TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 1954-1975. Ý nghĩa đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay
Hà Nội, tháng 10 năm 2021
1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................2
B. NỘI DUNG...................................................................................................5
I. Phần lý luận..............................................................................................5
1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau 1954......................................................5
2. Miền Bắc thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến
tranh (1954-1975)..............................................................................................6
3. Miền Bắc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa
(1958-1960).......................................................................................................7
4. Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc (1961-1965). .8
5. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
hai của Mỹ, tăng cường chi viện cho miền Nam (1965-1968).........................10
II. Phần liên hệ thực tiễn...........................................................................13
1. Ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn.....13
2. Trách nhiệm của bản thân đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc......................15
C. KẾT LUẬN................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................16
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trải qua quãng thời gian dài hơn 20 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, sự
lớn mạnh của hậu phương miền Bắc là nguồn cổ vũ to lớn cho nhân dân miền
Nam chiến đấu giành lại độc lập tự do, thống nhất đất nước. Miến Bắc đã
2
đóng vai trị quyết định cho thắng lợi của Tổ quốc. Những thành tựu, thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc giai đoạn 1954-1975 đã
khẳng định sự lãnh đạo, đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Dưới sự dẫn dắt, chỉ huy tài tình của Đảng, nhân dân ta đã hoàn
toàn đập tan âm mưu xâm lược của Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam,
thống nhất tồn vẹn lãnh thổ đất nước. Những thành tựu xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và đặt nền móng để từ
đó, tồn qn, tồn dân bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng lại nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi thế, tôi đã lựa chọn:” Cách mạng xã hội chủ
nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 1954-1975.
Ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ cách mạng xã hội chủ nghĩa và
những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975.
Từ đó giúp người đọc nhận thức được ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu khái quát tình hình cách mạng
Việt Nam sau năm 1954 và những chính sách, chủ trương xây dựng chủ nghĩa
xã hội, khôi phục và phát triển nền kinh tế, chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ và ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu tình hình cách mạng Việt Nam sau năm
1954 và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng trong việc xây dựng, bảo vệ đất nước
và khôi phục lại nền kinh tế trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Tiểu luận nghiên cứu dựa vào những quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
3
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp tài liệu, thống nhất logic và
lịch sử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận nghiên cứu tổng quát về cách mạng xã hội chủ
nghĩa và những thành tựu chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn 1965-1975
để từ đó xác định rõ ý nghĩa với công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Ý nghĩa thực tiễn: Tiểu luận cung cấp những cơ sở khoa học đáng tin cậy để
nhận định đúng những giá trị của cương lĩnh, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời giúp sinh viên và giới trẻ hiện nay nhận thức ý nghĩa
quan trọng của nó và trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển và bảo vệ
đất nước.
4
B. NỘI DUNG
I. Phần lý luận
1. Tình hình cách mạng Việt Nam sau 1954
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đứng trước
tình hình mới. Đất nước tạm thời chia cắt hai miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau. Ở miền Bắc, sau khi hội quân, ngăn chặn các âm mưu phá
hoại của đế quốc Mỹ và tay sai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân lao
động đã khẩn trương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước
đầu phát triển văn hóa, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam, Mỹ lợi dụng sự thất bại của Pháp, nhảy
vào Miền Nam, đưa tập đồn phản động Ngơ Đình Diệm lên nắm chính
quyền, hất cẳng Pháp và tập trung tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam
với ý đồ chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của Mỹ. Do thế, đồng bào miền Nam phải tiếp tục tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Trước bước ngoặt quan trọng của cách mạng, Đảng ta kịp thời đề ra đường lối
chiến lược phù hợp để lãnh đạo nhân dân cả nước tiến lên giành thắng lợi
mới. Sau khi vạch rõ mâu thuẫn chung của cả nước và những mâu thuẫn cụ
thể của từng miền, Đại hội lần thứ III của Đảng đã xác định nhiệm vụ chung
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: tăng cường đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hồ bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Tuy thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau, nhưng hai mối quan hệ tác
động thường xuyên lẫn nhau. Cả hai đều thực hiện mục tiêu chung là tiến tới
sự hịa bình thống nhất đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Miền Bắc đóng
5
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước. Miền Nam
đóng vai trị quyết định trong việc đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, góp
phần bảo vệ miền Bắc tiến tới hịa bình thống nhất đất nước. Nhận thức đúng
đặc điểm đó, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đường
lối: “Kết hợp, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đi
đầu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta đưa tới thắng lợi vẻ vang”.
2. Miền Bắc thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương
chiến tranh (1954-1975)
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt
trong thời kỳ tới là ổn định trật tự xã hội, bình ổn giá cả, bình ổn thị trường.
Tập trung chủ yếu ở cả thành phố và nông thôn là phục hồi và tăng gia sản
xuất, khôi phục nền kinh tế quốc dân mà trọng điểm là phục hồi sản xuất nông
nghiệp. Việc khôi phục giao thơng vận tải có tính chất mở đường đồng thời
chú trọng khôi phục và nâng cao sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, nhất
là những công xưởng công nghiệp nhẹ sản xuất những mặt hàng phục vụ đời
sống nhân dân.
Mục tiêu của khôi phục kinh tế là mức sản xuất năm 1939 - mức cao nhất ở
Đông Dương trước chiến tranh. Tới cuối năm 1957, kế hoạch khôi phục kinh
tế cơ bản được hoàn thành và nhiều chỉ tiêu hồn thành vượt mức. Về nơng
nghiệp, hầu hết các cơng trình thuỷ lợi đã được khơi phục, các hệ thống sơng
Giang, sơng Cầu, sơng Chu và nhiều cơng trình thuỷ lợi khác bắt đầu được
sửa chữa. Nhân dân khắp nơi đào mương, đắp đê, khai hoang phục hố ruộng
đất. Nông dân thi đua sản xuất vào tổ đổi công, thành lập hợp tác xã để đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Nạn đói của chế độ cũ đã bước
đầu đã được giải quyết. Về công nghiệp, Miền Bắc đã khơi phục được 29 xí
nghiệp cũ, xây dựng được 55 xí nghiệp mới, chủ yếu là sản xuất hàng tiêu
dùng như nhà máy Diêm Thống Nhất, Thuốc lá Thăng Long... Những nhà
6
máy, xí nghiệp quan trọng như mỏ than, nhà máy xi măng, nhà máy dệt... đều
được khôi phục và phát triển. Cuối năm 1957, miền Bắc đã có 97 nhà máy, xí
nghiệp do nhà nước quản lý. Trong lĩnh vực giao thông vận tải Miền Bắc đã
khôi phục được gần 700 km đường sắt, đặc biệt nhất là tuyến đường sắt Hà
Nội - Lạng Sơn, sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ơ tơ, xây dựng và
mở rộng nhiều bến cảng như Hải Phòng, Cẩm Phả,… Đường hàng không dân
dụng quốc tế cũng được khai thông. Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế, cũng
đã phát triển nhanh chóng. Nền giáo dục được phát triển theo hướng xã hội
chủ nghĩa, Giáo dục phổ thông và đại học được chú ý phát triển. Số học sinh
trung học chuyên nghiệp và đại học tăng lên.
Trải qua thời gian 3 năm, nhân dân miền Bắc đã đạt được những thành tích
lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bước
đầu phát triển văn hóa. Những thắng lợi lớn này đã góp phần tích cực vào việc
thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội miền Bắc thời kỳ đó. Tạo tiền đề cho việc
thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa.
3. Miền Bắc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa
(1958-1960).
Tháng 11/ 1958, Hội nghị lần thứ XIV Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định khích lệ tồn Đảng, tồn qn và tồn dân miền Bắc thực hiện kế
hoạch khơi phục và phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế
tư bản tư doanh. Đồng thời là ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh
trở thành đầu tàu, lãnh đạo nền kinh tế quốc dân.
Trong cải tạo nông nghiệp, cuối năm 1958, số lượng hợp tác tăng lên 4.721 và
tháng 11/1960 lên tới 41.401 hợp tác xã với 76% diện tích đất canh tác. Đây
là thắng lợi quan trọng đối với nông thôn và nông dân miền Bắc. Nó tạo điều
kiện để phát triển sản xuất nơng nghiệp, đảm bảo lương thực, thực phẩm cho
miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Trong cải tạo công, thương nghiệp tư
7
bản tư doanh, nhà nước chủ trương mua lại, chuộc lại tư liệu sản xuất của tư
sản và trả dần tiền chuộc cho họ. Tất cả các cơ sở công thương sau khi được
tổ chức thành các xí nghiệp cơng thương hợp doanh, hợp tác…, xóa bỏ sự bóc
lột của tư bản, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển trong thời chiến. Trong
cải tạo thủ công nghiệp và những người bn bán nhỏ: tồn miền Bắc đã
chuyển đổi 81% thợ thủ cơng sang các hình thức hợp tác xã, 60% số người
buôn bán nhỏ được chuyển đổi tham gia vào các tổ hợp mua bán hoặc các hợp
tác xã mua bán. Về công nghiệp, tổng số ngân sách đầu tư cho công nghiệp
giai đoạn 1958 – 1960 tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1955 – 1957. Giá trị
sản phẩm công nghiệp miền Bắc chiếm 41% tổng giá trị kinh tế quốc dân;
trong đó cơng nghiệp quốc doanh chiếm 90,8% sản lượng công nghiệp. Về
nông nghiệp, năm 1957-1960, miền Bắc tăng từ 16 lên 59 nông trường quốc
doanh. Vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn này tăng gấp đôi so với giai
đoạn 1955 - 1957. Trong xây dựng cơ bản, nhiều cơng trình quan trọng đã
được xây dựng như: nhà máy sứ Hải Dương, thuốc lá ở Hà Nội, các cơng
trình thủy lợi. Về văn hóa, giáo dục, y tế, đến năm 1960, số học sinh phổ
thông tăng gấp 2 lần, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4 lần, đại học
tăng 4 lần với 9 trường đại học và 11.000 sinh viên. Số bệnh viện, bệnh xá,
trạm xá, cơ sở hộ sinh tăng gấp 11 lần, số giường bệnh tăng gấp đôi so với
trước. Đồng thời với nhiệm vụ khơi phục, phát triển văn hóa, Đảng và Nhà
nước còn quan tâm đến việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng để biến
miền Bắc trở thành một hậu phương lớn, vững chắc cho cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam.
4. Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc (19611965)
Kế hoạch 3 năm (1958-1960) đã giúp Việt Nam có những cơ sở công nghiệp
quan trọng đầu tiên. Tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế tăng song vẫn
nhỏ hơn tỷ trọng của khu vực nông nghiệp. Phong trào hợp tác hóa trong nơng
8
nghiệp và thủ công nghiệp được triển khai rầm rộ. Những thành tựu và tồn tại
của kế hoạch 3 năm đã thôi thúc Đảng này triển khai một kế hoạch với những
tham vọng lớn hơn. Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch nhà nước 5 năm 19611965 là "phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hồn
thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Miền Bắc đã xác định những nhiệm vụ cụ thể
về mọi mặt và đạt nhiều thành tựu đáng kể. Công nghiệp được nhà nước ưu
tiên đầu tư vốn để phát triển. Trong cơng nghiệp nặng, có khu gang thép Thái
Ngun, các nhà máy nhiệt điện ng Bí, thủy điện Thác Bà,… trong cơng
nghiệp nhẹ, có các khu cơng nghiệp Việt Trì, Thượng Đình (Hà Nội), các nhà
máy Vạn Điểm, sứ Hải Dương,... Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng
93,1% trong tổng giá trị sản lượng cơng nghiệp tồn miền Bắc, giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Ở địa phương, có hàng trăm xí nghiệp được
xây dựng để hỗ trợ cho công ghiệp trung ương và giải quyết nhu cầu tại chỗ.
Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước Xã hội chủ nghĩa và Trung Quốc nên
đạt nhiều thành tựu.
Nông nghiệp được coi là cơ sở của công nghiệp. Nhà nước ưu tiên xây dựng
và phát triển các nơng trường, lâm trường quốc doanh, trại thí nghiệm cây
trồng và vật nuôi... Người nông dân mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học - kĩ
thuật. Diện tích nước tưới được mở rộng nhờ phát triển hệ thống thủy nông
vừa và nhỏ. Nhiều hợp tác xã đạt năng xuất 5 tấn thóc trên 1 ha. Trên 90% hộ
nơng dân và hợp tác xã, trong đó có 50% hộ vào hợp tác xã bậc cao. Hệ thống
thủy nông phát triển, xây dựng hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. Nhiều Hợp
tác xã nông nghiệp đạt và vượt năng suất 5 tấn thóc trên 11 hécta.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước ưu tiên phát triển nên đã chiếm
lĩnh được thị trường, góp phần vào phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản
9
xuất, ổn định đời sống nhân dân. Trong giao thông vận tải, mở rộng các mạng
lưới đường bộ, đường sắt, đường sơng, đường biển được xây dựng, củng cố,
hồn thiện, đã phục vụ đắc lực cho yêu cầu giao lưu kinh tế và củng cố quốc
phịng. Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế có bước phát triển và tiến bộ đáng
kể. Vấn đề văn hóa - tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
được đặc biệt coi trọng. Về giáo dục, so với năm học 1960 - 1961, số học sinh
phổ thông năm học 1964 - 1965 tăng từ 1,9 triệu lên 2,7 triệu, số trường đại
học tăng gấp đơi. Có 9000 trường các cấp và 2.6 triệu học sinh.
Bên cạnh đó, miền Bắc cịn làm nghĩa vụ hậu phương, chi viện cho Miền
Nam. Trong 5 năm, một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, thuốc men,...được
chuyển vào chiến trường. Ngày càng có nhiều đơn vị vũ trang, nhiều cán bộ
qn sự, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế được huấn luyện đưa vào chiến
trường tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng vùng giải phóng.
Tuy kế hoạch 5 năm lần thứ nhất mắc một số sai lầm chủ yếu do tư tưởng chủ
quan nóng, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, khơng tính đến khả năng thực
hiện và điều kiện cụ thể của đất nước nhưng những thành tựu để lại đã đưa
miền Bắc nước ta tiến những bước dài chưa từng thấy. Đến ngày 5/8/1964 Mỹ
mở chiến dịch bắn phá miền Bắc sau khi dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc bộ, từ
đây miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển và không thể tiếp tục
thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965).
5. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Mỹ, tăng cường chi viện cho miền Nam (1965-1968)
Ngày 1/11/1968, Mỹ kết thúc ném bom hoàn toàn chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất ở miền Bắc. Hịa bình được lập lại ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ đã
chủ trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế,
phát triển văn hóa, chăm lo đời sống nhân dân, ra sức chi viện cho tiền tuyến
ở miền Nam. Miền Bắc tiến hành khôi phục mọi hoạt động sản xuất và đời
sồng trở lại bình thường. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp nhanh
10
chóng được phục hồi. Các cơng trình cơng cộng được sửa chữa và làm mới.
Cầu cống, đường sắt, nhất là các tuyến đường chiến lược được khẩn trương
khôi phục. Văn hóa, giáo dục, y tế được phục hồi, đời sống nhân dân ổn định.
Kinh tế địa phương và kinh tế trung ương được đẩy mạnh. Trong nơng nghiệp
ta có một số chủ trương khuyến khích sản xuất, chăn ni. Các hợp tác xã tích
cực áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật thâm
canh tăng vụ. Nhiều giống lúa mới được đưa vào trồng cấy trên một diện tích
rộng. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu, 5 tấn/1 héc ta, một số hợp
tác xã đạt 6 - 7 tấn. Trong công nghiệp, ta ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp những
công trình đang làm dở để nhanh chóng đưa vào hoạt động như Nhà máy điện
thác Bà.... Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng như: điện,
than, cơ khí, vật liệu, xây dựng.... giá trị sản lượng cơng nghiệp năm 1971
tăng 142% so với năm 1968.
Từ ngày 6/4/1972, một tuần sau khi quân ta ở miền Nam bắt đầu cuộc tiến
công chiến lược, Mỹ cho không quân và hải quân đánh giá một số nơi thuộc
khu IV cũ. Ngày 16/4/1972, Níchxơn tuyên bố chính thức bắt đầu cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Đến ngày 9/5/1972, Nichxơn lại tuyên
bố tăng cường, mở rộng qui mô đánh phá và phong toả cảng Hải Phòng cùng
các cửa sông, luồng lạch, vùng biến miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Níchxơn đã vượt xa cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất về qui
mô, tốc độ và cường độ đánh phá nhất là đã sử dụng một cách phổ biến, tập
trung các loại máy bay hiện đại nhất, như B52, F11 với ý đồ cứu vãn thất bại
của chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh và tạo thế mạnh trên bàn đàm
phán ở Pari. Tuy nhiên nhờ sự chuẩn bị trước, quân dân miền Bắc đã giành
thế chủ động, kịp thời chống trả và giành thắng lợi giòn giã ngay từ đầu.
Kinh tế miền Bắc một lần nữa chuyển hướng, các hoạt động sản xuất và xây
dựng không bị ngừng trệ, giao thông vận tải đảm bảo thông suốt, các hoạt
11
động khác của đời sống xã hội như: văn hóa, giáo dục, y tế vẫn được duy trì
và phát triển.
Khơng đạt được mục tiêu mong muốn, cuối năm 1972 Mĩ tăng cường hơn nữa
hoạt động chiến tranh chống phá miền Bắc. Ngày 14/12/1972, chính quyền
Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52
đánh Hà Nội và Hải Phòng, với mưu toan gây cho nhân dân ta những thiệt hại
về người và của đến mức khơng chịu đựng nổi phải khuất phục. Cuộc tập kích
24/24 giờ trong ngày, bắt đầu từ 18/12/1972 đến 29/12/1972. Trong 12 ngày
đêm Mĩ đã rải xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu phía Bắc vĩ
tuyến 20 một khối lượng bom đạn 10 vạn tấn (riêng Hà Nội 4 vạn tấn) với sức
công phá bằng 5 quá bom nguyên tử ném xuống Nhặt Bản năm 1945. Nhờ
đoán được âm mưu của địch, từ đó có sự chuẩn bị tốt về tư tưởng và tổ chức,
lực lượng và phương tiện, quân dân ta ở miền Bắc đã đánh trả địch những địn
đích đáng từ trận đầu và đã đánh bại hồn tồn cuộc tập kích chiến lược làm
nên trận “Điện Biên Phủ trên khơng”. Ngày 30/12/1972, Chính phủ Mĩ tuyên
bố ngừng mọi hoạt động chống phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, và đến
ngày 15/1/1973 thì tuyên bố ngừng hoàn toàn các hoạt động chống phá miền
Bắc để ký với Chính phủ ta Hiệp định Paris. Quân dân miền Bắc đã bắn rơi
gần 740 máy hay các loại, cùng với hàng trăm giặc lái bị loại khỏi vòng chiến
đấu.
Trong 3 năm (1969-1971), hàng chục vạn thanh niên miền Bắc được gọi nhập
ngũ, có 60% số đó lên đường bổ sung cho các chiến trường ở miền Nam và cả
Lào, Campuchia. Khối lượng vật chất đưa vào chiến trường tăng lên gấp 1.6
lần so với 3 năm trước đó. Mặc dù chiến tranh phá hoại của Mỹ nhưng miền
Bắc vẫn chi viện cho chiến trường miền Nam và cả Lào, Campuchia.
12
II. Phần liên hệ thực tiễn
1. Ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc giai đoạn 1954 đến 1975 đã mang lại những thắng lợi, thành tựu to lớn
đóng góp vào cơng cuộc chống giặc ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho
dân tộc ta. Những thành quả đó đến nay vẫn cịn ngun giá trị và là nền tảng,
động lực cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất là cải tạo các thành phần kinh tế, thừa nhận các thành phần kinh tế
phát triển bình đẳng phù hợp trong nền kinh tế Việt Nam. Trong nền kinh tế
quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại và phát triển của
nhiều chế độ tư hữu, chế độ sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là nhu cầu
khách quan. Các ngành kinh tế và các thành phần của nền kinh tế quốc dân có
vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng đất nước avf bảo
vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã định hướng, xây dựng
và hồn thiện hệ thống kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và nguồn lwucj Nhà nước để hướng
dẫn, điều tiết kinh tế. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu của nhân dân, thay mặt
nhân dân quản lý, kinh doanh và sự dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tài sản
thuộc sở hữu toàn dân, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phân fkinh tế phát
triển, phù hợp mới mục tiêu chung là phát triển các thành phần kinh tế.
Thứ hai, Nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh
tế tư nhân phát triển. Chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước đang hướng
tới việc tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân đổi mới và phát triển mạnh
hơn. Chính phủ cam kết sẽ cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng bình
đẳng, minh bạch, an tồn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp
khởi nghiệp phát triển thuận lợi. Bên cạnh đó, khu vực tư nhân cũng luôn đổi
13
mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững trên thị trường và hoạt động
theo cơ chế thị trường.
Thứ ba, Nhà nước xem thành phần tư nhân là động lực phát triển. Sau gần 30
năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm phát triển và coi trọng các thành phần
kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức
được vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân trong chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Nhờ vậy, kinh tế tư nhân không ngừng lớn mạnh, trở thành
một trong những nhân tố chính tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân
là nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao,
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng
loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển
nguồn nhân lực,… Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, góp
phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu
ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an
sinh xã hội.
Thứ tư là huy động khối đoàn kết dân tộc tham gia vào công cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành di
sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Bất luận trong
hoàn cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi
khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong đấu tranh giải phóng
dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là
truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền
thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí
độc lập, tự chủ của dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến
14
thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng
cường thịnh. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được nhân lên gấp
bội khi ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân
được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ln
xác định đại đồn kết tồn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở
thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là
điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bài
học kinh nghiệm này còn nguyên giá trị và cần tiếp tục phát huy nhằm khơi
dậy sức mạnh to lớn của tồn dân tộc thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới
vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Trách nhiệm của bản thân đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc
Lịch sử qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, biết bao kẻ thù lớn mạnh
xâm lược đất nước ta nhưng đều chịu chung một kết cục thất bại. Một dân tộc
“nhỏ bé” có thể đánh đuổi hai “cường quốc” là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất
nước. Làm được điều đó, có biết bao người con của dân tộc đã ngã xuống,
bao người phải hi sinh xương máu để có một đất nước Việt Nam tươi đẹp như
ngày nay. Thanh niên là lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột
của nước nhà vì vậy có vai trị to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Là
một sinh viên muốn đóng góp cho nước nhà, trước hết tơi biết mình cần phải
cần tự giác, phát huy tinh thần học tập, rèn luyện cả về trí tuệ lẫn đạo đức để
hồn thiện bản thân mình một cách tốt nhất, góp phần nâng cao trình độ mọi
mặt đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh hội nhập
thế giới, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lôi kéo, dụ dỗ vào các
hoạt động gây rối, biểu tình gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn
15
xã hội, kiên quyết giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định để hội nhập và phát
triển đất nước. Bên cạnh đó, trách nhiệm của cơng dân đối với đất nước là
trách nhiệm quan tâm, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết, cùng nhau xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc. Khơng chỉ vậy, chúng ta cần có nhận thức đúng đắn về
việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc, hiểu rõ tầm quan trọng của đất nước đối với
bản thân mình, phải ln biết u thương và giúp đỡ những người xung
quanh, có như vậy mới xứng đáng là một công dân gương mẫu. Ngày nay,
tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh, chúng ta phải luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và xã
hội chủ nghĩa, nêu cao tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân
tộc, đưa Việt Nam ngày càng phát triển trên bản đồ thế giới.
C. KẾT LUẬN
Giai đoạn 1954-1975, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, tồn dân đã tích cực tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước với tinh
thần quả cảm, chiến đấu hết mình giành thắng lới để giải phóng miền Nam
cùng với đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đảng đã vô cùng khéo
léo kết hợp lực lượng tiền tuyến và hậu phương để mang lại những chiến
thắng vẻ vang cho dân tộc. Trong công cuộ xây sựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc tuy còn nhiều khó khăn nhưng vẫn mang lại những thành tựu đáng kể, tạo
động lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện tại và tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, TS Lê Huy Vịnh, 2021
/>16
2. Kinh tế tư nhân: Động lực quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam,
2018
/>3. Những thành quả và ý nghĩa của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 ?
/>4. Tình hình Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ 1954 và nhiệm vụ cách mạng
trong thời kì mới (1954 - 1975), 2017
/>fbclid=IwAR1KIo2X6dLy2XVKHGFsxxO6UQ_JKUyXqZ4LwCMqps5K9c
xiZUD0Z2H8R0w
17