động rất mạnh vào văn học Âu Mỹ vì nó ra đời dựa trên những thành tựu
của khoa học tiên tiến có nhiều sức thuyết phục, nhất là đối với các nhà văn trẻ đang
khao khát tìm kiếm một phương thức nghệ thuật mới đủ sức thể hiện những nhận
thức mới của họ về cuộc sống và con người trong một thực tại xã hội phức tạp mà lý
luận những trào lưu cũ tỏ ra khơng cịn đủ sức đáp ứng cho nhu cầu tái hiện nó.
Mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp giữa vơ sản và tự sự sản trở nên gây
gắt, nhà văn tuy nhìn thấy những mặt thối tha của xã hội nhưng khơng có khả năng và
cũng khơng muốn đi sâu vào những cội nguồn xã hội... chủ nghĩa tự nhiên đã hình
thành và phát triển trên mảnh đất và tâm trạng bi quan của một số nhà văn mà tiêu biểu
là Zola.
Chủ nghĩa tự nhiên đã được Emile Zola phổ biến trong những bài viết
được ơng cơng bố từ năm 1866, khi Zola tiếp xúc với tinh thần khoa học của bộ
Encyclopédie. Từ đó khi vận dụng chủ nghĩa tự nhiên trong văn học ơng đã thể hiện
được sự sáng tạo, đề tài về xã hội khắc nghiệt và số phận con người trong xã hội đó.
Tái hiện một cách trung thành với tự nhiên ở một mảng hiện thực nào đó, chú trọng
đến tính quy luật của mơi trường tự nhiên, hồn cảnh vật chất, quy luật tâm sinh lí,
bệnh lí, nhưng khơng loại trừ bản chất xã hội, lịch sử của chúng. Chủ nghĩa tự nhiên là
một tìm tịi của các nhà lý luận, nhà văn đương thời khi chủ nghĩa hiện thực khơng cịn
đủ sức đáp ứng cho nhu cầu nghệ thuật trong thời đại mới có nhiều biến chuyển sâu
7
sắc về xã hội, đây là phương thức mới hữu hiệu hơn để thâm nhập vào sự thật đời
sống.
Sự ra đời của chủ nghĩa tự nhiên đã có những tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển văn học như: mở rộng đề tài, xới lên những tầng mới của hiện thực cuộc sống,
chú ý đến cái dạng vật thể của con người (mặt mũi, hình dáng) và các sinh hoạt vật
chất của nó nhất là sinh hoạt sinh lí, giới tính cùng với vai trị vơ thức trong tâm lí con
người. Giúp con người có khả năng tiếp cận, mở rộng góc nhìn về nhiều chủ đề trong
đời sống như: chủ đề thuộc tầng lớp thấp hơn liên quan đến các hoạt động bạo lực và
cấm kỵ, miêu tả mơi trường, di truyền và điều kiện xã hội kiểm sốt con người, về
các chủ đề bạo lực nghèo đói, tham nhũng, mại dâm..
2.1.2 Những ngun tắc sáng tác chính của chủ nghĩa tự nhiên
Con người trong chủ nghĩa tự nhiên chỉ hoạt động theo bản năng và sự đầy đủ
của hành động nhận thức được thể hiện trong đó nên người đọc có thể dễ dàng nhận
ra bản chất thật của từng nhân vật trong tác phẩm.
Nhận thức bằng khoa học có những điểm giống với nhận thức nghệ thuật vì
đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, xoay quanh về sự tồn tại và phát triển của con
người, lấy sự thể hiện đầy đủ hành vi nhận thức (sinh hoạt vật chất, tâm sinh lí,...)
làm tiêu chuẩn căn bản về thẩm mỹ và cơ sở cho sáng tác. Họ từ bỏ việc thể hiện đạo
đức, mà cho rằng thực tại được miêu tả một cách lãnh đạm, đúng với cuộc sống. Như:
Teredơ, một nhân vật khác của Zola, khơng thỏa mãn với chồng nên tìm đến thơng dâm
với một họa sĩ tên là Lơrăng, một con người cường tráng hừng hực lửa tình, đối lập
với sự khờ khạo, yếu đuối của chồng mình. Nhân một cuộc du thuyền, họ dìm chết
người chồng, rồi lấy nhau. Nhưng hình ảnh người chồng cứ bám riết làm cho họ dằn
vặt, mê hoảng, điên loạn suốt đêm ngày. Khối thịt đơng lạnh và rữa nát của chồng như
ln xen vào nằm giữa hai người. Dần dần họ căm ghét nhau, muốn tố cáo và hạ sát
nhau, nhưng rồi tha thứ cho nhau và cùng tự sát.
8
Trong bối cảnh lịch sử mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp giữa vơ sản và
tư sản đã trở nên gay gắt, chế độ tư bản bộc lộ rõ bản chất bốc lột trên mọi lĩnh vực
đời sống. Làm cho cuộc sống con người rơi vào cảnh khốn cùng, khó khăn. Về hồn
cảnh thì chỉ có tác động đến cơ thể trong phạm vi sinh lý,.. nơi ăn chốn ở, sỏi đá, cây
cối,..hoặc miêu tả những mơi trường như qn rượu, nhà thổ, những mơi trường có tác
dụng kích thích tính dục của con người. Đối với văn hố tình hình lịch sử đã làm cho
một bộ phận trí thức tuy thấy được những thối nát của xã hội, nhưng chưa vượt qua
những thiên kiến giai cấp, sống xa rời đời sống của nhân dân, cảm thấy hồn tồn bất
lực trước tội ác và cái xấu đang ngày một bao vây dày đặc. Tính cách con người vốn
được quy định bởi bản chất sinh lí học. Đời sống con người bị chi phối bởi mơi trường
vật chất và sinh hoạt trực tiếp chứ khơng tính đến các nhân tố xã hội lịch sử.
Sự nhận thức nghệ thuật ln có một phần giống với khoa học nhưng hai lĩnh
vực này hồn tồn khơng đồng nhất với nhau. Nếu như đối tượng của khoa học là sự
vật, hiện tượng tồn tại độc lập với ý thức con người thì đối tượng của nghệ thuật là
tất cả những gì quan hệ với con người. Vì vậy mỗi người nghệ sĩ cần giữ cho mình
những nét đặc trưng riêng biệt của nghệ thuật: Con người trong nghệ thuật phải là con
người xã hội có tình cảm cảm xúc, giữ được những cá tính riêng biệt sinh động của nó
bảo đảm cho con người có sức sống hoạt động và phát triển như trong hiện thực cuộc
sống. Đồng thời giữ được những mối quan hệ xã hội, bản năng, quy luật tự nhiên của
đời sống con người.
Nhà khoa học và nhà nghệ thuật cũng quan tâm tới thế giới tự nhiên. Nhưng
đối tượng của nhà khoa học sẽ là bản chất, quy luật vận động, thuộc tính phổ qt
độc lập khách quan với ý thức của con người thì nhà nghệ thuật lại chọn cho mình
trong giới tự nhiên những phương diện liên quan đến ý thức con người, đến tư tưởng,
tình cảm, cảm xúc con người, đến đời sống tinh thần của con người. Chẳng hạn, mưa
đối với nhà khoa học là q trình ngưng tụ của hơi nước khi gặp lạnh và rớt xuống.
Nhưng mưa đối với nhà thơ bao giờ cũng có hồn người trong đó.
“Nặng lịng xưa hạt mưa đau
9
Mát lịng nay trận mưa mau q nhà”
(Tố Hữu)
Đa phần, hiện thực cuộc sống đi vào tác phẩm của họ bao giờ cũng có sự gọt
dũa, trau chuốt, hư cấu từ ngơn ngữ hình ảnh đến nhân vật,... ít tác giả nào thể hiện
hiện thực cuộc sống như nó vốn có. Nhưng đến với chủ nghĩa tự nhiên, các nhà văn
phải viết trung thực, có sao nói vậy, khơng thêm bớt, tơ điểm, vẽ vời, tức là tơn trọng
người đọc, nêu cao tinh thần khoa học, để có thể khám phá chân lí cuộc sống. Người
nghệ sĩ phải có một con mắt tinh thường, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng sắc
bén để tạo ra những tác phẩm mang giọng nói của riêng mình. Đồng thời, phải thể
hiện một cách nhìn, nhận thức đúng đắn về con người và cuộc sống phản ánh một
cách chân thật khách quan, vì sáng tạo khơng có nghĩa là bịa đặt. Sáng tạo nghệ thuật
giống như sáng tạo cuộc sống, cần có tính chân thật cao mới có khả năng tác động
mạnh mẽ vào nhận thức của người tiếp nhận. Chính nỗ lực sáng tạo của nhà văn đã
làm nên sức sống của văn chương, thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Mỗi người nghệ sĩ trong q trình cầm bút cần phải tạo được tiếng nói riêng,
âm sắc riêng. Nó địi hỏi các nhà văn phải miệt mài trên con đường sáng tạo, khơng
ngừng nghỉ tác phẩm phải mang màu sắc của riêng mình. Một âm vang tha thiết, đặc
sắc giữa cõi văn chương, ấy là sức sống là dấu ấn riêng để lại ấn tượng của nhà văn
trong lịng độc giả. Nếu các nhà văn, nhà thơ chỉ biết hát chung khúc hát, khơng có
giọng điệu riêng, ấn tượng riêng. Chính vì vậy những tác phẩm ấy nhanh chóng ra đi
trong cảm nhận của người đọc như một cơn gió thống qua. Vì thế mà u cầu sáng
tạo, gợi nhắc về những nhà văn, nhà thơ đã dành trọn cuộc đời mình cho văn chương.
Bởi cái tầm thường là cái chết của nghệ thuật, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ
ca. Độc đáo ln là u cầu mn đời của văn chương nghệ thuật. Cùng viết về đề tài
người nơng dân, nhưng mỗi nhà văn lại có một cách thể hiện khác nhau. Như Nguyễn
Cơng Hoan đã xây dựng khá thành cơng hình ảnh người nơng dân điêu đứng, phá sản vì
thủ đoạn tranh cướp ruộng đất của bọn địa chủ cường hào trong tiểu thuyết “Bước
đường cùng”. Ngơ Tất Tố với tiểu thuyết “Tắt đèn” nói lên số phận long đong, khốn
10
khổ của những người nơng dân Việt Nam trước cảnh sưu cao thuế nặng thì Nam Cao
lại viết về số phận bi thảm, cùng cực của người nơng dân qua cuộc sống hàng ngày
của họ.
Cuộc sống ln đa dạng, tốt xấu, vinh nhục, cao cả thấp hèn hồ lẫn, đan
xen vào nhau. Có nhà văn thì cảm thấy chán ghét thực tại cuộc sống nên họ mong
muốn thốt li, xa rời thực tế đến với một thế giới khác tốt đẹp hơn bằng bút pháp lãng
mạn. Và ngược lại có những nhà văn dám nhìn thẳng vào vấn đề chấp nhận hiện thực
và đối mặt với nó. Chính vì thế mà những đề tài của họ là sự trải nghiệm, cách nhìn
nhận đánh giá về cuộc sống, về con người, đề cập đến những vấn đề suy tàn thấp
kém trong xã hội, nơi đầy rẫy cạm bẫy khiến con người dễ dàng sa ngã. Qua đó mà
người đọc có thể dễ dàng nhận ra những giá trị cuộc sống mà tác giả đã xây dựng
thơng qua cốt truyện. Sự mở rộng hệ đề tài, chú ý tới những hiện tượng bình thường
của cuộc sống vì cho rằng khơng có cốt truyện nào bất lợi, cũng như khơng có đề tài
nào bất cập đã giúp cho chủ nghĩa tự nhiên chiếm lĩnh những đề tài mới, khai thác
được nhiều hơn những khía cạnh hiện thực nằm sâu bên trong lịng xã hội.
Chủ nghĩa tự nhiên giải thích các hiện tượng thối nát của xã hội bằng các
ngun nhân sinh lí. Trong các tác phẩm văn học các nhà văn thường nêu ra bản chất
con người về các vấn đề loạn dâm, lợi ích cá nhân, lối sống trụy lạc, những dục vọng
bản năng thấp hèn và xoay quanh đó là mơi trường vật chất của một xã hội mục nát,
nơi mà đồng tiền có thể chi phối mọi thứ. Chủ nghĩa tự nhiên khơng xây dựng “tính
cách điển hình trong hồn cảnh điển hình” mà những cảm nghĩ và hành động của nhân
vật đều chịu sự chi phối của sinh lý, di truyền theo bản năng và sự đầy đủ của hành
động nhận thức được thể hiện trong đó. Tuy khơng loại trừ nhân tố xã hội – lịch sử,
nhưng tính cách con người được quy định bởi bản chất sinh lí học và bởi mơi trường
được quan niệm chủ yếu là mơi trường sinh hoạt vật chất, tuy khơng loại trừ nhân tố
xã hội – lịch sử. Mặt khác, sự thâm nhập của sự thật đời sống vào tác phẩm văn học
của các tác giả theo đuổi chủ nghĩa tự nhiên đã lật đổ những ngun tắc lí thuyết và
khiến cho một số tác phẩm ưu tú của chủ nghĩa tự nhiên có một tác động nghệ thuật
11
khơng nhỏ. Chính sự nghiên cứu sinh học vật chất đã giúp phần nào cho các nhà văn tự
nhiên chủ nghĩa phát hiện ra bản chất giai cấp của ý thức.
2.2 Sự tiếp nhận của Vũ Trọng Phụng đối với chủ nghĩa tự nhiên.
Sự nghiệp văn chương của Vũ Trọng Phụng diễn ra trong giai đoạn lịch sử đầy
biến động. Các sự kiện lịch sự ấy ảnh hưởng sâu sắc đến tác phẩm của nhà văn. Thời
gian mà tác giả tiếp nhận văn học cũng là thời kỳ mà chủ nghĩa tự nhiên hình thành,
phát triển vì thế trong các tác phẩm của ơng ảnh hưởng một phần từ chủ nghĩa tự
nhiên. Các tác phẩm làm nên tên tuổi của Vũ Trọng Phụng như “Giơng Tố”, “Số đỏ”
hay “Làm đĩ”,… đều miêu tả một cách khách quan thực tại và tính cách con người bị
ảnh hưởng từ xã hội lúc bấy giờ. Mà chủ nghĩa tự nhiên hướng vào sự miêu tả một
cách khách quan, chính xác và lãnh đạm đối với thực tại và tính cách con người vốn bị
quy định bản chất sinh học, từ mơi trường vật chất và sinh hoạt trực tiếp, khơng tính
đến các nhân tố xã hội – lịch sử. Độc giả có thể bắt gặp những điều này trong văn
chương Vũ Trọng Phụng, thấy được sự tiếp nhận của nhà văn đối với chủ nghĩa tự
nhiên. Vần văn của ơng hướng tới con người lao động, con người thấp cổ bé họng,
khắc họa lại bức tranh thường nhật của xã hội đương thời. Có quan niệm cho rằng “
quan niệm văn chương của một nhà văn được bộc lộ qua phát ngơn lẫn hành động
thực tế”, bởi vì thế người đọc thường nắm bắt những quan điểm của tác giả qua
những lời văn, và cũng có khi độc giả cịn phải dựa vào những dữ liệu để suy đốn.
Nếu nhìn một cách bao qt tồn bộ sáng tác của Vũ Trọng Phụng, ta dễ dàng nhận ra
sự tập trung và nhất qn về phương diện đề tài của nhà văn. Về các thể loại truyện
ngắn, kịch, phóng sự hay tiểu thuyết… có thể thấy tiêu điểm của sự chú ý trong văn
chương của tác giả khơng gì khác ngồi những nhố nhăng xơ bồ, những thói hư tật xấu
của con người, những tình huống ối oăm trong cuộc sống. Trong q trình mổ xẻ đó,
ta thấy được tâm trạng phẫn uất cao độ của ơng, nỗi căm giận của một con người thua
thiệt. Ơng vừa thuật kể, miêu tả sự thật, vừa cố kìm nén cơn giận dữ tưởng chừng
như sắp bùng phát. Và cũng khơng ít khi ơng đã chẳng giữ được sự bình thản, lạnh
lùng của người phát ngơn sự thật. Những lúc đó ơng buộc phải trút giận lên nhân vật,
12
lên sự vật, lên cuộc đời. “Thi pháp tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng” của Nguyễn
Thành cũng nói lên hướng tiếp cận của Vũ Trọng Phụng
Chủ nghĩa tự nhiên trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng chịu ảnh hưởng từ các
tác giả Phương Tây và tiêu biểu có thể kể đến là Émile Zola. Nói đến các nhà văn lớn
phương Tây đi theo chủ nghĩa tự nhiên thì Émile Zola – nhà văn người Pháp nổi tiếng
với tiểu thuyết “The Exprimental”. Theo Zola, tiểu thuyết gia khơng cịn là một người
quan sát đơn thuần, ghi chép hiện tượng mà là một nhà thí nghiệm tách biệt, người đặt
các nhân vật của mình cùng với niềm đam mê của họ vào một loạt các thử nghiệm,
đồng thời cũng là người làm việc với các sự kiện xã hội và cảm xúc như một nhà hóa
học làm việc với vật chất. Vào đầu thế kỉ XX có rất nhiều tác giả văn xi chịu ảnh
hưởng sâu sắc của văn học phương Tây, tiêu biểu là nhà văn độc đáo Vũ Trọng Phụng.
Độc giả có thể nhận thấy phong cách chủ nghĩa tự nhiên của Émile Zola trong tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng.
Bởi sống trong thời kì chịu sự tác động của thực dân Pháp, tư tưởng của nhà văn
cũng vì thế chịu sự tác động phần nào vào hồn cảnh đời sống. Tuy nhiên, Vũ Trọng
Phụng vẫn giữ được một tinh thần cơ bản của chủ nghĩa tự nhiên để nhìn cuộc đời
qua đơi mắt nghệ thuật của một nhà sáng tác văn chương. Yếu tố khách quan giúp Vũ
Trọng Phụng dễ dàng bắt gặp chủ nghĩa tự nhiên là những hồn cảnh sống, những
cuộc sống phù phiếm hoa lệ của những kẻ quyền lực, giàu có hay sự rẻ túng của
những con người thấp cổ bé họng trong xã hội lúc bấy giờ. Xét về yếu tố chủ quan,
Vũ Trọng Phụng căm hờn, phỉ báng sự xảo huyệt, đê tiện, bẩn thỉu thối nát của một xã
hội thực dân nửa phong kiến. Ơng hiểu được cái đáy xã hội khơng phải từ trên nhìn
xuống, từ ngồi nhìn vào mà là người nhập cuộc để thấu hiểu và đưa vào những trang
văn của tác giả. Đồng thời những quan niệm và tư tưởng của tác giả qua các tác phẩm
cũng như thái độ qua các bài tranh luận trên các báo giấy đương thời một phần nào đó
trùng khớp với tinh thần chủ nghĩa tự nhiên. Đó là tâm trạng bi quan, lo lắng trước sự
thay đổi của xã hội, con người khi tiếp thu những cái mới mà quên đi bản chất của nó.
13
Vũ Trọng Phụng – một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Có thể thấy những yếu tố khách quan và chủ quan trên đã kết hợp và tạo ra một
phong cách sáng tạo đầy mới mẻ của nhà văn khi khai thác các tác phẩm dựa trên chủ
nghĩa tự nhiên. Bên cạnh đó Vũ Trọng Phụng cũng tiếp nhận các trào lưu văn học hiện
đại trong văn xi như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện đại. Ơng là một người
hiểu sâu sắc và năm bắt rõ thời thế nên trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng ln
được đáng giá sơi nổi và nếu dựa trên những yếu tố chủ quan có thể thấy rằng trào lưu
chủ nghĩa tự nhiên phù hợp với quan niệm, tư tưởng của tác giả. Để tạo nên chỉnh thế
tồn vẹn, thống nhất, chủ nghĩa tự nhiên trong các sáng tác của nhà văn Vũ Trọng
Phụng phải dung hịa với các trào lưu khác như chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện
thực.
Nhà văn – nhà báo Vũ Trọng Phụng nổi tiếng là một cây bút mới lạ trong thời kì
XIXXX. Tác giả có thái độ phê phán kịch liệt vấn đề Âu hóa, bởi trong thấy những di
sản tiêu cực của q trình này và ơng biết giữ lại niềm kính trọng đối với những nếp
sống và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Do đó, ơng đã mơ tả trong tiểu thuyết
“Giơng Tố” hình ảnh một người tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Nếu suy xét một cách bóng gió thì rõ ràng đó là người Cộng Sản, được miêu tả
như một nhân vật nho sĩ quen thuộc của Việt Nam, biết thuật xem bói tay, có khả năng
tiên tri và bói tốn. Thứ ngơn ngữ cầu kì, lịch thiệp của nhân vật này là thứ ngơn ngữ
kiểu cách của nhà nho. Nhìn chung, ơng là một người sống với tư tưởng gìn giữ sự
thuần khiết của dân tộc, chỉ tiếp nhận những gì thật sự tốt đẹp cho chúng ta. Thấy rõ
trong các tác phẩm tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng ln chứa đựng một tác động tích
cực của chủ nghĩa tự nhiên như trong việc mở rộng đề tài, xới lên những tầng lớp mới
trong đời sống và những tâm lí vốn có của con người trong những tình huống.
2.3 Ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết.
2.3.1 Sơ lược về tác phẩm “Giơng tố”
14
“Dơng” là hiện tượng khí quyển phức tạp, thường xảy ra vào tháng 678, có
mưa rào, gió giật mạnh, chớp và kèm theo sấm, sét. Bên cạnh đó, cịn có những ý kiến
khác xoay quanh “giơng” hay “dơng”. Cách viết đúng, cách viết đầu tiên là “dơng”, cịn
“giơng” đã được coi như một dạng biến thể của “dơng”. Tuy nhiên, cách viết “giơng
tố” của nhà văn Vũ Trọng Phụng khơng ảnh hưởng nhiều đến tổng thể tác phẩm, vẫn
được đại chúng chấp nhận.
Tiểu thuyết Giơng tố (1936) được ra mắt cơng chúng vào ngày 1/1/1936 trên
Hà Nội báo số 1. Tác phẩm được ơng sáng tác trong bối cảnh Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc những năm 19301940. Phong trào cách mạng u nước của nhân dân nổi ra sơi
nổi nhưng lien tục thất bại, bị Thực dân Pháp khủng bố, đàn áp hết sức dã man. Cộng
với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng của nền kinh tế thế giới nền kinh tế n ước ta
vốn đã khủng hoảng lại càng trở nên thiếu hụt hơn ( doanh nghiệp phá sản, cơng nhân
thất nghiệp tràn lan, quan lại, tay sai giàu có đầu cơ tích trữ, bóc lột dân nghèo...) đời
sống nhân dân điêu đứng, nhiều người phải tha phương cầu thực, rời nơng thơng lên
thành thị và một trong số họ đã trở thành những con người lưu manh, tha hóa. Bối cảnh
lịch sử đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để Vũ Trọng Phụng phát huy tối đa
những câu chuyện trào phùng giàu hiện thực của mình.
Tác phẩm gồm có 30 chương và một đoạn kết. Bắt đầu từ một buổi đêm, khi
xe ơ tơ của Nghị Hách – tên tư sản vơ cùng giàu có ở thành thị, bỗng bị hỏng giữa con
đường làng qua cánh đồng, hắn chờ cho hai người lái xe đang hí húi sửa. Một mình hắn
đi thong dong dọc con đường. Một lúc sau, hắn gặp bốn người nơng dân đi gánh rạ
đêm. Trong bốn người đó, có một cơ gái gánh rạ đi cuối cùng tên là Thị Mịch. Tính dâm
dê trỗi dậy, hắn lừa hỏi mua rạ của Thị Mịch, lệnh cho ba người cịn lại đi trước. Rồi
kéo cơ gái ấy lên xe ơ tơ, trả cho 5 đồng. Sau khi cuộc cưỡng bức thơ bạo có trả tiền
đó xong xi, hắn đẩy Thị Mịch ra ngồi xe rồi cho tài xế lái xe chạy thẳng, lao tới
người đi tuần trong làng đang chặn phía trước xe.
Hai sự việc ấy đã khiến Nghị Hách vướng phải một cuộc kiện tụng của dân
làng. Trong cuộc kiện tụng ấy, quan huyện Cúc Lâm là người đứng giữa xét xử. Cúc
15
Lâm là một người quan ngay thẳng, từ chối mọi cám dỗ nhan sắc và tiền bạc mà Nghị
Hách đưa ra để bảo vệ người dân. Tuy nhiên, Nghị Hách lại thơng đồng với quan trên
khiến ơng phải từ chức, mở một văn phịng Luật sư, một cơ quan ngơn luận khác.
Cuộc kiện tụng của dân làng bị thất bại.
Thị Mịch là một cơ gái q, là người u sắp cưới của Long. Cuối cùng, khi
Thị Mịch có bầu, buộc phải trở thành vợ lẽ của Nghị Hách, Long cũng trở nên đau khổ
mà chơi bời, trác táng. Dù đã làm lẽ Nghị Hách nhưng đơi khi Thị Mịch và Long vẫn tư
tình vụng trộm với nhau. Nghị Hách khơng biết chuyện, thậm chí, Long cịn thơng dâm
cả với người vợ lẽ khác của Nghị Hách. Trong khi đó, Tú Anh – mang danh con của
Nghị Hách, mai mối, chấp thuận cho Long cưới Nguyệt – con gái Nghị Hách làm vợ.
Về tên Nghị Hách, hắn ứng cử thành cơng ghế Nghị trưởng – một vị trí quan
trọng trong xã hội ngày trước. Trong buổi tiệc thiết đãi ở Tiểu Vạn Trường Thành,
hắn đã đọc một bài diễn văn rất êm tai về bình đẳng, bác ái, nhân đạo, bao dung, đạo
đức,…., mang đậm tính chất mỉa mai, trắng trợn, độc ác của Vũ Trọng Phụng dành cho
nhân vật. Một hơm hắn nhận được tin vợ mình bị bắt cóc. Đây cũng là lúc ơng già Hải
Vân – người cách mạng – cũng là bố đẻ của Tú Anh đã giúp Nghị Hách nhận ra sự thật
về bi kịch của chính mình. Vợ của ơng già Hải Vân đã sinh ra Long nhưng chính Long
lại là máu mủ của Nghị Hách. Ngược lại, ơng già Hải Vân lại thương u vợ Nghị
Hách mà sinh ra Tú Anh – người trước đây Nghị Hách vẫn lầm là con đẻ. Như vậy, bi
kịch gia đình của Nghị Hách thực sự q sức tưởng tượng. Bố cưỡng bức, lấy vợ chưa
cưới của con. Con trai thơng dâm với hai người vợ lẽ của bố. Hai anh em ruột lấy
nhau.
Kết thúc tiểu thuyết, tên Nghị Hách mất tiền, mất vợ, đến ngay cả Thị Mịch –
đang là vợ lẽ cũng bế con trở về q. Nhân vật Long chết vì tự sát.
Tác phẩm cịn khắc họa nhiều kiểu loại nhân vật khác: thơn q có, thành thị
có, từ q lên thành thị cũng có, người được học thức có, người bị bán làm lẽ có, người
16
làm cách mạng cũng có,… nhưng hai nhân vật là Thị Mịch và Nghị Hách được xây
dựng nổi bật nhất tác phẩm.
2.3.2 Yếu tố tự nhiên chủ nghĩa trong tiểu thuyết “Giông tố” của Vũ Trọng
Phụng
Ta có thể hiểu rằng chủ nghĩa tự nhiên trong văn chương miêu tả những gì diễn
ra trong cuộc sống này một cách chân thực nhất, đây cũng là tiền đề quan trọng nhất.
Chủ nghĩa tự nhiên là lấy tự nhiên và con người làm đối tượng, phản ánh các khía cạnh
của cuộc sống con người một cách khách quan, nói lên những vấn đề sâu sắc nhất về
mặt trái mỗi con người đó là những hành vi thiếu đạo đức, nhân cách bị tha hóa và nói
lên những chi tiết thật đến mức khiến người đọc phải khó xử. Đồng thời các tác phẩm
mang khuynh hướng chủ nghĩa tự nhiên nói lên những biểu hiện sinh lí, bản năng của
con người và con người trong chủ nghĩa tự nhiên là những người chỉ hành động theo
bản năng, phần con trong chính họ được lơ rõ nên ng
̣
ười đọc có thể dễ dàng nhận ra
bản chất thật của từng nhân vật trong tác phẩm. Qua các yếu tố trên ta càng nhìn nhận
rõ hơn việc phơi bày thực tại của chủ nghĩa tự nhiên, đó là sự sao chép đời sống một
cách vơ cảm và chú ý phần lớn đến các chi tiết vụn vặt nhằm vạch trần các mặt sai
trái của bên trong mỗi con người. Đa số các nhà văn thuộc khuynh hướng chủ nghĩa tự
nhiên đều chứng kiến sự ối oăm, ngang trái của con người trong thực tại xã hội đầy
rẫy sự lố lăng, giả dối, một xã hội tồn tại những con người khơng có đạo đức và nhân
cách, cùng là con người với nhau nhưng có sự phân biệt rõ rệt, khơng cơng bằng. Hiện
thực đời sống có ảnh hưởng rất lớn đến ngịi bút của nhà văn, Vũ Trọng Phụng cũng
khơng ngoại lệ. Chính vì thế, ơng đã đứng lên phơi bày hiện thực của xã hội lúc bấy
giờ, vạch trần những con người xấu xa, ghê tởm, vì những lợi ích, thú vui riêng biệt
của bản thân mà hạ thấp giá trị của người khác. Chủ nghĩa tự nhiên giải thích các hiện
tượng thối nát của xã hội bằng những ngun nhân sinh lí. Trong các tác phẩm phần
chính thường được đưa ra về các vấn đề loạn dâm, lợi ích cá nhân, lối sống sai trái
của xã hội đương thời.
17
Vũ Trọng Phụng là nhà văn tiêu biểu chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa tự
nhiên, bởi lẽ, xã hội mà ơng sống luc b
́ ấy giờ là một xã hội đang được giao thời
chuyển mình từ thực dân phong kiến sang q trình Âu hóa và đơ thị hóa, xã hội bao
hàm những bất cơng, những trị chơi dâm ơ, cưỡng hiếp, lố lăng, hỗn loạn, méo mó,
mơt th
̣ ực tại đen tối, đầy rẫy những cạm bẫy mà con người ta dễ dàng ngã vào. Trong
cái xã hội ấy cái ác trong con người liên tục trỗi dậy, sự giàu nghèo được phân biệt rõ
ràng khi những người có tiền dù phạm sai trái đến mức nào cũng được xóa tội qua lời
nói cậy quyền cậy thế hoặc những người nghèo dù bị hại cũng trở thành người mang
tội, tầng lớp thấp kém của xã hội. Nếu con người ta nhìn đời băng con măt tích c
̀
́
ực,
nhận thấy cuộc sống này đáng sống, đáng trân trọng ta đã có những án văn tràn đầy
niềm vui và hy vọng; nhưng với cuộc sống đày ải, những tình tiết mang nhiều sự ối
oăm ấy, Vũ Trọng Phụng đã hồn tồn bất lực, gieo vào tư tưởng của ơng những nỗi
thất vọng, bất bình. Nhìn chung, chính vì sống trong một xã hội đầy thối nát nên Vũ
Trọng Phụng càng thấu hiểu được số phận bất cơng và chứng kiến những mặt trái của
xã hội làm ơng càng phẫn nộ, mất niềm tin hồn tồn vào tinh thần và giá trị của con
người. Và có lẽ từ đây, những yếu tố của chủ nghĩa tự nhiên đã bắt đầu ảnh hưởng
đến ngịi bút của ơng, giúp ơng tổ điểm thêm cho các tác phẩm của mình những màu
sắc tràn đầy tính chân thật.
Yếu tố cua chu nghia t
̉
̉
̃ ự nhiên đã đi sâu vào q trình sáng tác của Vũ Trọng
Phụng, các chi tiết được nói lên như một sự phơi bày về xã hội vơ cùng bất cơng, hành
vi đạo đức đầy tội lỗi của con người. Các nhân vật mà ơng đặc tả rất chân thực, hầu
hết các nhân vật được đề cập đến đều xoay quanh vấn đề về cái dâm va b
̀ ản năng của
mỗi con người. Những nhân vật mà ơng xây dựng lên mang suy nghĩ, tư tưởng và tính
cách khác nhau nhưng điểm chung của họ là sự tồn tại một con người sinh lý, con
người của tự nhiên. Các nhân vật như đại diện cho từng cá thể khác nhau trong xã hội
chúng ta, đủ các kiểu người, đủ các tầng lớp, đa dạng từ ngoại hình đến tính cách,
trong đó có những nhân vật bị tha hóa bởi hồn cảnh, mơi trương,... Th
̀
ế giới nghệ
thuật trong văn chương Vũ Trọng Phụng có bình diện của riêng nó, đó là khơng gian,
18
thời gian, âm thanh, màu sắc và con người riêng. Những nét riêng ấy đã giúp ơng tạo
nên một đời sống nghệ thuật náo loạn, ồn ào, nhiều tình huống và đầy bi kịch, cho
thấy rõ bản năng con người bị trổi dậy và khơng màng đến giá trị của cuộc sống là gì.
Với tiểu thuyết Giơng tố, Vũ Trọng Phụng đã tả thực được tồn bộ cái dâm ơ
uế lúc bấy giờ, là một xã hội mục nát nơi mà đồng tiền có thể chi phối mọi thứ. Ở đó
những nhân vật bộc lộ rõ về con người của tự nhiên và con người của sinh lí, dù là ai
đi chăng nữa, ở họ đều có những góc khuất hoặc những khối cảm riêng. Sự dâm dục
và đồng tiền là yếu tố chính xoay quanh tác phẩm. Hầu như các tệ nạn xã hội đã được
Vũ Trọng Phụng phơi bày lên trong tiểu thuyết Giơng tố khiến người đọc nhìn rõ được
con người trong xã hội là như thế nào, đồng thời thể hiện được cái yếu tố từ bên trong
tính cách, sự nhận thức, suy nghĩ, bản năng đến vẻ bề ngồi từ hành động, cử chỉ của
các nhân vật. Từ các tình huống, diễn biến tâm lí của từng nhân vật được Vũ Trọng
Phụng miêu tả một cách khéo léo khiến người đọc cảm nhận được sự gần gũi và nhìn
rõ hơn về những vấn đề sai trái của xã hội đương thời.
Có lẽ nhân vật Nghị Hách mang đầy đủ khía cạnh về mặt trái con người trong
xã hội, là đại diện trong yếu tố chủ nghĩa tự nhiên. Một nhân vật nhìn mọi mặt đều
thấy những tội lỗi đáng lên án, là nhân vật đi từ lịng tham tiền đến lịng tham của sự
dục vọng, bộc lộ rõ phần bản năng dâm ơ, qi đản của con người. Nghị Hách là nhân
vật mở đầu tiểu thuyết, với vẻ bề ngồi của Trần Đình Hách được nhà văn họ Vũ
khắc họa lên, “một người gần 50 thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một cặp
kính trắng gọng vàng, trên mơi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả
dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen, rọc trắng, đơi giày láng mũi nhọn và bóng
lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà q kệch, cái vẻ rất khó tả của những anh
trọc phú học làm người văn minh...”. Cái dáng vẻ vừa sang trọng vừa q kệch của
Nghị Hách xuất thân từ việc làm thợ cai nề thuộc tầng lớp bình dân như bao người
khác nên mới mang dáng vẻ nửa mùa và nhờ chuyến đi Lào trở vê khiên cho vi
̀
́
ệc làm
ăn ngày càng trở nên tốt đẹp hơn, giờ đây đa tr
̃ ở thành cái tên giàu có đứng đầu cả tỉnh,
từ nơng thơn đến thành thị ai cũng biết đến.
19
Tuy nhiên, điều người khác nhắc đến Nghị Hách khơng phải là sự giàu có đáng
ngưỡng mộ mà là những lời nói khiển trách, người ta nhận dạng bằng những chuyện
xấu ơng gây ra như: “Thằng cha có hai chục con vợ lẽ trong đồn điền ấy à?”, “cái
thằng bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà đoan và chỉ một thủ đoạn ấy đã tậu
được ba trăm mẫu ruộng rất rẻ ấy à?”, “cái thằng cha độc ác đánh chết người làm rồi
vứt xác người ta xuống giếng, mà khai người ta tự tử ấy à?”... Ta càng thấy rõ Nghị
Hách là con người độc ác, giá trị đạo đức khơng cịn, một người có gia tài khủng như
ơng, uy quyền như vậy thì mỗi sự việc ơng gây ra đáng lẽ cần phải trừng phạt lai tr
̣ ở
nên vơ nghĩa “nó kình địch với tơi thì tơi sẽ làm cho nó mất cái tri huyện”. Cũng vì nắm
trong tay được tiền bạc vật chất nên ơng có thêm tiếng nói và địa vị trong xã hội, muốn
dìm chết ai thì dìm, muốn đặt chân lên chữ Nghị trưởng cũng hóa dễ dàng. Nghị Hách
sống thản nhiên và tận hưởng một cuộc sống với nhiều thú vui ở cái ấp Tiểu Vạn
Trường Thành của mình, ở đo có hai m
́
ươi cơ vợ lẽ, là những cơ gái mà ơng nhặt về
sau những cuộc vui của mình, gái nơng thơn có, gái thành thị cũng có. Với bản năng
đầy dâm ơ của Nghị Hách thì sự tồn tại của đàn bà, phụ nữ cũng là chuyện q đỗi
bình thường. Ơng coi giá trị của người phụ nữ thấp hèn hơn những đồng tiền mà ơng
đưa ra để mua họ về hầu hạ cho cái bản năng đầy dâm đãng thối nát của mình “Chết!
Vài trăm bạc! Mày điên! Mày có biết những nàng hầu của tao ở đây, đáng giá bao nhiêu
mỗi thị khơng? Cái đứa đẹp nhất, tao cũng chỉ mua của bố mẹ nó có bảy chục. Cịn
phần nhiều khơng mất xu nào. Có bảy chục bạc cịn phải về hầu hạ người ta suốt đời,
huống chi... chỉ có một lần mà những vài trăm bạc!”. Với một đại tư sản giàu có, sở
hữu hàng trăm cái đồn điền nên cái ấp của Nghị Hách cũng phải khiến người ta ngỡ
ngàng trước sự lộng lẫy, nguy nga của chúng “cái ấp của nhà triệu phú Tạ Đình Hách
thật là đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan Cơng sứ cũng khơng to tát bằng...khiến cho
khách bộ hành từ đằng xa đã thấy một quả núi nhỏ xanh đen mà trên ngọn là ba tịa nhà
tây, tồn giữa thì ba tầng, hai tịa bên thì hai tầng, trơng kiên cố và oai nghiêm như một
trại binh vậy...mặc sức tung hồnh như những người nhà của ơng chủ”.
20
Bên cạnh cái dâm dục đê tiện của Nghị Hách cịn là sự sai trái từ hành vi lợi ích
của ơng, sự giàu có đó là kết quả của q trình lừa gạt, tàn ác, tìm mọi cách xấu xa để
che mắt bịt tai những tội ác mình gây ra. Đây là nhân vật có lẽ rất hiếm gặp trong nền
văn chương bởi tồn bộ cái đen tối của xã hội đêu n
̀ ằm trong nhân vật này, hai yếu tố
chính khi nói đến Nghị Hách là tiền và dục vọng. Mở đầu tác phẩm là sự cưỡng hiếp
bởi thói dâm dục của lão khơng chừa một ai dù là người đó có bần cùng, hồn cảnh có
phù hợp để làm những chuyện xằng bậy hay khơng lão cũng khơng quan tâm mà hành
động ngay. Trong lúc đêm khuya, vơ tình chiếc xe hơi của lão bị hư, địa chủ như lao mà
̃
gặp phải cảnh hư xe giữa nơi vắng vẻ buộc Nghị Hách phải chờ đợi và rồi hắn đã
gặp Mịch một trong những người gánh rạ có vẻ gọn ghẽ nhất “lão trố mắt nhìn...Cơ ả
gánh rạ hơi cúi nghiêng mặt để đưa mắt nhìn trộm. Ánh sáng trăng tuy leo lét , song
cũng đủ khiến cho hai con mắt tinh tường của nhà điền chủ nom thấy rõ hai cái má
phúng phính, một cặp mơi nhỏ và dày, cái cằm trịn trĩnh và hơi lẹm trong cái vành
khăn mỏ quạ bằng láng thâm...nhà điền chủ lại trơng theo cái váy nâu cũn cỡn, do một
đường lại khíu giữa, cho nó chẽn đến nửa đùi, một bộ đùi phốp pháp trắng nõn,....”
Lúc này dường như cái thú tính trong lão bắt đầu trỗi dậy “nhà tư bản đứng trơng cái
bộ đùi thơn nữ ấy một cách tần ngần trong đến vài phút” mặc cho bản năng bộc phát,
khơng nghĩ ngợi nhiều lão đã bắt đầu dùng thủ đoạn nham hiểm. Tên Nghị Hách rất
khơn khéo khi biết đánh vào tâm lý hiện tại của những người đang khó khăn, hắn dụ
Mịch đi một mình đến chỗ xe hơi và dùng số tiền cao hơn giá trị bán rạ thơng thường
để thực hiện âm mưu của mình.
Thế rồi cái dâm dục cua con ng
̉
ười Nghị Hách đã giết chết nửa phần người của
cơ gái trẻ ấy, hiếp xong lão nhẫn tâm đẩy Mịch ra khỏi xe mặc cho sự đau khổ của cơ
đang rên rỉ lên từng cơn, mất đi trinh tiết, ngồi rủ rượi bên đống rạ “lão này cúi xuống,
hơn một cái hơn cuối cùng, lơi cái váy xuống, nhấc chị nhà q ngồi dậy, mở cửa xe mà
đẩy người ta xuống....”. Với cái quyền lực nhất nhì ở xã hội này có lẽ ơng chẳng sợ
điều gì có thể ảnh hưởng đến bản thân. Đến đây ta thấy rõ những sự dâm dục bừa bãi
của một con người danh tiếng lừng lẫy ây. B
́ ản chất dâm dục của Nghị Hách xuất
21
phát khi chỉ là tên cai phu mỏ, hắn đã ra tay cưỡng hiếp vợ bạn và hại bạn mình phải
ngồi tù. Đến khi sau này có tiền, danh tiếng, quyền lực hơn thì cái dâm dục ấy trở nên
bừa bãi và tàn ác hơn. Nhưng cuối cùng Nghị Hách cũng phải chịu đau đớn nửa đời hắn
về mặt tinh thần “hai con mắt lão đỏ ngầu lên như của kẻ đau mắt rất nặng... mồm
lão sùi bọt mép như mồm kẻ động kinh” đây là nỗi đau sẽ phải giết chết con người ta
từng ngày từng giờ mà mãi khơng thể lành lặn “Nghị Hách để hai tay chống bàn, cúi
mặt xuống. Trong óc lão hiện ra cái cảnh tượng vợ lão lõa lồ thân thể nằm ơm thằng
cung văn.”. Cái đau day dứt nhất mà Nghị Hách phải trả giá cho những lầm lỗi của
mình khiến hắn sống khơng bằng chết. “Giơng tố” căn bản là bầu trời của Nghị Hách,
mơ tả ở trên hai bình diện: một là sự vơ đạo đức, gian dâm, loạn ln, ghê tởm; hai là
vịng liên kết giữa đồng tiền – bạo lực, sức mạnh của đồng tiền đã thao túng giá trị
của con người lúc bấy giờ.
Long, là nhân vật có học thức, biết lẽ đúng sai sau khi bị hồn cảnh tha hóa đã
biến đổi trở thành tệ nạn của xã hội. Vũ Trọng Phụng đã biến đổi nhân vật này như
chính những con người xuất hiện trong xã hội mà ơng đang thấy. Bi kịch rắc rối trong
tình u của Long được khởi đầu khi Mịch bị Nghị Hách hiếp trở thành gái mất tân.
Tình u của họ vẫn nồng nàn và đầy sự tin tưởng nhau cả khi gặp biến cố Long vẫn
một lịng một dạ tin u Mịch và hứa sẽ trả thù “anh cam đoan vẫn u q Mịch như
trước, u q mãi, u q suốt đời. Anh lại cam đoan là sẽ rửa thù cho Mịch nữa, vì
rằng cái nhục của Mịch tức là một vết nhọ trên trán anh. Rồi thì anh cũng phải làm thế
nào rửa cho sạch vết nhọ ấy thì mới có thể trơng thấy mọi người được”.
Vũ Trọng Phụng cho thấy Long là một người bị biến đổi hồn tồn bởi hồn
cảnh, khi cám dỗ q lớn khiến con người ta khơng giữ vững lập trường. Khi gặp
Tuyết và Loan, lúc này ham muốn trong Long được thơi thúc đồng nghĩa với sự chung
thủy khơng cịn tồn tại nữa. Với hành động giữ xe đạp cho hai cơ “một tay vịng trước
ngực, một tay giữ chỗ dưới sống lưng để giữ vững hộ những bộ phận của cái...xe
đạp, cho người ta vừa tập đi xe và thỉnh thoảng lại ngã vào lịng mình một cách dễ
chịu!”. Sau một vài cuộc vui ấy Long bắt đầu cảm thấy u hai cơ nhưng đâu đó vẫn
22
nghĩ đến sự thương xót cho Mịch, trong suy nghĩ bấy giờ là hai chiều hướng đối lập
nhau, một bên là tình u bình dị nồng cháy nhưng Mịch giờ đây lại hóa dơ bẩn, một
bên là tình u với cơ gái tân thời, hiện đại, gia thế bậc nhất và có thể thay đổi cuộc
đời Long. Đem lịng u Mịch nhưng dục vọng trong Long với Tuyết q lớn, và rồi
anh thư ký ấy đã chọn Tuyết là vợ sắp cưới đồng nghĩa việc trở thành con rể của cái
ấp Tiểu vạn trường thành mà Long từng chống ngợp. Với bản chất đầy hồi nghi
Long đã thực hiện cái ham muốn của bản thân với Tuyết phá vỡ luật lệ của đơi nam
nữ chưa cưới “Long nghĩ thầm: “giời ơi một thiếu nữ mà thạo đời! Mà lại thạo đời
trong những lúc vào khách sạn th buồng!”. Cái dục vọng bên trong con người ấy đã
chiếm lấy suy nghĩ và hành động của Long. Đến cuối cung Long đã b
̀
ị thay đổi hồn
tồn và trở thành người phá tiền, phá của, đứng đầu những cuộc vui mang đầy sự dâm
dục, sa đọa, bỏ bê gia đình. Xun suốt cuộc đời Long là những sự thật đầy ám ảnh và
khơng thể chữa lành khi sinh ra khơng cha khơng mẹ, vợ sắp cưới bị ngươi ta hãm hi
̀
ếp
ma đo lai chính là cha ru
̀ ́ ̣
ột mình, lấy Tuyết lam v
̀ ợ nhưng biết rõ đó là em ruột mình và
thơng dâm với vợ cua b
̉ ố. Một sự náo loạn của cuộc đời Long khơng thể nào ngi
ngoai, sự nhục nhã khơng thể nào sống tiếp tục nữa. Một người có học thức như Long
đáng lẽ phải đi theo cơng lý, sống với lẽ phải. Khơng cịn gì để nói đến sự lặng im này
của Long, sự lặng im của mơt ke hèn h
̣ ̉
ạ, khốn nạn.
Mịch là một cơ gái xuất thân từ gia đình nghèo ở làng Quỳnh Thơn, đó là cơ
Mịch xinh đẹp nhưng ngây thơ, chẳng biết cái gì là đời, những gì xảy ra trước mắt
Mịch đều đơn thuần, binh di khơng có gì ph
̀
̣
ức tạp “mười tám tuổi đầu, cơ vẫn ngây
thơ, khờ dại như gái mười lăm. Cơ khơng biết gì là đời cả. Cơ thấy đời là sự nghèo
khổ và sự nhẫn nhục của cha mẹ, là sự siêng năng làm ăn của cơ mà thơi...”. Một cơ
gái thơn q bình dị, chất phác thật thà, cũng vì thấu hiểu nỗi khó khăn của cha mẹ nên
Mịch vẫn cố gắng làm lụm kiếm tiền dù ít hay nhiều cơ cũng thấy vui phần nào. Mịch
đi gánh rạ bán để giúp cha mẹ nhưng cũng từ những cái gánh rạ ấy mà sinh ra bi kịch
đớn đau, thay đổi cả cuộc đời cơ. Vũ Trọng Phụng đã đưa Mịch vào tình huống gặp
Nghị Hách, sau khi nhận năm đồng từ việc mua rạ của Nghị Hách thì cuộc cưỡng hiếp
23
bắt đầu diễn ra. Co l
́ ẽ sự ngây thơ, khờ dại trong Mịch đã lấn át q nhiều khiến sự
phản kháng, chống đối chưa quyết liệt. Khi Mịch nghĩ tới chính mình sau hồn cảnh éo
le ấy giờ đây đã dần thay đổi suy nghĩ, tư tưởng, Mịch nhận thức rõ về bản thân mình
“tuy nghèo nhưng Mịch lại đẹp. Hai má lúc nào cũng đỏ ửng như say trầu, hàm răng
đen lay láy hạt ngun hẳn hoi. Những khi soi bóng trong gương Mịch thấy mặt mũi
mình cũng nhẹ nhõm, mà đơi mắt mình thì là mắt con nhà lương thiện. Cái cặp mắt ấy
người ngồi trơng thấy thì ai cũng khen là ngây thơ, hay là dễ hữ, hay dễ bụng nghe, là
lạc quan, là dễ tin đời...” Mịch cũng buồn khổ, chua xót cho thân phận bẽ bàng của
mình.
Sự ám ảnh vẫn dây dưa theo Mịch qua bao ngày tháng, cơ gai ây b
́ ́ ắt đầu nhìn rõ
sự đời hơn, thấu hiêu đ
̉ ược cai hồn c
́
ảnh khốn khổ của ban thân. Khi con ng
̉
ười ta
xảy ra sự đau đớn khủng khiếp nào đó ho s
̣ ẽ nhìn đời một cách khác đi và trở nên bi
quan hơn “cơ thấy lồi người là ích kỷ, độc ác, khơng cịn một ai là đang u”. Từ
trước đến nay cơ khơng hề biết hay quan tâm đến những chuyện nhạy cảm mà giờ đây
đã thay đổi rất nhiều, làm gì cũng thấy thẹn thậm chí đên vi
́ ệc vớt bèo, trước kia Mịch
xắn cao ống quần lên đến tận bẹn nhưng giờ đây Mịch lai đ
̣ ể ngun ống dài hoặc
thấy thẹn khi hai con chuồn chuồn theo quy luật âm dương cưỡi lưng lên nhau mà bay.
Từ khi suy nghĩ ngày càng bị thay đổi, Mịch đã bị tha hóa hồn tồn từ ngồi vào trong,
đạo đức lẫn nhân cách, Mịch từ cơ gái nơng thơn ngây thơ trở thành người phụ nữ ham
mê dục vọng. Sau khi Mịch trở thành vợ lẽ của Nghị Hách, sự cơ đơn ở chính ngơi nhà
này ơm lấy Mịch, bởi trong chinh đêm tân hơn M
́
ịch cũng chỉ có một mình. Đơi lúc,
Mịch nghĩ là chồng mình đã chết rồi “Mịch ngạc nhiên ở chỗ chính mình, mình cũng có
thể vơ tình đến nỗi coi chồng như chết mất rồi: coi mình như một quả phụ được
hưởng cơ nghiệp của chồng để lại, và coi đứa con trong bụng là một đứa trẻ xấu số,
đến nỗi mồ cơi bố ngay từ lúc chỉ mới là một cái bào thai”.
Khi con người ta đã có được sự khối cảm, đi đến ngưỡng cửa của tình dục thì
chắc hẳn trong họ sẽ muốn được thỏa mãn thêm. Mịch dần cảm thấy bất lực khi giờ
đây có chồng như chăng có, l
̉
ại khơng được ngoại tình thì việc ân ái tiếp theo chẳng
24
biết là với ai? Bao giờ? Vì cái khối lạc trong cuộc hãm hiếp của Nghị Hách vẫn cịn
xót lại. Mịch bắt đầu ngoại tình bằng tinh thần, một việc có thể che giấu được mà
cũng chẳng ai hay biết “cho nên một buổi chiều, chỉ cần có một người khách qua
đường nhìn thấy Mịch, là đủ cho đêm ấy, Mịch được cái sung sướng, bài trí trong óc
một cảnh hạnh phúc gia đình với khách qua đường ấy, một cảnh trong đó có đủ:
những sự ơm ẵm, mơn trớn...nâng niu...”. Những giây phút đê mê mơ tưởng ấy Mịch
khơng hề mang ý nghĩ mình đã ngoại tình với chồng mà là ngoại tình với Long vì Mịch
u Long, bởi lẽ con người ta u ai say đắm khi nói đến tình dục, dâm đãng người ta
chỉ nghĩ đến và thỏa mãn với người mình u thật sự “Sáng chủ nhật hơm ấy, khơng lo
ngại gì cả, cũng chẳng nghĩ đến cái thai trong bụng nữa, y như một con dâm phụ, Mịch
đã cho Long ái tình..”. Giờ đây Mịch đã hồn tồn trở thành một người đan ba cu
̀ ̀ ồng
dâm, khao khát được thỏa mãn dục tình ấy cùng với Long “Mịch đã thường ơm gối
chăn, nghĩ đến Long, bàng hồng soi bói trên thớ vải trắng nuốt của gối chăn.”. Một
người thèm thuồng, điên loạn trong tâm thức về sự ham muốn khi có được thời cơ
Mịch lại càng nhanh nhạy và khơn khéo hơn “Mịch thoăn thoắt xuống, mở cổng cho
Long, bằng sự hấp tấp của một con dâm phụ, và mời hẳn Long lên buồng riêng.”. Một
cơ gái ngây thơ, hiền hậu đa biên mât đê lai mơt cơ gai hiêu đ
̃ ́
́ ̉ ̣
̣
́ ̉ ời cịn hơn chữ đời, làm
những chuyện qi đảng, dâm dục, ngoại tình, trở thành một người bị tha hóa dữ dội
và dù cố niu gi
́ ữ lại mọi khía cạnh đâu đó ở Mịch nhưng khơng cịn là Mịch ngày xưa,
như một người đã chết đi va gi
̀ ờ đây khỏa lấp bằng một người mới mang đầy sự khao
khát của bản thân.
Chủ nghĩa tự nhiên là những gì chân thực nhất về con người, vê nh
̀ ững mặt tối
của xã hội trong đó là nơi mà con người bị đồng tiền thao túng, dẫn đến những suy
nghĩ lệch lạc, vì tiền, vì danh lợi khi bị ép vào bước đường cùng thì con người ta lại
trở thành cái hạng người mà mình từng ghét bỏ, chính vì hồn cảnh như vậy đã khiến
cho con người họ phải thay đổi để có thể tồn tại được trong cái xã hội ấy. Các nhân
vật trong tác phẩm đã được Vũ Trọng Phụng vẽ lên một cách chi tiết mang đậm những
yếu tố của chủ nghĩa tự nhiên cho thấy rõ những điều vụn vặt, vơ cảm của con người,
25