MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................2
B. NỘI DUNG......................................................................................................4
I. QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM:. 4
1. Về phát triển văn hóa:..............................................................................4
2. Quan niệm về phát triển con người:.........................................................6
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY:....................................................10
1. Những thành tựu và hạn chế trong phát triển văn hóa, con người trong
thời gian qua:........................................................................................................10
a) Thành tựu:.........................................................................................10
b) Hạn chế:.............................................................................................11
c) Nguyên nhân:.....................................................................................11
2. Những yêu cầu mới đặt ra:.....................................................................12
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI:..............................................................14
1. Mục tiêu:................................................................................................14
2. Quan điểm:.............................................................................................15
IV. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM:. 15
C. KẾT LUẬN....................................................................................................19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................20
2
A. MỞ ĐẦU
Văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã
diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua bao thế kỷ, các
hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị
hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng
của mình”. Đó chính là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo, tích lũy thơng qua hoạt động thực tiễn. Mỗi quốc gia, dân
tộc, muốn phát triển bền vững và ổn định phải xây dựng văn hố, phát triển văn
hóa và con người, gắn kết tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hố, ổn định
chính trị xã hội trên tinh thần “tiếp thêm sức mạnh của nền văn hóa đương thời
và nâng nó lên ngang tầm với sự phát triển kinh tế và sự phồn vinh của xã hội”.
Hồ Chí Minh đã từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hố”. Theo quan niệm của Người, văn hóa chính là biểu hiện
của sự hiểu biết, tài năng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn, ... Của con người và
của mỗi cộng đồng dân tộc trong mối quan hệ với xã hội và tự nhiên. Đó là cách
tiếp cận khơng chỉ coi văn hóa đơn thuần là đời sống tinh thần của con người - xã
hội mà từ trong bản chất của mình: văn hóa chính là linh hồn của một xã hội, là
sức mạnh trường tồn của một dân tộc, là sức sống vươn lên của thời đại.
Coi trọng vai trị của văn hóa trong tồn bộ đời sống xã hội, Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến;
cùng phải coi trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”; “đưa nghệ
thuật vào chính trị. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể
đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị
cũng phải nằm trong văn hóa. Người chỉ ra “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa
dân tộc”, bao gồm: 1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng
luận lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: Mọi sự
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính
trị: Dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”. Đồng thời, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải
phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
3
ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Phát triển
kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”. Do
đó em chọn đề tài: “Phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới” làm bài thu hoạch cho môn Văn hóa và phát triển.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
4
B. NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM:
1. Về phát triển văn hóa:
Nhìn theo chiều dài lịch sử, văn hóa của một dân tộc, một quốc gia bao
gồm những giá trị bền vững được cộng đồng dân tộc, quốc gia đó sáng tạo, bảo
lưu, kế thừa, bổ sung và phát triển, tạo nên sức sống và bản lĩnh của dân tộc và
quốc gia có trong dựng nước và giữ nước. Phát triển văn hóa đôi khi được coi là
đối lập với bảo tồn văn hóa. Tuy vậy nhìn ở phạm vi vĩ mơ, phát triển văn hóa
khơng phải là hoạt động cản trở sự bảo tồn văn hóa. Bản thân phát triển văn hóa
có sự đào thải yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc hậu, đưa văn hóa ngày càng hồn thiện
với những giá trị văn minh mới, làm nên những thang bậc cao hơn trong q trình
phát triển. Chính vì vậy, bảo tồn và phát triển văn hóa có mối quan hệ biện
chứng, tác động lẫn nhau. Bảo tồn là cơ sở để phát triển, văn hóa phát triển phải
dựa trên kế thừa, phát huy các giá trị cổ truyền tạo nên sự tiếp nối liên tục của
truyền thống văn hóa dân tộc.
Phát triển văn hóa là một q trình có tính tất yếu khách quan trong sự vận
động của các lĩnh vực văn hóa. Q trình này dẫn tới biến đổi giá trị và hệ giá trị
văn hóa. Có thể nói, phát triển văn hóa là hoạt động của chủ thể văn hóa tác động
làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn hóa về quy mơ và chất lượng theo
hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn,
dân chủ, tiến bộ, thúc đẩy tồn bộ các lĩnh vực hoạt động văn hóa, tạo ra các điều
kiện và cơ hội cho con người tham gia vào quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền
bá, đánh giá và thưởng thức các giá trị văn hóa, tạo mơi trường văn hóa lành
mạnh làm động lực thúc đẩy quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những
hoạt động văn hóa đó, con người được phát triển nhân cách, hình thành phẩm
chất, năng lực đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Chính vì vậy, về cơ bản phát triển văn hóa chính là phát triển con người.
Phát triển con người là vấn đề trung tâm của phát triển văn hóa. Con người là sản
phẩm của văn hóa, đồng thời con người cũng là chủ thể sáng tạo ra văn hóa.
“Xây dựng con người, phát triển văn hóa là nhân tố nội sinh quyết định sự phát
triển bền vững của đất nước.
Khi nói đến phát triển nền văn hóa Việt Nam có nghĩa là nói đến phát triển
toàn diện và đồng bộ các yếu tố cấu thành nền văn hóa dân tộc bao gồm nhiều
lĩnh vực khác nhau, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần, từ văn hóa cá nhân
đến văn hóa gia đình và cộng đồng, từ văn hóa chính trị đến văn hóa giáo dục,
văn hóa nghệ thuật, văn hóa khoa học tới văn hóa tâm linh, phong tục, tập quán...
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
5
Trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), Đảng ta đã xác định trọng tâm
để lãnh đạo văn hóa bao gồm ba lĩnh vực tư tưởng, học thuật, nghệ thuật. Đây là
ba lĩnh vực rất cơ bản của đời sống văn hóa cần tập trung lãnh đạo để đảm bảo sự
thống nhất về tư tưởng cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã
hội. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn
vấn đề chủ yếu của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề
cần chú ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”.
Như vậy, khái niệm văn hóa được xác định là các lĩnh vực thuộc đời sống
tinh thần của xã hội. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa phải là chiến sĩ
trên mặt trận tư tưởng văn hóa, tích cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng phát
triển văn hóa, con người Việt Nam.
Bước vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) của Đảng đã ban hành Nghị quyết
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” và xác định các lĩnh vực cơ bản của nền văn hóa cần tập trung xây dựng và
phát tiền là: Vấn đề xây dựng con người, trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo
đức, lối sống; Lĩnh vực xây dựng môi trường văn hóa; Lĩnh vực giáo dục - đào
tạo; Lĩnh vực khoa học - công nghệ; Lĩnh vực văn học nghệ thuật; Lĩnh vực
thông tin đại chúng; Lĩnh vực văn hóa các dân tộc thiểu số; Lĩnh vực văn hóa
trong tơn giáo; Lĩnh vực giao lưu văn hóa quốc tế; Lĩnh vực xây dựng thể chế
văn hóa.
Trong các lĩnh vực này thì lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất cần đặc biệt quan tâm.
Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (19982017), Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết “về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”. Bên cạnh việc kế thừa những lĩnh vực mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII đã nêu, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã bổ sung những lĩnh vực mới
mà Đảng cần quan tâm chỉ đạo. Đó là xây dựng văn hóa trong chính trị và văn
hóa trong kinh tế; phát triển cơng nghiệp văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện
thị trường văn hóa.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
6
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong
đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn, dựa trên hệ tư
tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu
khơng ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhật với
trình độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của
dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Đó là nền văn hóa vừa đảm bảo được
thống nhất của quốc gia - dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vừa tôn trọng và phát
huy sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam, cùng hỗ
trợ, giúp đỡ nhau phát triển. Đó là nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc các giá trị
nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã
hội, trở thành nền tảng tinh thần, “sức mạnh nội sinh” quan trọng của phát triển
đất nước.
Định hướng về xây dựng và phát triển văn hóa được khẳng định trong
Cương lĩnh 2011 là cơ sở tư tưởng để Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa thành các chủ
trương, chính sách quan trọng nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước.
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển toàn diện con
người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu,
chống quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được
chú trọng”.
2. Quan niệm về phát triển con người:
Quan điểm mácxít khẳng định con người vừa là một thực thể sinh học tự
nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì con người là
thực thể tự nhiên có tính người. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động
vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly
khỏi những đặc tính vốn có của con vật” và “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của
con người”.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
7
Theo những nghiên cứu của khoa cổ nhân loại học thì con người thuộc bộ
linh trưởng trong lồi có vú, xuất hiện cách đây khoảng 70 triệu năm, với một số
đặc điểm rất riêng: Có hai cánh tay dài và bàn tay rất linh động; Có khối óc lớn
để điều khiển đơi cánh tay và bàn tay ấy; Mắt có khả năng phân biệt được màu
sắc; Có khả năng phát ra âm thanh phong phú; Có tính tị mị; Có xu hướng thiết
lập đẳng cấp (tôn ti) trong bầy đàn.
Ph.Ăngghen đã phân tích: “Trước hết là lao động; sau lao động và đồng
thời với lao động là ngơn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến
bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con
người”. Tức là bộ óc của một động vật tinh thần, có ý thức. “Bàn tay khơng
những là khí quan của lao động, mà còn là sản phẩm của lao động nữa...
Con người là sản phẩm của lao động, là kết quả tiến hóa lâu dài của tự
nhiên, đồng thời con người là động vật xã hội, có tinh thần, có ý thức. Con người
chính là chủ thể của lịch sử - xã hội
Tựu trung lại, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định con người vừa là thực thể
tự nhiên, lại vừa là thực thể xã hội. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể
của lịch sử, mang tính dân tộc, tính lịch sử, tính giai cấp và tính nhân loại. Con
người là đại biểu cho những quan hệ và những lợi ích giai cấp nhất định. Sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
người. Con người sẽ làm ra lịch sử của chính mình. Phát triển con người trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa rất độc đáo về con
người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng
là đồng bào cả nước, Rộng nữa là cả loài người”. Với cách hiểu này, con người là
con người xã hội, là một thành viên ln gắn bó mật thiết với cộng đồng xã hội,
trước hết là nhà - làng - nước, sau đó là nhân loại. Điều này hồn tồn thống nhất
với C.Mác và Ph.Ăngghen về con người.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Những con người này chính là chủ thể xây dựng chế độ xã hội mới, nền
văn hóa mới. Việc xây dựng con người phải được ưu tiên hàng đầu trong suốt quá
trình xây dựng đất nước chứ không phải chờ tới khi nào nền kinh tế và văn hóa
phát triển cao rồi mới xây dựng. Tiêu chuẩn của những con người mới này được
Hồ Chí Minh nêu lên nhiều lần và có thể khái quát ở một số điểm chủ yếu sau:
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
8
- Con người có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: Có ý thức làm chủ; có tinh thần
tập thể xã hội chủ nghĩa; có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”;
có tinh thần dám nghĩ, dám làm, vươn lên vì sự nghiệp của đất nước.
- Con người có đạo đức và lối sống lành mạnh: Trung với nước, hiếu với
dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư; có tinh thần
quốc tế trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sạch.
- Con người có tác phong khoa học: Lao động có kế hoạch, có biện pháp,
có quyết tâm; lao động có tổ chức, kỷ luật, kỹ thuật, năng suất, chất lượng, hiệu
quả.
- Con người có năng lực làm chủ bản thân, gia đình và cơng việc mà mình
đảm nhiệm, tham gia tích cực vào làm chủ nhà nước và xã hội...
Ngoài những tiêu chuẩn chung của con người nêu trên, Hồ Chí Minh còn
nêu lên những tiêu chuẩn cụ thể đối với từng giới, từng ngành. Người thường
nhấn mạnh những yêu cầu cụ thể của mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi nghề, mỗi
giới và tầng lớp xã hội khác nhau liên quan đến thái độ, trách nhiệm, nghĩa vụ đối
với người, đối với cơng việc, đối với chính mình. Đó là những chuẩn mực rất sát
hợp, thiết thực để xây dựng con người phù hợp với đời sống văn hóa, tâm lý dân
tộc.
Đối với việc xây dựng con người, Hồ Chí Minh căn dặn: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Tư tưởng này
của Người luôn định hướng cho việc xây dựng con người Việt Nam trong suốt
quá trình đấu tranh cách mạng trước đây và sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Gần đây, các học giả trên thế giới đã tập trung nghiên cứu về khái niệm
phát triển con người trong bối cảnh tồn cầu hóa. Cùng với việc đề xuất lý thuyết
về phát triển bền vững, lý thuyết về phát triển con người đã có nhiều đóng góp
mới vào nâng cao nhận thức của các quốc gia trong quá trình phát triển. Quan
điểm khá phổ biến hiện nay xác nhận rằng, của cải đích thực của các quốc gia là
con người của quốc gia đó và mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường
thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khỏe mạnh cả về
thể chất và tinh thần, sáng tạo, hữu ích, phù hợp với năng lực và nhu cầu của họ.
Nếu lý thuyết phát triển bền vững nhấn mạnh đến việc đảm bảo bình đẳng trong
phát triển của các thế hệ thì lý thuyết phát triển con người hướng vào đảm bảo
bình đẳng trong phát triển của mỗi thế hệ. Bình đẳng ở đây bao hàm bình đẳng về
cơ hội phát triển và bình đẳng trong chia sẻ thành quả phát triển. Hai nội dung
quan trọng nhất của khái niệm phát triển con người là mở rộng quyền tự do lựa
chọn và nâng cao năng lực lựa chọn của con người.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
9
Khái niệm phát triển bền vững con người lần đầu tiên được sử dụng trong
Báo cáo phát triển con người năm 1994 của UNDP với hàm ý là sự phát triển
bình đẳng trong cơ hội tiếp cận và nâng cao năng lực, mở rộng quyền lựa chọn và
đảm bảo công bằng trong chia sẻ phúc lợi do tăng trưởng kinh tế mang lại cho
mọi người trong hiện tại và giữa các thế hệ, không phân biệt tôn giáo, dân tộc,
sắc tộc (UNDP, 1994).
Báo cáo của UNDP năm 1997 đã xác định mối quan hệ giữa phát triển bền
vững con người và vai trò quản trị của nhà nước. Báo cáo này chỉ ra 5 yếu tố phát
triển con người bền vững là: trao quyền, sự hợp tác, công bằng, bền vững, an
ninh. Năm yếu tố này vừa là thước đo mức độ phát triển bền vững của con người
tại mỗi thời điểm, vừa là hệ tiêu chí đánh giá động thái của quá trình phát triển
bền vững con người.
Nhìn tổng quát, khái niệm phát triển bền vững con người được thể hiện ở 5
nội dung cơ bản sau:
(1) Bình đẳng cơ hội tiếp cận để phát triển năng lực.
(2) Công bằng trong chia sẻ thành quả phát triển.
(3) Con người được trao quyền tự do tham dự theo năng lực vào tiến trình
phát triển.
(4) Sự phát triển hiện tại khơng làm mất cơ hội của thế hệ tương lai.
(5) Đảm bảo an ninh con người”.
Năm nội dung này có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ nhau để tạo nên sự
phát triển bền vững của con người.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã xác định: “Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trị của xã hội,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư
trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm cơng dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn
hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá
trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình
Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
10
bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự
hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm
ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội
và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền
thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các
hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới,
gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ CON
NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Những thành tựu và hạn chế trong phát triển văn hóa, con người trong
thời gian qua:
a) Thành tựu:
Trong hơn 35 năm đổi mới, đặc biệt là từ sau 15 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hóa, con người Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan
trọng góp phần vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tại Hội nghị Trung ương 4
khóa XI (2014), Đảng ta đã đánh giá: Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy
lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các
ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng
phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều
chuẩn mực giá trị văn hóa mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ
thuật ngày càng phong phú, đa dạng. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt
được những kết quả cụ thể, thiết thực... Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể được bảo tồn, tôn tạo. Nhiều phong tục, tập quản của đồng bào dân tộc thiểu
số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng. Các hoạt động tín ngưỡng tơn giáo
và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được chú trọng. Cơng tác quản lý nhà
nước về văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hồn thiện.
Đội ngũ làm cơng tác văn hóa, văn nghệ có bước trưởng thành; quyền tự do sáng
tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng. Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa có
nhiều bước khởi sắc.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
11
b) Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu trên, việc xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam trong thời gian qua cũng bộc lộ những khuyết điểm và thiếu sót
sau:
- So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phịng, an
ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ sức
để tác động có hiệu quả đến xây dựng con người và mơi trường văn hóa lành
mạnh.
- Tình trạng suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng
và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi
cịn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa trong các tầng lớp
nhân dân, giữa các vùng chậm được rút ngắn.
- Mơi trường văn hóa cịn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái
với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và tội phạm có chiều hướng gia tăng. Các
hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, bảo tồn và phát huy di sản thông tin đại
chúng cịn nhiều bất cập.
- Cơ chế, chính sách về văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa, việc
huy động các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn
hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa cịn thiếu và yếu, có nơi
xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất
là nguồn lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá,
tiếp thu văn hóa phẩm nước ngồi cịn dễ dãi, thiếu chọn lọc.
c) Ngun nhân:
Có thể nhận thấy, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém như sau:
Thứ nhất, nhiều cấp ủy, chính quyền các cấp ở các địa phương chưa nhận
thức đầy đủ và quan tâm đúng mức về lĩnh xây dựng phát triển văn hóa, con
người. Q trình thể chế hóa nghị quyết của Đảng về văn hóa cịn chậm, thiếu
đồng bộ, một số trường hợp không khả thi.
Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về phát triển văn hóa, con người chậm
được đổi mới, chưa thích ứng với yêu cầu phát triển văn hóa trong cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, hoạt động đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, cịn dàn
trải, hiệu quả chưa cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
12
trên lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa được quan
tâm thích đáng.
2. Những yêu cầu mới đặt ra:
Phát triển văn hóa và con người Việt Nam là một bộ phận cơ bản trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay. Vai trị của văn hóa và con người ngày càng được Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta nhận thức đầy đủ và tồn diện hơn. Đảng ta đã khẳng định: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
bền vững đất nước. Trong quá trình phát triển đất nước, nhiệm vụ xây dựng kinh
tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội. Phát triển đồng bộ và toàn diện ba lĩnh vực này là điều kiện để đảm bảo sự
phát triển bền vững của đất nước. Trong q trình đó, con người là chủ thể của
sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Con người phải được đặt
vào vị trí trung tâm của q trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong quá trình phát triển con người phải đặc biệt quan tâm đến giáo dục đào tạo, phải coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Phát triển con người
phải gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo động lực để phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh: Tăng trưởng kinh tế phải đi đơi
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên.
Sự phát triển bền vững đất nước ở Việt Nam hiện nay chính là mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Sự phát triển văn hóa, con
người Việt Nam phải hướng tới thực hiện mục tiêu chung này để đất nước phát
triển bền vững. Ngày nay, phát triển văn hóa và con người Việt Nam cần phải
thích ứng với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Qua thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi tình trạng của
nước nghèo để bước vào giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu to lớn, xuất hiện những vấn đề phức tạp, thách thức quá trình phát triển
bền vùng đất nước.
Thứ nhất, quá trình chuyển đổi mơ hình tăng trưởng địi hỏi việc xây dựng
văn hóa, phát triển con người phải chuyển theo hướng tập trung vào chất lượng,
hiệu quả, gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây
dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam cần phải tích cực, chủ động
học tập kinh nghiệm quốc tế để nâng cao nội lực của dân tộc, đồng thời phải kiên
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
13
quyết đấu tranh chống lại sự xâm nhập của các yếu tố phản văn hóa, phản giá trị
làm xói mịn giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc.
Thứ ba, trước những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường,
của tồn cầu hóa, của những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt
là mạng xã hội, việc phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải tham gia tích
cực vào cuộc đấu tranh chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, củng cố niềm tin vào các giá trị văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ văn hóa dân tộc, tạo lập mơi trường văn hóa lành
mạnh trong xã hội.
Bước sang thập kỷ thứ ba của thế kỷ XXI, sự nghiệp phát triển văn hóa và
con người Việt Nam cần phải đáp từng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa trong tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh hiện nay, Đảng ta
đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải gắn bó
chặt chẽ với nhau, có tác động biện chứng với nhau để đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước. Một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội
XII mà Đảng ta đề ra là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an tồn xã hội...”.
Con người sẽ là nhân tố quyết định nhất việc sử dụng các nguồn lực khác
để phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI đã xác định những phẩm chất cần có của con người trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội XI,
XII của Đảng tiếp tục khẳng định những phẩm chất cơ bản của con người cần xây
dựng. Đây là những định hướng quan trọng để chúng ta xây dựng và phát triển
con người hiện nay.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
cũng đang đặt ra yêu cầu phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc phù hợp với tình hình mới, địi hỏi phải có một mơi trường văn
hóa dân chủ, hiện đại, nhân văn lành mạnh tạo điều kiện để phát triển kinh tế, xã
hội, ổn định chính trị. Theo đó, nền văn hóa mới và con người Việt Nam mới phải
vừa kế thừa và phát huy giá trị tích cực, tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, khẳng định được bản sắc và bản lĩnh của dân tộc
trong giao lưu về hợp tác quốc tế.
Như vậy, sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam đang diễn ra
trong bối cảnh quốc tế đan xen cả thời cơ và thách thức đối với vấn đề xây dựng
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
14
và bảo vệ Tổ quốc. Cần phải phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của
dân tộc, nâng cao tinh thần đoàn kết, độc lập tự chủ, tự cường của dân tộc, xây
dựng và phát triển văn hóa, phát triển con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược và phá
hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ an ninh quốc gia, tích cực tham gia giữ vững
mơi trường hịa bình khu vực và thế giới để xây dựng đất nước, hướng tới sự phát
triển bền vững.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI:
1. Mục tiêu:
Mục tiêu của sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới được Đảng ta xác định là xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện để xứng đáng với vai trò vừa là trung tâm của phát triển, vừa là chủ thể của
phát triển, đáp ứng yêu cầu sự phát triển bền vững đất nước.
Văn kiện Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng đều chỉ rõ: “Con người là
trung tâm của phát triển, vừa là chủ thể của phát triển”. Vì vậy, con người phải
được đặt vào vị trí trung tâm của q trình phát triển. Mọi hoạt động chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa phải hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người, đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.
Những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cụ thể như sau:
- Có tinh thân yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu,
đồn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ
và cải thiện mơi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực”.
Nguyễn Xn Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
15
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nhấn mạnh
mục tiêu của việc xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam là phải
hướng đến đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Mục tiêu chung là xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Trong mục tiêu chung này, Đảng ta đã cụ thể hóa định hướng phát triển
văn hóa và con người trong Cương lĩnh 2011, gắn chặt yêu cầu phát triển văn hóa
và con người với nhiệm vụ phát triển bền vững đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu của sự nghiệp đổi
mới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Quan điểm:
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã kế thừa 5 quan điểm mà Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII đã nêu và bổ sung, phát triển thành 5 quan điểm chỉ đạo
mới như sau:
Một là, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội.
Hai là, Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Ba là, Phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là
chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ
bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đồn kết, cần cù, sáng tạo.
Bốn là, Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị
của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy
đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Năm là, Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai
trò quan trọng.
IV. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM:
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, phát triển văn hóa, con người
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, cần phải chú trọng thực
hiện các giải pháp sau đây:
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
16
Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
phát huy mạnh mẽ vai trò của tổ chức đảng, cấp ủy và người đứng đầu đối với
vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Lãnh đạo xây dựng, phát triển văn hóa, con người phải trở thành cơng tác
thường xun của các tổ chức đảng từ Trung ương tới cơ sở. Phải đặc biệt coi
trọng xây dựng văn hóa trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính
trị - xã hội làm tấm gương cho xã hội noi theo.
Đường lối, chủ trương phát triển văn hóa của Đảng phải được cụ thể hóa
và thể chế hóa bằng pháp luật và chính sách phát triển. Đồng thời, Đảng phải
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa có trình độ cao,
chun nghiệp, hiện đại, giàu tinh thần trách nhiệm.
Đối với công tác quản lý, Nhà nước cần tập trung đổi mới bộ máy và thể
chế quản lý văn hóa gắn với cải cách hành chính cho phù hợp với xu hướng vận
động, phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết là trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong tình hình mới.
Tăng cường hơn nữa các hoạt động tư tưởng văn hóa, nâng cao nhận thức
của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của việc xây dựng con người và
phát triển văn hóa. Đây là một quá trình lâu dài, cần được tiến hành thường
xuyên, liên tục.
Cần đấu tranh kiên quyết với những tư tưởng coi nhẹ nhân tố con người và
văn hóa trong q trình phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm phát triển kinh tế
phải gắn với phát triển văn hóa, chăm lo xây dựng con người, đảm bảo tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển cần phải
được quán triệt sâu sắc trong hoạt động thực tiễn.
Khắc phục tình trạng chạy theo sức ép tăng trưởng kinh tế, làm suy thối
mơi trường văn hóa, tha hóa nhân cách con người. Phải đặt văn hóa và con người
Việt Nam vào vị trí trung tâm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển.
Thứ ba, đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, phát
triển và quản lý tốt hệ thống truyền thông đại chúng, phát triển văn hóa nghệ
thuật, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một yêu cầu khách quan
và cấp bách của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
17
quốc ở nước ta hiện nay. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo bao
gồm: đổi mới tư duy; đổi mới mục tiêu đào tạo; hệ thống tổ chức; loại hình giáo
dục và đào tạo; nội dung và phương pháp dạy và học; cơ chế quản lý, cơ sở vật
chất, nguồn lực, điều kiện đảm bảo... trong toàn bộ hệ thống giáo dục (từ giáo
dục mầm non đến giáo dục phổ thông, đại học, dạy nghề...).
Đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng con người,
nâng cao phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa, xây dựng giá trị và nhân cách con người Việt Nam, tạo lập mơi trường
văn hóa tinh thần lành mạnh, khuyến khích các tài năng văn hóa nghệ thuật, các
nhà văn hóa, các nghệ nhân sáng tạo văn hóa mới.
Thứ năm, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thối về tư tưởng, đạo đức,
lối sống, khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực xây dựng, phát triển
văn hóa, con người hiện nay.
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động văn hóa đối ngoại và giao lưu văn hóa, tiếp
biến tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt
Nam trên những tầm cao mới.
Gần đây, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI và trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta
tiếp tục nêu ra các giải pháp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình
hình mới như sau:
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn
hóa;
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa;
- Tăng cường các nguồn lực cho văn hóa.
Đây là các giải pháp cấp thiết cần được tiến hành đồng bộ trong q trình
thực hiện xây dựng, phát triển văn hóa, con người ở nước ta trong tình hình hiện
nay. Tuy nhiên, cần phải căn cứ vào điều kiện, đặc điểm và hoàn cảnh thực tiễn
của từng ngành, từng địa phương để vận dụng sáng tạo các giải pháp này, tạo nên
sự phát triển thống nhất và đa dạng về văn hóa, con người Việt Nam trong xã hội
hiện đại.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
18
C. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng và phát triển văn hóa phải góp phần
làm cho mỗi người không chỉ nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm
của mình mà cịn phải thực thi trách nhiệm đó một cách tốt nhất trong mọi lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội. Việc chú trọng phát triển văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ với chính trị và kinh tế; phải “thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa
trong kinh tế”; coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước
mà một trong những nội dung quan trọng chính là đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cụ thể, văn hóa, đạo đức và lối
sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, nhà nước,
đồn thể, trong cán bộ, cơng chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội
viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương,
cơ quan, đơn vị; đồng thời, phải làm cho văn hóa góp phần “ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, công chức, đảng viên”, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Làm được và làm tốt những nhiệm vụ này là thiết thực làm cho đất nước
phát triển toàn diện, đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường;
để sự tăng trưởng về kinh tế đi đơi với phát triển văn hố - giáo dục, phát triển
toàn diện con người Việt Nam, bảo đảm ổn định chính trị và giữ vững an ninh quốc phịng của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13
19
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị: Văn hóa và phát triển, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1998.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2014.
4. Bộ Chính trị: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 về tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia sự thật, H.2021.
Nguyễn Xuân Chiến
Lớp CCLLCT K71-C13