Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

LICH SU VIET NAM 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.67 KB, 14 trang )

Chương 1
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ CAN THIỆP MĨ
(1945-1954)
1.1. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám
(từ 2-9-1945 đến 19-12-1946)
1.1.1. Bối cảnh thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
- Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới thay đổi về cơ bản: Chủ
nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước, phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do
dân chủ, đòi cải thiện đời sống, đòi hịa bình trong các nước tư bản và đế quốc phát triển
thêm mạnh mẽ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ
thuộc dâng cao, đặc biệt là ở châu Á.
- Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công nhân dân ta phải đối mặt với nhiều khó
khăn, nó trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của đất nước. Cụ thể là: khó khăn do chế độ
thực dân phong kiến để lại, do chính quyền cách mạng đang cịn trong thời kỳ trứng
nước, đặc biệt là những khó do kẻ thù của cách mạng gây ra: một lực lượng đế quốc đông
và mạnh với danh nghĩa Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật. Giặc ngồi, thù
trong, khó khăn chồng chất khó khăn, vận mệnh dân tộc ta như “ngàn cân treo sợi tóc”.
- Về thuận lợi: nước ta đã giành được độc lập, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người dân tự do, Đảng ta đã nắm chính quyền trong phạm vi cả nước, nhân dân ta vốn có
truyền thống yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm; phong trào cách mạng thế giới
sau Chiến tranh thế giới thứ hai phát triển mạnh mẽ.
1.1.2. Các chủ trương biện pháp để xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạng sau
năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở nước ta là giành chính quyền, sau khi giành được chính quyền, nhiệm
vụ cơ bản là giữ vững chính quyền.
- Ngày 29-5-1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập. Cùng với mặt trận,
một số đồn thể quần chúng cũng như các tổ chức chính trị cũng được thành lập : Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng xã hội Việt Nam (11-8-1946) cũng ra
đời. Đồng thời với các biện pháp tổ chức, Chính phủ lâm thời còn tiến hành một loạt các
biện pháp để giữ vững và bảo vệ chính quyền cách mạng như bãi bỏ các cơ quan của


chính quyền cũ để sát nhập vào các bộ của cách mạng, giải tán các tổ chức tay sai phản
động như Đại Việt quốc dân đảng, Việt Nam ái quốc hội, thành lập Tòa án quân sự cách
mạng. Ngày 22-5-1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam, cùng
với lực lượng vũ trang tập trung, lực lượng dân quân, tự vệ cũng được các cấp quan tâm
xây dựng. Ngày 21-2-1946, Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh thành lập Việt Nam Cơng an vụ, hệ
thống tổ chức Tịa án cũng được xây dựng bước đầu.
Do tình hình lúc bấy giờ rất phức tạp, ngày 1-1-1946 Chính phủ đưa Nguyễn Hải Thần,
Nguyễn Tường Tam vào Chính phủ lâm thời, và đổi tên thành Chính phủ liên hiệp lâm
thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm ngoại giao, đó là một biện pháp thỏa hiệp tạm
thời trong tình hình đặc biệt của đất nước.
- Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên trong lịch sử, những công dân của nước Việt Nam độc lập
nô nức đi cầm lá phiếu của mình bầu ra những đại biểu ưu tú nhất vào Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất. 333 đại biểu Bắc - Trung - Nam, tượng trưng cho khối đại


đoàn kết toàn dân được bầu vào Quốc hội. Sau thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội, là
cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp từ cấp xã đến cấp tỉnh được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Ủy ban hành chính các cấp cũng được thành lập thay
cho Ủy ban nhân dân trước đây. Đến đây, bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân nước ta
bước đầu được củng cố và kiện toàn.
1.1.3. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng
- Cuộc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị nhiều biện pháp như : tổ chức lạc quyên, lập hũ gạo cứu
đói. Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch và noi gương Người, toàn bộ nhân dân đã tự
nguyện “đồng tâm bớt bữa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân “Tăng gia sản xuất
ngay, tăng gia sản xuất nữa. Các biện pháp như hàn gắn những quãng đê bị vỡ, củng cố
đê điều, khai hoang phục hóa, tăng gia tự cấp, tự túc được nhân dân hăng hái hưởng ứng.
+ Để tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh khơi phục và phát triển kinh tế, Chính phủ đã ra
Sắc lệnh tịch thu ruộng đất của địa chủ việt gian phản động chia cho dân nghèo, thực hiện
chủ trương chia lại ruộng đất, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, giảm tô 25%

cho tá điền, miễn thuế cho các vùng lụt, thành lập các Ban khuyến nông dưới để giúp đỡ
dân nghèo về giống, vốn và kinh nghiệm sản xuất.
+ Để khắc phục khó khăn về tài chính, Nhà nước đã xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công
trước đây, động viên nhân dân đóng góp bằng các hình thức như xây dựng “quỹ độc lập”,
tổ chức “tuần lễ vàng” “quỹ kháng chiến”, “quỹ Bình dân học vụ”... với tinh thần yêu
nước nồng nàn, nhân dân ta đã tự nguyện đóng góp cho Nhà nước tiền của, vàng bạc kể
cả tư trang quý, những vật kỷ niệm như nhẫn, dây chuyền, hoa tai... chỉ trong vòng một
thời gian ngắn, nhân dân đã tự nguyện đóng góp cho cách mạng được 370 kg vàng và 20
triệu vào quỹ độc lập, 40 triệu vào quỹ đảm phụ quốc phòng. Ngày 31-1-1946, ta phát
hành tiền Việt Nam trong tồn quốc thay cho tiền Đơng Dương cũ.
+ Cuộc đấu tranh chống giặc dốt, phát triển văn hóa mới của nhân dân ta đã diễn ra sôi
nổi, rộng khắp và thu được nhiều thành tựu quan trọng. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, phát động phong trào xóa nạn mù chữ
trong toàn quốc.
+ Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, đấu tranh chống các thói hư tật xấu, những tập
tục lạc hậu, những ảnh hưởng của văn hóa nơ dịch... được đẩy mạnh và có tính chất quần
chúng rộng rãi.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam
+ Ngày 6-9, quân Anh đến Sài Gòn, chúng đã yêu sách ta, đòi ta phải giải tán lực lượng
vũ trang, thả hết tù binh Pháp, rồi trang bị vũ khí cho số tù binh này, hỗ trợ quân Pháp
chiếm bến tàu và một số vị trí quan trọng khác trong thành phố. Đêm 22 rạng ngày 23-91945, Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan Tự vệ thành.
+ Trước hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, Xứ ủy Nam Bộ ngay sáng
23-9 đã họp và quyết định phát động nhân dân đứng lên chống Pháp. Quân và dân Sài
Gòn - Chợ Lớn đã anh dũng đứng lên kháng chiến bằng mọi thứ vũ khí có trong tay,
giam chân quân xâm lược Pháp trong thành phố suốt hơn một tháng.
+ Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, đồng bào Nam Bộ đã nhận được sự chi viện và giúp đỡ
của nhân dân cả nước, khắp nơi trên đất nước ta, với phong trào “Nam tiến” các địa
phương trong cả nước đã gửi hàng vạn thanh niên lên đường vào Nam chi viện, nhân dân
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo... ủng hộ đồng bào
Nam Bộ.



+ Ngày 5-10-1945 tướng Lơcơlét đến Sài Gòn cùng với nhiều đơn vị bộ binh và thiết
giáp. Đến cuối tháng 11-1945 quân Pháp mở rộng đánh chiếm ra nhiều nơi, chúng đánh
chiếm các thị xã, các đường giao thông chiến lược miền Trung và Tây Nam Bộ, trong
vòng 3 tháng, với ưu thế về trang bị và hỏa lực, về quân số Pháp cơ bản chiếm được Nam
Bộ. Để bảo tồn lực lượng chiến đấu lâu dài, chúng ta rút dần vào bí mật để xây dựng cơ
sở.
- Sách lược đấu tranh ngoại giao của ta đối với quân Tưởng và bọn tay sai ở miền Bắc
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cùng một lúc trên đất nước có nhiều kẻ thù,
trương của ta là tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, phải tùy vào âm mưu
của từng kẻ thù cụ thể mà có đối sách thích hợp. Trước tình hình thực tế là thực dân Pháp
gây hấn ở miền Nam, chúng ta chủ trương hòa với Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống
Pháp ở miền Nam.
+ Khi Hà Ứng Khâm Tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng đi Hà Nội (10-1945) để
thực hiện âm mưu thôn tính miền Bắc, ta đã tập trung 300.000 người, đứng thành hàng
ngũ chỉnh tề, băng, cờ khẩu hiệu rợp trời rồi hô vang các khẩu hiệu : “Nước Việt Nam
của người Việt Nam”; “Ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh”; “Hoa - Việt thân thiện”
+ Để hạn chế sự phá hoại của kẻ thù, ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương
tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo cách
mạng.
+ Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai, trong phiên họp đầu tiên ngày 23-1946, Quốc hội khóa I đã đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng Giới Thạch 70 ghế trong
quốc hội và 4 ghế bộ trưởng. Về kinh tế, ta đã đáp ứng những đòi hỏi của Tưởng về
lương thực, thực phẩm, phương tiện đi lại, đồng ý cho tiêu tiền “quốc tệ” và “quan kim”
của Tưởng...
+ Đối với các tổ chức tay sai của Tưởng như Việt Quốc, Việt Cách ta có cách đối phó
kiên quyết, trong điều kiện phức tạp lúc đó, ta dựa vào quần chúng nhân dân để vạch trần
những hành động phá hoại của chúng, những kẻ có đủ bằng chứng phản nước, hại dân thì
kiên quyết trừng trị theo pháp luật

- Thực hiện hịa hỗn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng khỏi nước ta
Sau khi về cơ bản chiếm được miền Nam và Nam Trung Bộ nước ta, thực dân Pháp
chuẩn bị một kế hoạch tấn công ra miền Bắc, Pháp ký kết với Tưởng hiệp định Hoa Pháp ngày 28-2-1946. Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước hai sự lựa chọn là
đánh Pháp hay hòa Pháp. Chiều ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ ta đã ký với đại diện chính phủ Pháp là Xanhtơni bản Hiệp định sơ bộ. Nội dung của
Hiệp định sơ bộ là :
1. Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là một quốc gia tự do, có
chính phủ, quân đội, nghị viện và nền tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
2. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thỏa thuận để cho 15.000 quân Pháp ra
miền Bắc thay thế quân đội Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân trên sẽ rút
dần trong thời hạn là 5 năm.
3. Hai bên tiến hành ngừng bắn ngay tại Nam Bộ, giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí
cũ, tạo khơng khí thân thiện để mở đàm phán tiếp theo tại Pari.
Sau khi ký kết hiệp định, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định, trong khi đó thực dân Pháp tìm cách vi phạm hiệp định, xé bỏ
những điều mà chính chúng đã cam kết. Do sự kiên quyết đấu tranh của ta, ngày 6-7-


1946, tại lâu đài Phơngten nơblơ, cuộc họp chính thức giữa hai phái đoàn Việt - Pháp
được khai mạc. Tại cuộc họp lần này, lập trường của phía Pháp vẫn rất ngang ngược,
ngày 10-9 cuộc đàm phán chấm dứt, tình hình bang giao Việt - Pháp ngày càng căng
thẳng, nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình trên, nhằm tranh thủ
thêm thời gian hịa hỗn để củng cố lực lượng, Hồ Chủ Tịch đã ký với đại diện Chính phủ
Pháp là Mutê bản Tạm ước 14-9-1946.
- Tích cực chuẩn bị kháng chiến chống Pháp
+ Tranh thủ thời gian hịa hỗn cực kỳ q báu, Chính phủ và nhân dân ta đã xây dựng và
phát triển lực lượng mọi mặt chuẩn bị cho cuộc kháng chiến: nhiều căn cứ cách mạng đã
được hình thành và củng cố như Chiến khu Đ, Đồng Tháp Mười, rừng U Minh.
+ Các tổ chức chính trị cũng được thàh lập: Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-51946), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (27-71946), Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20-10-1946). Nhiệm vụ xây dựng lượng vũ trang
được đặc biệt coi trọng. Vệ quốc đồn chính thức trở thành qn đội quốc gia Việt Nam

ngày 22-5-1946, các trường đào tạo cán bộ chính trị, quân sự được thành lập.
+ Từ ngày 28-10 đến 9-11-1946 Quốc hội đã họp phiên thứ hai và thơng qua danh sách
Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua bản Hiến pháp của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
1. 2. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946-1950)
1.2.1. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ
- Kháng chiến bùng nổ. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta
+ Nước Việt Nam cần hịa bình để xây dựng và kiến thiết đất nước, vì vậy ta kiên trì giải
quyết mối quan hệ bang giao hịa bình, hợp tác với chính phủ Pháp. Trái lại, Pháp tưởng
rằng việc ta nhân nhượng là bộc lộ thế suy yếu, nên càng lấn tới, chúng trắng trợn vi
phạm hiệp định, quyết cướp nước ta một lần nữa. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp tập
trung quân tấn công các căn cứ, các cơ sở cách mạng, đánh chiếm các vùng tự do còn lại
của ta. Ở miền Bắc, sau khi được tăng cường viện binh, thực dân Pháp càng gia tăng các
hành động khiêu khích. Từ hạ tuần tháng 11-1946 trở đi, tình hình trở nên hết sức căng
thẳng, xung đột thường xuyên xảy ra. Với hành động đánh chiếm Hải Phịng, sau đó đánh
chiếm Lạng Sơn, Pháp đã chính thức gây ra chiến tranh xâm lược miền Bắc nước ta.
+ Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12-1946 tình hình trở nên hết sức căng thẳng, Pháp liên tiếp
gây ra các vụ xung đột với tự vệ, công an và lực lượng vũ trang của ta, ngày 18-12-1946,
tướng Moóclie gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng chiến đấu, giao quyền kiểm sốt
thủ đơ cho chúng. Lý do để hịa hỗn khơng cịn nữa, đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
+ Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch đã đề ra đường lối
kháng chiến để lãnh đạo nhân dân ta, đó là đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam
nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, nhằm khắc phục những nhược điểm trước mắt của
ta, để ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành và cuối cùng đánh thằng
hoàn toàn thực dân Pháp. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”.
+ Đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đề cập một cách sinh động và phong phú
các mặt hoạt động cũng như thực tiễn cuộc kháng chiến của quân và dân ta, là sự thể hiện
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hồn cảnh cụ thể nước ta, đó là

ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


1.2.2. Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1946-1950)
- Cuộc chiến đấu ở các đô thị Bắc vĩ tuyến 16
+ Nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch và mệnh lệnh chiến đấu
của Bộ tổng tư lệnh, quân và dân Hà Nội đã chiến đấu oanh liệt trong 60 ngày đêm nhằm
bảo vệ các cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ, lực lượng vũ trang của ta nêu cao
tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, ta giành nhau với địch từng ngơi nhà, góc
phố, quần chúng nhân dân thủ đô đã làm chướng ngại vật, mang bàn ghế, giường tủ...
chặn quân Pháp. Đến đêm ngày 17-2-1947, theo kế hoạch ta rút khỏi thành phố.
+ Cùng với quân và dân Thủ đô, quân và dân ở các thành phố, thị xã bắc vĩ tuyến 16, ở
tất cả những nơi có quân Pháp chiếm đóng đã đồng loạt nổ súng như Hải Dương, Hải
Phòng, Nam Định, BắcNinh, Huế, Đà Nẵng...
+ Cuộc chiến đấu ở các đô thị đã khẳng định ý chí quyết chiến đấu để bảo vệ độc lập tự
do của nhân dân ta, làm phá sản một bước kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của thực
dân Pháp, tiêu diệt một bộ phận quân xâm lược Pháp, giam chân chúng tại các thành phố,
tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài.
- Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947
+ Ngày 7-10-1947, Pháp huy động 12.000 quân, cùng với những trang thiết bị chiến tranh
hiện đại nhất, chia làm 3 cánh quân tấn công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não
và bộ dội chủ lực của ta. Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh nhận định rằng, địch tiến
lên Việt Bắc là cơ hội để ta tiêu diệt chúng, đồng thời hạ quyết tâm phá tan cuộc tấn công
mùa đông của Pháp.
+ Ở mặt trận đường số 3, ta tổ chức đánh địa lơi, đánh phục kích, đánh tập kích trên 20
trận ở Chợ Đồn, Chợ Mới... cắt đứt đường tiếp tế của địch, buộc chúng phải rút khỏi Chợ
Đồn, Chợ Rã. Trên mặt trận đường số 4, diễn ra nhiều trận đánh phục kích, đặc biệt là
trận ở đèo Bơng Lau (30-10) ta phá hủy 27 xe cơ giới, diệt gọn một đại đội địch (bắt sống
101 tên, thu nhiều vũ khí).
+ Trên mặt trận sơng Lơ, Chiêm Hóa, ta đã mưu trí đánh hàng chục trận, tiêu biểu như

trận Đoan Hùng (Phú Thọ). Đến đây kế hoạch các gọng kìm của Pháp bị bẻ gãy hồn
tồn, cả ba cánh quân đều thiệt hại nặng nề.
+ Ở các chiến trường khác trên toàn quốc, ta chủ động đánh phối hợp, không cho chúng
tập trung quân vào chiến trường Việt Bắc, Pháp bị đẩy vào tình trạng nguy khốn.
+ Sau 75 ngày đêm anh dũng chiến đấu, đến ngày 19-12-1947, đại bộ phận quân Pháp đã
rút khỏi Việt Bắc đánh dấu thất bại đầu tiên của Pháp về chiến lược trong cuộc chiến
tranh xâm lược Đông Dương.
+ Chiến dịch kết thúc thắng lợi, 6.000 quân Pháp bị tiêu diệt, 16 máy bay, 11 tàu và ca nơ
bị bắn cháy, bắn chìm, ta cịn thu hàng ngàn tấn vũ khí các loại. Với thắng lợi này, ta đã
giáng một đòn quyết định vào chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp,
buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Chiến thắng Việt Bắc đưa cuộc kháng
chiến của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn ta và Pháp giằng co
nhau trên chiến trường.
- Thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục của nhân dân ta trong những năm
(1948-1950)
Trong chiến tranh, một hậu phương vững chắc cho phép giải quyết vấn đề nhân lực,
tiếp tế hậu cần, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của toàn dân, đồng thời tăng cường tiềm lực
kinh tế và quốc phòng. Sức mạnh của hậu phương là sức mạnh của tất cả các yếu tố chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hóa... tất cả liên quan chặt chẽ với nhau và hợp thành một chỉnh


thể hoàn chỉnh. Cùng với những thắng lợi trên mặt trận quân sự, từ năm 1948-1950, nhân
dân ta còn thu được nhiều thành tựu trên các mặt trận khác
+ Về chính trị: Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm đến sức mạnh và hiệu lực của chính
quyền nhân dân các cấp từ trung ương đến địa phương, đấu tranh kiên quyết chống lại kế
hoạch thành lập chính phủ bù nhìn của địch. Năm 1948, lần đầu tiên ta tổ chức bầu cử tại
Nam Bộ từ cấp xã đến cấp tỉnh, đồng thời chấn chỉnh và đưa các Hội đồng nhân dân vào
hoạt động có nề nếp. Tháng 6-1949, Đảng và Chính phủ chủ trương thống nhất mặt trận
Việt Minh, tháng 1-1950, ta đã cơ bản thống nhất xong từ cấp xã đến cấp tỉnh. Năm1947,
Hồ Chủ Tịch kiện toàn lại một bước bộ máy nhà nước, Người đặc biệt quan tâm đến việc

mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Chính phủ. Cơng tác vận động đồng bào miền núi,
đồng bào công giáo, bà con người Hoa, quần chúng trong vùng địch kiểm soát, vận động
ngụy binh được đặc biệt coi trọng. Các đoàn thể quần chúng như Hội liên hiệp phụ nữ,
Tổng liên đoàn, Đoàn thanh niên... tiếp tục được củng cố và lớn mạnh trong điều kiện
kháng chiến.
+ Về kinh tế: Chính sách kinh tế của Đảng là tăng cường nội dung dân chủ nhân dân của
nền kinh tế, đẩy mạnh sản xuất theo hướng tự túc, tự cấp, xây dựng kỹ nghệ quốc phòng,
chống lại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch.
Nông nghiệp được coi là nhiệm vụ hàng đầu, năm 1949 Chính phủ tiếp tục ra Sắc lệnh
giảm tô 25%, thực hiện xóa nợ, hỗn nợ, quy định việc chia lại ruộng công, tạm cấp
ruộng đất của địa chủ việt gian, ruộng đất vắng chủ chia cho nơng dân, năm 1950 Chính
phủ ra Sắc lệnh giảm tức, xóa nợ và hỗn nợ, ban hành quy chế lĩnh canh để bảo vệ
quyền lợi của tá điền. Tổng sản lượng lương thực tại các vùng tự do và căn cứ kháng
chiến vào năm1950 đạt 2,4 triệu tấn, riêng khu V đã tự túc được lương thực.
Công nghiệp: ta đặc biệt quan tâm đến công nghiệp quốc phòng, chú ý xây dựng các nhà
máy quy mô vừa và nhỏ, phân tán để hạn chế sự phá hoại của kẻ thù, đã sản xuất được
nhiều loại súng đạn, mìn, tiêu biểu như súng SKZ 60 để công đồn, súng bazôka, súng cối
60 li, 120 li, súng phóng bom, súng phóng lựu... 2 triệu viên đạn được sản xuất trong
chiến tranh, trong những điều kiện khó khăn là một kỳ tích của ngành quân giới Việt
Nam. Các xưởng quân nhu cũng được xây dựng nhằm phục vụ cho nhu cầu ngày càng
cao của bộ đội. Công nghiệp khai thác than, cơng nghiệp hóa chất hoạt động có hiệu quả.
Tiểu thủ cơng nghiệp: trong cả nước có khoảng 553 xưởng. Đặc biệt là các ngành như
dệt, giấy, in, xà phòng, muối, diêm... đã đáp ứng tương đối tốt cho nhu cầu của nhân dân
và bộ đội.
+ Văn hóa - giáo dục: để động viên phong trào học tập, từ 1948 Chính phủ đưa ra khẩu
hiệu “Đi học là kháng chiến”. Đến đầu năm 1949 có 10 triệu người biết đọc, biết viết.
Phong trào Bình dân học vụ phát triển rộng khắp cả nước. Các trường chuyên nghiệp
cũng bước đầu được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài cho sự
nghiệp cách mạng. Tháng 7-1950, Chính phủ quyết định thực hiện Cải cách giáo dục, hệ
thống giáo dục cũ được thay bằng hệ thống giáo dục bắt buộc 9 năm

Trên mặt trận văn hóa: song song với việc xóa bỏ nền văn hóa nơ dịch, ngu dân của thực
dân Pháp, Đảng ta chủ trương xây dựng nền văn hóa mới theo phương châm: “Dân tộc,
Khoa học và Đại chúng”. Năm 1948, Hội nghị văn hóa tồn quốc được triệu tập, đồng chí
Trường Chinh đã trình bày bản báo cáo quan trọng: “Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa
Việt Nam”, từ đó văn hóa càng bám sát nhu cầu kháng chiến, lấy đối tượng phục vụ nhân
dân là chính, văn nghệ sĩ đã hịa nhập cùng với cuộc sống sôi động của dân tộc, nếp sống
vui tươi, lành mạnh có văn hóa phát triển, các tệ nạn xã hội được hạn chế.


+ Y tế: các cấp các ngành chun mơn có nhiều cố gắng trong cơng tác y tế, điển hình là
cuộc vận động ba sạch, ta đã sản xuất được thuốc pênixilin, đây là một cố gắng lớn của
ngành y tế.
- Chiến dịch Biên giới thu đông và cục diện mới trên chiến trường Bắc Bộ
+ Cuối năm 1949, đầu 1950 tình hình thế giới có những thay đổi quan trọng có lợi cho
cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhưng lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Mĩ can thiệp
ngày càng sâu vào chiến tranh Đơng Dương.
+ Về phía ta, sau 5 năm tiến hành kháng chiến, lực lượng của ta trưởng thành mọi mặt,
chính vì vậy để đẩy mạnh kháng chiến, ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng thêm đất đai, khai thơng biên giới
Việt - Trung, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa,
mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
+ Vào lúc 6 giờ sáng ngày 16-9-1950, với một lực lượng áp đảo địch, ta nổ súng tấn cơng
Đơng Khê một vị trí quan trọng trên đường số 4 mở màn cho chiến dịch, sau 54 giờ chiến
đấu, ta làm chủ cứ điểm, địch rơi vào thế nguy khốn. Mất Đông Khê, địch thực hiện một
cuộc hành quân kép: chúng cho một mũi đánh lên Thái Nguyên để hút lực lượng của ta,
một mũi khác từ Thất Khê đánh lên định tái chiếm lại Đơng Khê. Đốn được ý đồ của
địch, từ 1-10, ta chặn đánh quyết liệt không cho hai cánh quân của địch liên hệ với nhau.
Sau 8 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch, sợ bị ta tiêu diệt, từ
ngày 10 đến 22-10-1950 Pháp rút khỏi một loạt cứ điểm như Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng
Sơn...

+ Sau hơn một tháng chiến đấu (từ 16-9 đến 22-10-1950), chiến dịch Biên giới kết thúc
thắng lợi rực rỡ, ta tiêu diệt và bắt sống 8.300 tên, tịch thu và phá hủy 3.000 tấn vũ khí và
phương tiện chiến tranh phóng một dải biên giới Việt - Trung dài 750km với 35 vạn dân.
Hành lang đông tây của Pháp bị chọc thủng, kế hoạch Rơve của Pháp bị phá sản. Với
chiến thắng Biên giới, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ đã về
tay chúng ta. Ta đã giáng một đòn mạnh vào ý đồ xâm lược của địch, đẩy Pháp chìm sâu
vào thế bị động đối phó với ta ở khắp nơi.
1.3. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp (1951-1953)
1.3.1. Pháp - Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương
- Sau chiến thắng Biên giới thu đông năm 1950, dù phải chịu nhiều thất bại cay đắng,
nhưng đế quốc Pháp - Mĩ vẫn đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam, ngày 6-121950, Pháp cử đại tướng Đờ lát đờ Tátxnhi (tư lệnh lục quân khối Tây Âu) sang làm
Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Đông Dương đã đề ra một kế hoạch quân sự quy mô lớn gồm
4 điểm :
+ Gấp rút xây dựng quân Âu - Phi, xây dựng một lực lượng chiến lược cơ động mạnh, ra
sức phát triển ngụy quân (thực hiện vàng hóa quân đội), xây dựng lực lượng “quân đội
quốc gia” bù nhìn.
+ Thiết lập tuyến phịng thủ “boongke” (cơng sự bằng bê tông cốt thép), và lập một “vành
đai trắng” bao quanh đồng bằng và trung du Bắc Bộ
+ Tiến hành “chiến tranh tổng lực” bình định vùng tạm chiếm, vơ vét sức người, sức của
của nhân dân ta để tăng cường lực lượng của chúng.
+ Phá hoại hậu phương của ta bằng lực lượng thổ phỉ, gián điệp, biệt kích, bằng chiến
tranh tâm lý, tuyên truyền cho độc lập giả hiệu, tiến hành chiến tranh kinh tế, kết hợp với
oanh tạc bằng phi pháo. Đờlát dành mọi nỗ lực vào chiến trường miền Bắc Việt Nam.


- Để thực hiện âm mưu trên, Pháp ráo riết bắt lính, xây dựng được 7 binh đồn chiến lược
cơ động, nâng tổng số quân từ 23 vạn (1950), lên 39 vạn (1951). Trong đó quân ngụy
chiếm 65%. Pháp cũng gấp rút xây dựng 1.300 lô cốt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ,
càn quét thường xuyên vào vùng tự do của ta, thực hiện chính sách 3 sạch để gây khơng
khí khiếp sợ trong nhân dân.

1.3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951)
- Trước đây, do những hoàn cảnh đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám, ngày 11-11-1945
Đảng ta tuyên bố “tự giải tán”. Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, để hạn chế sự
xuyên tạc của kẻ thù, để tăng cường khối đại đồn kết tồn dân địi hỏi Đảng phải ra hoạt
động công khai.
- Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành họp Đại hội lần thứ II tại Chiêm Hóa, Tuyên
Quang từ ngày 11-2 đến 19-2-1951. Đại hội đã thảo luận và thơng qua Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chủ Tịch trình bày, Báo cáo “Bàn về cách mạng
Việt Nam” do Trường Chinh đọc, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ mới của Đảng, bầu Ban
chấp hành Trung ương…
+ Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh đã phân tích tình hình thế giới, tổng kết các chặng
đường đấu tranh và phát triển của Đảng, phân tích âm mưu của đế quốc Mĩ, nêu rõ nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là : “Tiêu diệt thực dân Pháp và bọn can thiệp Mĩ,
giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hịa bình thế giới”.
+ Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” của Trường Chinh đã trình bày có hệ thống và
sâu sắc toàn bộ đường lối Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, về Đảng lao động Việt
Nam.
+ Đại hội cũng đề ra những chính sách cơ bản về cơng tác xây dựng và củng cố chính
quyền, tăng cường quân đội, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế...
+ Đại hội quyết định đưa Đảng ta ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng lao động
Việt Nam, hai nước Lào và Campuchia phải xây dựng ở mỗi nước một chính đảng phù
hợp với điều kiện cụ thể, và có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng mỗi nước đến thắng lợi.
+ Đại hội thơng qua Tun ngơn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng, quyết định xuất
bản báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của Đảng.
+ Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ
tịch Đảng, Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
- Tháng 3-1951, Đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Liên Việt đã thành công tốt
đẹp, hai Mặt trận thống nhất lấy tên là Mặt trận Liên Việt. Tôn Đức Thắng được bầu làm
Chủ tịch Mặt trận. Ngày 13-3-1951, Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Đông Dương
đã họp và đi đến thống nhất thành lập khối Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào. Sự

kiện này đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ ba dân tộc Đông Dương của thực
dân Pháp.
1.3.3. Những thành tích xây dựng hậu phương trong những năm 1951 - 1953
- Thành tựu về kinh tế
+ Ngày 1-5-1951, Chính phủ ra Sắc lệnh về thuế nông nghiệp (sau là thuế cơng thương
nghiệp) nhằm huy động sự đóng góp của nhân dân vào ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu
cầu ngày càng cao của kháng chiến. Sắc lệnh thuế còn có tác dụng thúc đẩy sản xuất, góp
phần ổn định đời sống nhân dân, huy động được một khối lượng cần thiết lương thực,
thực phẩm cho kháng chiến.
+ Tháng 6-1951, Chính phủ ra Sắc lệnh thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam, ban
hành giấy bạc Việt Nam để ổn định nền tài chính của ta và đấu tranh kinh tế với địch.


+ Năm 1952, Chính phủ đề ra cuộc vận động toàn dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm,
phong trào này trở thành một phong trào có tính chất quần chúng, lôi cuốn mọi ngành,
mọi giới tham gia.
+ Để bồi dưỡng sức dân, Đảng và Nhà nước tiếp tục thực hiện khẩu hiệu “Người cày có
ruộng”. Tháng 4-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra 3 Sắc lệnh về ruộng đất : Sắc lệnh giảm
tô 25%, Sắc lệnh trừng trị bọn địa chủ không tuân theo pháp luật, Sắc lệnh tạm cấp ruộng
đất của bọn việt gian chia cho dân nghèo khơng có ruộng hoặc chỉ có ít ruộng. Tháng 121953, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội đã thông qua “Luật cải cách ruộng đất” và tiến hành cải
cách ruộng đất ở vùng tự do. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1953, Chính phủ đã thực hiện
5 đợt giảm tơ và một đợt cải cách ruộng đất. Tuy mới chỉ tiến hành bước đầu, nhưng
được tiến hành vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến nên nó có tác dụng tích cực
trong việc bồi dưỡng sức dân và nâng cao tinh thần các chiến sĩ đang chiến đấu ngoài mặt
trận.
- Văn hóa - giáo dục
+ Văn hóa có bước tiến mạnh mẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng. Văn nghệ sĩ cũng
lên đường ra trận, tham gia chiến dịch, họ bám sát theo bước chân người lính, các đồn
dân cơng, các đội thanh niên xung phong. Cuộc sống chiến đấu của dân tộc và của chính
người nghệ sĩ đã làm nảy nở nhiều tác phẩm giàu tính chiến đấu.

+ Cải cách giáo dục được đề ra từ tháng 7-1950 tiếp tục thực hiện theo 3 phương châm:
giáo dục phục vụ sản xuất, dân sinh và chiến đấu, gắn nhà trường với đời sống xã hội.
Giáo dục có những bước phát triển vượt bậc, sinh viên đại học và trung học chuyên
nghiệp tăng, số người gửi đi nước ngoài học tăng mạnh nhằm mục đích chuẩn bị cho việc
xây dựng đất nước sau chiến tranh. Phong trào Bình dân học vụ, xóa mù chữ phát triển,
14 triệu người đã thốt nạn mù chữ.
+ Cuộc vận động vệ sinh phòng bệnh, chăm lo sức khỏe cho nhân dân được coi trọng.
Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng ở khắp nơi. Nhân dân
tích cực thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan, chống tệ nạn cờ bạc rượu chè.
- Ngày 1-5-1952, 154 đại biểu đã về dự Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Đại hội đã tuyên dương 7 anh hùng: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị,
Nguyễn Thị Chiên, Trần Đại Nghĩa, Ngơ Gia Khảm, Hồng Hanh...
1.3.4. Giữ vững thế chủ động tấn công địch trên chiến trường
Mặc dù những trận càn quét quy mô lớn của địch cuối năm 1950, đầu 1951 đã gây cho
ta khá nhiều khó khăn, nhưng trên cơ sở lực lượng được củng cố và tăng cường về mọi
mặt, ta liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch đánh vào phòng tuyến của địch ở đồng bằng và
trung du Bắc Bộ
- Chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du) 26 -12 -1950 đến 17-1-1951: ta dùng
bộ đội chủ lực tấn công vào hệ thống phòng ngự của địch ở Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc
Ninh.
- Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch đường số 18) từ 20-3 đến 7-4-1951
- Chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà Nam Ninh) từ 28-5 đến 20-6 -1951: ta đánh
vào hệ thống phòng ngự của địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Ba chiến dịch trên được mở liên tiếp, và là những chiến dịch tương đối lớn mà ta chủ
động đánh vào hệ thống phòng ngự của địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, ta đã tiêu
diệt hơn một vạn quân địch. Nhìn chung cả ba chiến dịch trên ta đều khơng đạt được mục
đích chiến lược.
- Chiến dịch Hịa Bình (11-1951 đến 2-1952)



+ Thực hiện chiến lược quân sự mới, tướng Đờlát đờ Tatxnhi chọn Hịa Bình làm điểm
quyết chiến với ta. Thực hiện “nhử Việt Minh vào trận đánh lớn do mình sắp xếp”.
+ Mục đích của chiến dịch Pháp đặt ra là nối lại hành lang đông – tây chia cắt căn cứ địa
Việt Bắc với Liên khu III, IV. Giành một thắng lợi quân sự để củng cố tinh thần binh lính
đang hoang mang dao động.
+ Tháng 11-1951, Pháp dùng một lực lượng lớn tấn cơng ra hướng Hịa Bình, ngày 14-11
Pháp chiếm Hịa Bình.
+ Cuộc tấn cơng quy mơ lớn của Pháp lên Hịa Bình gây cho ta nhiều khó khăn, song
cũng tạo cơ hội tốt để ta tiêu diệt chúng. Ban chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị phải
phá tan cuộc tấn công của địch lên dịch Hịa Bình.
+ Ta dùng 3 đại đồn chủ lực tiến hành bao vây, chia cắt và tiêu diệt quân cơ động của
địch, cắt đứt mọi liên lạc giữa Hịa Bình với các nơi khác, khơng cho Pháp ứng cứu cho
Hịa Bình. Một mặt khác, ta dùng 2 đại đồn chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương và
du kích đột nhập vào một loạt thị xã như Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình... diệt hàng
trăm đồn bốt địch, giải tán hàng ngàn hội tề.
Với cách đánh như vậy, địch vừa bị ta bao vây chặt tại hướng Hịa Bình, nhưng chúng
không dám liều lĩnh điều quân ứng cứu cho mặt trận chính.
+ Ngày 5-2-1952, địch thực hiện rút chạy khỏi Hịa Bình (23-2 thì rút hết), trên đường
tháo chạy, chúng cịn bị bộ đội ta đánh truy kích, tiêu diệt thêm một bộ phận nữa.
+ Chiến dịch Hịa Bình kết thúc thắng lợi, trên tất cả các mặt trận ta đã loại khỏi vòng
chiến đấu 22.000 tên địch, giải phóng hồn tồn khu vực Hịa Bình - sơng Đà. Các căn cứ
du kích của ta được mở rộng và nối với nhau thành thế liên hoàn vững chắc. Đây là trận
tập dượt cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.
- Chiến dịch Tây Bắc (từ tháng 10 đến 12-1952)
+ Tây Bắc là vùng có vị trí chiến lược quan trọng và là nơi hiểm yếu, nó có thể uy hiếp
Việt Bắc và che chở cho vùng Thượng Lào. Thực hiện kế hoạch đã đề ra, ngày 14-101952, ta tiến đánh Nghĩa Lộ, Mộc Châu, Sơn La, Yên Bái... Sau 2 tháng chiến đấu, đến
10-12 ta chủ động kết thúc chiến dịch. Ta đã tiêu diệt 13.000 tên địch, giải phóng tồn bộ
tỉnh Nghĩa Lộ, một phần tỉnh Sơn La, Lai Châu, Yên Bái với 250.000 dân, đồng thời phá
tan âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của Pháp.
- Chiến dịch Thượng Lào (ngày 17-4-1953)

+ Sau chiến thắng Tây Bắc, Việt Nam có thêm điều kiện để phối hợp chiến đấu với chính
phủ và quân đội Lào. Mùa xuân năm 1953, bộ đội Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa thét
Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Điểm tấn công là tỉnh Sầm Nưa. Sau gần 1 tháng chiến
đấu, ta đã hồn tất các mục tiêu, giải phóng hồn tồn tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh
Xiêng Khoảng và Phôngxalỳ với tổng cộng 300.000 dân.
1.4. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953-1954)
1.4.1. Âm mưu mới của Pháp - Mĩ. Kế hoạch Nava
- Ngày 7-5-1953, tướng Nava - tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương
được cử sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân đội Pháp thay Xalăng, Nava mang theo
kế hoạch chiến lược mang tên mình và hy vọng chuyển bại thành thắng trong vòng 18
tháng và kết thúc chiến tranh. Tháng 7-1953, chính phủ Pháp và hội đồng quốc phịng
Pháp đã thông qua kế hoạch.
- Về tác chiến, kế hoạch Nava chia ra làm hai bước:
+ Bước 1 (từ thu đông năm 1953 đến xuân 1954)


Pháp chủ trương giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực
của ta, thực hiện tấn công chiến lược ở miền Nam, đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân,
tập trung binh lực, xây dựng một lực lượng cơ động mạnh.
+ Bước 2 (từ mùa thu năm 1954): Chuyển toàn bộ lực lượng ra miền Bắc, thực hiện tấn
công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc chúng ta đàm phán theo
những điều kiện có lợi cho Pháp.
- Để thực hiện kế hoạch Pháp tìm mọi cách tăng viện quân, đến mùa xuân năm 1954,
tổng số quân địch là 480.000 quân. Được Mĩ viện trợ, Pháp còn trang bị nhiều vũ khí mới
như súng liên thanh, súng phun lửa, máy bay, xe tăng 18 tấn...
- Kế hoạch Nava là kế hoạch chiến lược có quy mơ rộng lớn, thể hiện tập trung sự cố
gắng lớn nhất và cuối cùng của Pháp có sự giúp đỡ to lớn của Mĩ trong cuộc chiến tranh
xâm lược Đông Dương. Dù rất nham hiểm, nhưng kế hoạch Nava là sản phẩm của thế
thua, thế bị động, nên chứa đầy mâu thuẫn.
1.4.2. Cuộc tấn công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện

Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954)
- Cuộc tấn công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954
+ Chủ trương của ta: Tháng 9-1953, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam đã họp và thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953-1954 với
quyết tâm giữ vững thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương.
+ Phương hướng chiến lược được đề ra là: “Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công
vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng bị động phân tán lực lượng
đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ. Do phải phân tán
lực lượng mà tạo ra cho chúng ta thêm những điều kiện mới để tiêu diệt thêm từng bộ
phận sinh lực của chúng”.
+ Phương châm chung là: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”; “Đánh chắc thắng”.
Thực hiện phương châm chiến lược trên, trong Đông - Xuân 1953-1954, quân ta mở
một loạt chiến dịch tiến công đối phương trên nhiều hướng, ở hầu khắp các chiến trường
trên tồn Đơng Dương, kiên quyết giữ vững thế chủ động, đồng thời buộc Nava phải
đánh theo cách của ta.
+ Ngày 20-11-1953, phát hiện bộ đội của ta di chuyển lên hướng Tây Bắc, Nava cho 6
tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ vừa để bảo vệ Điện Biên Phủ,
vừa bảo vệ Thượng Lào. Ngày 10-12-1953, một bộ phận bộ đội ta bao vây Điện Biên
Phủ, bộ phận cịn lại tiến đánh giải phóng Lai Châu. Cuộc tấn công của ta đã Nava buộc
phải tăng thêm 6 tiểu đoàn cơ động cho Điện Biên Phủ.
+ Đầu tháng 12-1953, phối hợp với bộ đội Pathét Lào, ta đánh mạnh ở Trung Lào, giải
phóng Thà Khẹt, bao vây Xavanakhét và căn cứ Sênô buộc địch phải tăng cường lực
lượng cho Sênô.
+ Ở Hạ Lào, một đơn vị nhỏ quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội Pathét
Lào men theo dãy Trường Sơn, vượt hơn 200 km đường rừng tiến xuống giải phóng thị
xã Atơpơ và tồn bộ cao nguyên Bôlôven, thừa thắng bộ đội ta tiến sát phía nam đường
số 9, Hạ Lào bị uy hiếp mạnh. Địch phá kho vũ khí tháo chạy.
+ Ngày 20-1-1954, Nava tập trung 20 tiểu đoàn mở chiến dịch Átlăng đánh chiếm Tuy
Hòa. Kiên quyết giữ vững thế chủ động đánh địch, ta chỉ để lại một bộ phận chủ lực và

du kích chống càn. Tháng 2-1954 bộ đội ta tiến đánh địch ở Bắc Tây Nguyên giải phóng


Kontum, buộc địch phải bỏ dở cuộc hành quân lên Tuy Hòa (Phú Yên) để tăng cường lực
lượng giữ Plâycu.
+ Cũng vào cuối tháng 1-1954, bộ đội chủ lực ta phối hợp với quân đội Pathét Lào tiến
đánh địch ở Thượng Lào giải phóng tỉnh Phongxalỳ, uy hiếp Lng Phabang. Nava phải
dùng cầu hàng không đưa quân đội từ đồng bằng Bắc Bộ tăng cường cho Luông Phabang
và Mường Sài.
+ Trong khi đó, phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính, chiến tranh du kích phát triển
mạnh ở vùng sau lưng địch (Bắc Bộ, Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình Trị Thiên), ngay cả
các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phịng, ta cũng đánh tập kích vào sân bay Bạch Mai, Cát
Bi. Con đường số 5 là huyết mạch giao thông quan trọng của địch liên tiếp bị phục kích,
nhiều lúc bị tê liệt, nhiều đồn tàu, đồn xe bị phá hủy. Thực dân Pháp hết sức lúng túng
bị động.
Chiến dịch Điện Biên Phủ
- Từ tháng 12-1953, Nava quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm
mạnh nhất Đông Nam Á, với một hệ thống hầm ngầm, bê tơng kiên cố, liên hồn có thể
ứng cứu cho nhau khi bị ta tấn công. Quân số của địch lúc đông nhất là 16.200 tên do
tướng Đờcatxtri chỉ huy.
+ Lực lượng của Pháp ở Điện Biên Phủ được bố trí thành một hệ thống phịng ngự mạnh
gồm 49 cứ điểm, chia làm 3 phân khu, 2 sân bay, 1 trận địa pháo... Với cách bố trí và
trang bị như vậy, Điện Biên Phủ trở thành khâu chính của của kế hoạch Nava, Pháp dọa
rằng sẽ nghiền nát bộ đội Việt Minh nếu dám “liều lĩnh” đem quân lên đánh nhau với
Pháp.
- Về phía nhân dân ta:
+ Nhận rõ âm mưu và tham vọng của Pháp tại mặt trận Điện Biên Phủ, từ đầu tháng 12
năm 1953, Trung ương Đảng, Quân ủy trung ương và Hồ Chủ Tịch quyết định chấp nhận
cuộc chiến đấu tại đây - quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ trở
thành điểm “quyết chiến chiến lược” giữa ta và Pháp.

+ Bộ chính trị quyết định thành lập bộ chỉ huy, Đảng ủy mặt trận và Hội đồng cung cấp
cho mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng phụ
trách.
+ Quyết tâm của Bộ chính trị, của Hồ Chủ Tịch đã biến thành ý chí và hành động của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng”, ta đã động viên cả một hậu phương hùng hậu đổ người đổ của và đổ cả nhiệt tình
chiến đấu cho mặt trận Điện Biên Phủ.
- Diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ: chiến dịch được bắt đầu từ ngày 13-3 và kết
thúc thắng lợi ngày 7-5, các cuộc tấn công của ta được chia làm 3 đợt:
+ Đợt 1 từ 13 đến 17-3-1954: Quân ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu
bắc (bao gồm Độc Lập, Bản Kéo), 2.000 địch bị diệt và bắt sống, 26 máy bay bị phá hủy.
Ta phá tan cánh cửa sắt của địch ở phía bắc, mọi con đường bộ đến Điện Biên Phủ bị ta
cắt đứt hoàn toàn.
+ Đợt 2 từ 30-3 đến 26-4-1954: vào lúc 18h00 ta đồng loạt tấn cơng các cứ điểm ở phía
đơng khu trung tâm Mường Thanh như các đồi E1, D1, C1, C2, A1... ta chiếm phần lớn
các cứ điểm của địch. Tại đồi A1, ta và địch giành nhau từng tấc đất, cuộc chiến đấu diễn
ra quyết liệt suốt 36 ngày đêm. Có lúc mỗi bên giữ một nửa quả đồi. Ta xiết chặt vịng
vây bằng hệ thống giao thơng hào dài hàng trăm km, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất


cịn lại bằng đường khơng của địch. Đế quốc Mĩ tăng viện gấp cho Điện Biên Phủ nhưng
đã muộn.
+ Đợt 3 từ 1-5 đến 7-5-1954: Quân ta đánh chiếm các cứ điểm cịn lại ở phía đơng, địch
tháo chạy sang Lào. Đêm 6-5, tiếng nổ của khối bộc phá nặng 1.000kg ở chân đồi A1 làm
rung chuyển cả một vùng rừng núi (khối bộc phá cũng đã phá tan quả đồi A1) cũng chính
là pháo lệnh xung phong cho tồn mặt trận. Đợt tổng cơng kích của ta vào các cứ điểm
còn lại bắt đầu. 17giờ 30 phút ngày 7-5-1954, tướng Đờcátxtơri cùng toàn bộ bộ tham
mưu của Pháp ở Điện Biên Phủ đã bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
- Thắng lợi của nhân dân ta ở Điện Biên Phủ là một trong những thắng lợi oanh liệt nhất
trong kháng chiến chống xâm lược. Thắng lợi đó góp phần quyết định vào việc buộc

Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương.
1.4.3. Hội nghị Giơnevơ và Hiệp định Giơnevơ 1954 về lập lại hịa bình ở Đơng Dương
- Bối cảnh của hội nghị Giơnevơ
+ Tháng 11-1953, Hồ Chủ Tịch nói rõ thiện chí của chính phủ Việt Nam là sẵn sàng
thương lượng với Pháp để tìm kiếm một giải pháp sớm kết thúc chiến tranh.
+ Tháng 1-1954, Hội nghị ngoại trưởng 4 nước lớn là Anh, Pháp, Liên Xô và Mĩ họp tại
Béclin đã thỏa thuận về việc triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để bàn về việc
chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và lập lại hịa bình ở Đơng Dương. Ngày 26-4-1954,
giữa lúc cuộc tấn công của ta ở Điện Biên Phủ bước vào giai đoạn gay go ác liệt nhất, thì
Hội nghị Giơnevơ khai mạc (tham dự hội nghị có 9 đồn đại biểu). Đồn đại biểu Chính
phủ ta do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đại diện cho chính quyền Bảo Đại là Nguyễn Quốc
Định).
- Diễn biến của hội nghị
Hội nghị Giơvevơ họp 8 phiên toàn thể, 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng, có hai giai
đoạn nhỏ:
Từ 26-4 đến 7-5 bàn về những vấn đề thuộc chiến tranh Triều Tiên.
Từ 8-5 đến 21-7-1954 bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Đơng
Dương.
+ Ngày 8-5-1954, Hội nghị bắt đầu thảo luận về vấn đề Đơng Dương thì tin thắng trận từ
Điện Biên Phủ bay đến hội nghị. Phái đoàn Chính phủ ta do Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng và thứ trưởng Tạ Quang Bửu dẫn đầu bước vào
hội nghị với tư thế đại diện cho một dân tộc vừa làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ làm
“chấn động địa cầu”.
+ Cuộc đấu tranh ngoại giao ở Giơnevơ diễn ra hết sức gay go quyết liệt, cuối cùng do
thất bại ở Việt Nam đã quá rõ ràng, do dư luận quốc tế phản đối chiến tranh, do thái độ
kiên quyết của phái đồn chính phủ ta ngày 21-7-1954 Hiệp định Giơnevơ được ký kết.
- Nội dung của Hiệp định
+ Chính phủ Pháp và các nước tham gia hội nghị tuyên bố cam kết tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân 3 nước Đông Dương, tuyệt đối

không can thiệp vào công việc nội bộ của nhân dân 3 nước.
+ Hai bên ngừng bắn, tập kết chuyển quân về hai vùng, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông
Bến Hải - Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời và một khu phi quân sự ở hai bên
giới tuyến.
+ Hiệp định cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngồi vào Đơng Dương,
các nước ngồi không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương, các nước Đông Dương


không được tham gia vào các liên minh quân sự, không được để cho các nước khác dùng
lãnh thổ của mình để gây chiến tranh, hoặc phục vụ những mục đích xâm lược.
+ Việt Nam sẽ thực hiện thống nhất đất nước bằng tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau
thời hạn 2 năm (7-1956), dưới sự giám sát của một Ủy ban giám sát quốc tế.
+ Trách nhiệm thi hành hiệp định thuộc về những người ký kết Hiệp định và những người
kế tục sự nghiệp của họ.
Tuy còn hạn chế và chưa phản ánh đúng thắng lợi của nhân dân ta, nhưng Hiệp định
Giơnevơ cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương (1945-1954). Pháp phải rút quân về nước,
miền Bắc nước ta được giải phóng hồn tồn và chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
1.4.4. Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mĩ (1945 - 1954)
- Ý nghĩa lịch sử
+ Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta đã bảo vệ và phát triển
thành quả của Cách mạng tháng Tám năm 1945, giải phóng hồn tồn miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
+ Giáng một đòn nặng nề vào chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của thực dân Pháp cùng âm
mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mĩ. Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách
mạng thế giới trước hết là châu Á, châu Phi và Mĩlatinh.
- Nguyên nhân thắng lợi

+ Trước tiên, đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đơng Dương
+ Sự đồn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và hệ thống chính quyền dân
chủ nhân dân trong cả nước.
+ Thắng lợi đó cịn do tồn qn, tồn dân ta đã đồn kết một lịng, quyết chiến đấu vì
độc lập tự do, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
+ Sự vững mạnh của hậu phương
+ Sự ủng hộ và giúp đỡ của cả loài người tiến bộ trên thế giới cả về vật chất và tinh thần,
trước hết nhân dân ta đã xây dựng được liên minh chiến đấu và tình đồn kết đặc biệt với
nhân dân Lào và Campuchia anh em, sau nữa là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×