TỈ LỆ THÀNH CÔNG VÀ CHẤT LƢỢNG
ĐẶT CATHETER TĨNH MẠCH TRUNG ƢƠNG
TỪ CÁC VỊ TRÍ NGOẠI BIÊN KHÁC NHAU
Đặng Lê Ánh Châu, Trần Ngọc Bích Tuyền, Nguyễn Thị Ngọc Linh
Cam Ngọc Phượng, Hồ Tấn Thanh Bình
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Đặt catheter tĩnh mạch trung ương từ ngoại biên được áp dụng tại khoa
Hồi sức sơ sinh Nhi Đồng I từ năm 2006, là một kỹ thuật cần thiết trong chăm sóc
sơ sinh ở trẻ sanh non nhẹ cân, trẻ hậu phẫu dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa cần dinh
dưỡng tĩnh mạch dài ngày. Từ năm 2010, chúng tôi áp dụng bảng kiểm để quản lý
chất lượng catheter trung ương đặt từ vị trí ngoại biên. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ
thành công và chất lượng đặt catheter tĩnh mạch trung ương từ các vị trí ngoại biên
khác nhau.
Phƣơng pháp: Mơ tả hàng loạt ca, có phân tích tất cả trẻ sơ sinh được đặt catheter
tĩnh mạch trung ương từ tháng 3/2010 đến tháng 4/2011.
Kết quả: Nghiên cứu gồm 143 trẻ với tuổi thai trung bình 33,4 ± 3,4 tuần, cân nặng
lúc sanh trung bình 2118 ± 888 gr, ngày tuổi trung bình lúc đặt catheter 13,2 ± 9,6
ngày. Tỉ lệ đặt thành công là 72,0% với 4 yếu tố liên quan (p < 0,05) là cân nặng lúc
sanh, ngày tuổi, ngày nằm viện và thời gian đặt. Thời gian lưu catheter trung bình
19,1 ± 7,0 ngày với tổng số ngày sử dụng là 1963 ngày. Có 3 vị trí ngoại biên được
sử dụng để đặt catheter trung ương từ ngoại biên: tay (32,0%), chân (19,4%), tĩnh
mạch thái dương ở đầu (49,5%). Khơng có sự khác biệt về biến chứng trong và sau
khi đặt catheter trung ương từ 3 vị trí này. Tỉ lệ nhiễm trùng huyết liên quan đến
catheter là 3,5/1000 ngày catheter.
Kết luận: Tỉ lệ đặt thành công catheter trung ương từ ngoại biên là 72% với 4 yếu
tố liên quan là cân nặng, ngày tuổi, ngày nằm viện và thời gian đặt. Vị trí tĩnh mạch
thái dương là 1 vị trí tốt như ở tay và chân. Thời gian lưu catheter trung bình là 19,1
± 7,0 ngày. Tỉ lệ nhiễm trùng liên quan đến catheter giảm. Cần chỉ định đặt catheter
sớm và có kế hoạch dự phịng tĩnh mạch. Áp dụng bảng kiểm quản lý chất lượng
catheter có thể giúp giảm nguy cơ đặc biệt nhiễm trùng huyết liên quan catheter.
SUCCESS RATE AND QUALITY OF PERIPHERALLY INSERTED
CENTRAL CATHETER FROM DIFFERENT POSITIONS
ABSTRACT
BACKGROUND: The peripherally inserted central catheter (PICC) has applied in
NICU No1 since 2006, an integral part of routine practice in care of premature
infants and neonates with congenital intestinal defects who need long term
parenteral nutrition. From 2010 we use the checklist to control the quality of PICC.
OBJECTIVE: Determine success rate and quality of peripherally inserted central
catheter from different position. METHODS: A case series study, analyse all
neonates inserted central line catheter from 3/2010 to 4/2011. RESULTS: There
were 143 neonates with GA is 33.4 ± 3.4 ws, BW is 2118 ± 888gr, days-old inserted
central line is 13.2 ± 9.6 days. Successful rate is 72.0% with 4 concered factors are
BW, days old, time of procedure and length of stay. PICCs were left in 19 ± 7.0
days with total left days were 1963. Catheters were placed from 3 positions of
peripheral vein: arm (32.0%), leg (19.4%), superficial temporal vein (49.5%). There
is no difference of complications between before and post procedure from those
positions. Catheter associated bloodstream infection occurred 3.5/1000.
CONCLUSION: Success rate was 72.0%. There is association among birthweight,
days old, time of procedure and length of hospital stay. Temporal vein is a position
for placing catheter as well as arms or legs. PICCs were left in 19 ± 7.0 days.
Infections relate to catheter reduced. PICC should place soon. The checklist may
help reducing risk of catheter related infections.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỹ thuật đặt catheter tĩnh mạch trung ương từ ngoại biên đã được thực hiện
tại Khoa Hồi sức Sơ sinh từ năm 2006. Ngày càng có nhiều trẻ sanh non nhẹ cân
được cứu sống, và nhiều dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa có thể phẫu thuật, vì vậy
nhu cầu tiếp cận đường truyền tĩnh mạch kéo dài càng tăng. Sau 4 năm áp dụng
chúng tôi nhận thấy sự thành công của kỹ thuật này phụ thuộc vào nhiều yếu tố; có
nhiều vị trí ngoại biên đặt được catheter trung ương, từng vị trí có những điểm
thuận lợi và khó khăn khác nhau.
Cũng như những kỹ thuật xâm lấn khác, kỹ thuật này cũng có nhiều nguy cơ
như là sai vị trí, nghẹt, xuất huyết và đặc biệt là nhiễm trùng huyết liên quan đến
catheter [3, 4]. Việc sử dụng ngày càng nhiều catheter trung ương thì nguy cơ xảy ra
càng nhiều do đó việc quản lý chất lượng để giảm thiểu các biến chứng cần được
quan tâm [5]. Từ năm 2010, khoa Hồi sức sơ sinh chúng tôi đã thiết lập một bảng
kiểm quản lý chất lượng catheter trung ương và bảng kiểm này được áp dụng cho tất
cả các trường hợp tiến được tiến hành đặt catheter trung ương từ ngoại biên. Chăm
sóc điều dưỡng thích hợp, bao gồm kiểm soát nhiễm trùng, cố định catheter chắc
chắn, và thay băng khi cần thiết có thể giúp ngăn ngừa biến chứng và duy trì
catheter cho đến khi quá trình điều trị được hồn tất. Do đó chúng tơi thực hiện đề
tài này nhằm xác định tỉ lệ thành công và chất lượng đặt catheter tĩnh mạch trung
ương từ ngoại biên theo các vị trí khác nhau tại Khoa Hồi sức sơ sinh từ tháng
3/2010 đến 4/2011.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Xác định tỉ lệ thành công và chất lượng đặt catheter tĩnh mạch trung ương từ
các vị trí ngoại biên khác nhau tại Khoa Hồi sức sơ sinh sau khi xây dựng và áp
dụng bảng kiểm (tỷ lệ đặt thành công catheter tĩnh mạch trung ương từ ngoại biên
và một số yếu tố liên quan; thời gian lưu và tỉ lệ các biến chứng trong và sau khi đặt
catheter theo vị trí).
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mơ tả hàng loạt ca tất cả trẻ sơ sinh nhập Khoa Hồi sức sơ sinh có
chỉ định đặt catheter tĩnh mạch trung ương từ ngoại biên trong thời gian từ 3/2010
đến 4/2011. Trẻ được đặt thành công nghĩa là đặt được catheter trung ương từ chích
2
tĩnh mạch đường ngoại biên, thất bại nghĩa là không đặt được catheter trung ương
hoặc đặt được bằng phương pháp khác như là bộc lộ tĩnh mạch hoặc chích tĩnh
mạch lớn, tĩnh mạch trung ương (tĩnh mạch cảnh, tĩnh mạch dưới đòn).
Tất cả trẻ khi được tiến hành đặt catheter trung ương từ ngoại biên đều phải
tuân thủ theo bảng kiểm quản lý chất lượng catheter trung ương từ ngoại biên [4, 5]:
Đặt catheter:
Chọn vị trí TM lớn, dễ thấy.
Sát trùng vị trí cần đặt catheter lần 1.
Rửa tay đúng kỹ thuật. Nhân viên mang khẩu trang, đội nón, mặc áo vô trùng
Trải khăn vô trùng che trẻ.
Kỹ thuật đặt vơ trùng: Sát trùng da lần 2 trước khi chích với dung dịch
Chlorhexidine 2% trong 30 giây, chờ khơ.
Chăm sóc catheter:
Chỉ thay băng khi cần thiết (nếu ướt)
Dùng dây nối có khóa. Khơng kẹp trực tiếp trên catheter.
Dùng ống chích 5 cc khi cần bơm dịch.
Không truyền máu hoặc lấy máu thử xét nghiệm thường quy qua catheter.
Không quấn băng đo huyết áp, không lấy máu tĩnh mạch từ chi có đặt PICC.
Truyền dịch pha và thuốc trong mơi trường vô trùng.
Thay dịch pha, dây truyền mỗi 24 giờ. Sử dụng kỹ thuật vô trùng khi thay dây và
dịch. Sát trùng chổ nối với dung dịch Chlorhexidine 2% ít nhất 15 giây, và chờ khơ
khi thay dây
Mở PICC càng ít lần càng tốt.
Rút PICC khi nuôi ăn qua đường tiêu hóa > 120ml/kg/ngày
Đánh giá
Kiểm tra vị trí tiêm (sưng, đỏ)
Kiểm tra chi (phù, đỏ) mỗi 4 – 8 giờ.
Kiểm tra băng mỗi 4 – 8 giờ.
Thủ thuật được tiến hành bởi điều dưỡng khoa Hồi sức sơ sinh, catheter sử
dụng là catheter kích thước 1F.
Thu thập số liệu theo bảng thu thập số liệu. Nhập và xử lý số liệu bằng phần
mềm thống kê SPSS.
4. KẾT QUẢ
Từ tháng 3/2010 đến tháng 4/2011, chúng tôi nhận vào nghiên cứu tổng cộng 143
trẻ có chỉ định đặt catheter tĩnh mạch trung ương.
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu
Tuổi thai (tuần)
CNLS (gr)
Ngày tuổi (lúc đặt catheter)
Số ngày nằm viện (lúc đặt catheter)
33,4 ± 3,4 (25 – 42)
2118 ± 888 (600 – 5700)
13,2 ± 9,6 (2 – 60)
11,8 ± 9,4 (1 – 60)
3
Bảng 2: Tỉ lệ đặt catheter trung ƣơng từ ngoại biên thành công
Thành công
Thất bại
Số ca (%)
40 (28,0%)
103 (72,0%)
Tay
Chân
Thái dương Khơng chích
Khơng tìm
được TM
thấy TM
33 (32,0%) 19 (18,4%) 51 (49,5%) 20 (50,0%)
20 (50,0%)
Bảng 3: Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ đặt catheter tĩnh mạch trung ƣơng từ
ngoại biên thành công
Tuổi thai (tuần)
CNLS (gr)
Ngày tuổi (lúc đặt catheter)
Số ngày nằm viện (lúc đặt catheter)
Thời gian đặt (phút)
Tổng số ca
Thành công
33,0 ± 3,8
1984 ± 815
11,0 ± 7,7
10,2 ± 7,9
27,2 ± 27,1
103
Thất bại
33,4 ± 4,0
2464 ± 980
18,8 ± 11,8
16,2 ± 11,5
82,0 ± 50,0
40
t test
p = 0,554
p = 0,003
p = 0,000
p = 0,000
p = 0,000
Bảng 4: Thời gian lƣu catheter trung bình và tổng số ngày sử dụng catheter
theo vị trí đặt
Tổng số ngày lưu
catheter
Thời gian lưu catheter
trung bình (ngày)
Tổng số ca
Tay
635
Chân
327
Thái dƣơng
1001
Chung
1963
19,2 ± 6,7
17,2 ± 6,3
19,6 ± 7,4
19,1 ± 7,0
51
103
33
19
t test p > 0,05
Bảng 5: Các khó khăn và biến chứng trong khi đặt catheter theo vị trí
Tay
Chân
Thái dƣơng
Chung
Đau
5 (15,2%)
2 (10,5%)
9 (17,6%)
16 (15,5%)
Chảy máu
6 (18,2%)
4 (21,1%)
5 (9,8%)
15 (14,6%)
Khó luồn catheter
9 (27,3%)
5 (26,3%)
9 (17,6%)
23 (22,3%)
Sai vị trí
1 (3,0%)
2 (3,9%)
3 (2,9%)
0 (0%)
12 (36,4%)
8 (42,1%)
19 (37,2%)
39 (37,9%)
Có biến chứng
2
X test p > 0,05
4
Bảng 6: Các biến chứng sau khi đặt catheter theo vị trí
Nghẹt catheter
Phù thốt dịch
Tuột catheter
Nhiễm trùng huyết
cấy máu (+)
Nhiễm trùng huyết
Có biến chứng
Tay
0 (0%)
3 (9,1%)
1 (3,0%)
0 (0%)
2 (6,1%)
6 (18,2%)
Chân
0 (0%)
3 (15,8%)
0 (0%)
1 (5,3%)
3 (15,8%)
6 (31,6%)
2
X test p > 0,05
Thái dƣơng
0 (0%)
3 (5,9%)
2 (3,9%)
0 (0%)
Chung
0 (0%)
9 (8,7%)
3 (2,9%)
1 (1,0%)
2 (3,9%)
7 (13,7%)
7 (6,8%)
20 (19,4%)
5. BÀN LUẬN
Tỉ lệ đặt thành công catheter trung ương từ ngoại biên trong nghiên cứu của
chúng tôi là 78%, thấp so tác giả Bulbul và cộng sự (88,5%) [1]. Phân tích trong
nhóm thất bại chiếm tỉ lệ 22%, chúng tơi nhận thấy có 2 nhóm ngun nhân chính là
khơng tìm thấy tĩnh mạch hoặc khơng chích được tĩnh mạch. Đối với nhóm khơng
tìm thấy tĩnh mạch, hầu hết trẻ đã bị chích tất cả các tĩnh mạch ngoại biên dẫn đến
tình trạng các tĩnh mạch ngoại biên đều hư hoặc bể khơng thể chích và luồn
catheter. Đây là nhóm nguyên nhân có thể giải quyết được. Các trẻ tiên lượng dinh
dưỡng tĩnh mạch kéo dài cần được thảo luận trong nhóm điều dưỡng chăm sóc để
có kế hoạch thực hiện catheter trung ương sớm và nhất thiết phải dự phòng đường
tĩnh mạch ngoại biên để thực hiện thủ thuật. Nếu chúng ta để dành các tĩnh mạch
lớn như tĩnh mạch nền hoặc tĩnh mạch hiển còn nguyên vẹn, khả năng đặt thành
công sẽ cao. Dự kiến sẽ đặt catheter trung ương vào vài ngày tới thì điều dưỡng nên
tránh chích tĩnh mạch, tránh lấy máu ở những vị trí này. Thực hiện tốt điều này có
thể giúp cải thiện tỉ lệ thành cơng. Đối với nhóm khơng chích được tĩnh mạch, cần
nâng cao kỹ năng của điều dưỡng thực hiện. Ngồi ra chọn tĩnh mạch đúng có thể
cải thiện tỷ lệ thành công đặt PICC. Đơn giản là chúng ta nên chọn tĩnh mạch lớn
nhất hoặc dễ thấy nhất sẽ giúp đặt catheter thành cơng.
Có 3 vị trí được dùng để đặt catheter trung ương là tay, chân và đầu. Trong
nghiên cứu chúng tơi, vị trí tĩnh mạch thái dương ở đầu chiếm tỉ lệ cao nhất (49,5%)
trong khi vị trí chủ yếu theo y văn là ở tay [1, 2]. Một trong những lý do là do các
trẻ nhập khoa chúng tôi phần lớn các tĩnh mạch ở tay chân đều đã sử dụng, hư hoặc
bể, do đó chỉ cịn vị trí tĩnh mạch ở đầu còn nguyên vẹn. Đồng thời tỉ lệ này còn cho
thấy vị trí tĩnh mạch thái dương có thể sử dụng tốt để đặt catheter vào trung ương.
Nghiên cứu chúng tôi đánh giá sự liên quan giữa đặt thành công với 5 yếu tố:
tuổi thai, cân nặng lúc sanh, ngày tuổi, ngày nằm viện, và thời gian đặt. Yếu tố tuổi
thai khơng tìm thấy sự khác biệt giữa 2 nhóm thành công và thất bại. 4 yếu tố cân
nặng, ngày nằm viện, ngày tuổi và thời gian đặt liên quan có ý nghĩa thống kê với
yếu tố thành cơng. Nhóm đặt thành cơng có cân nặng lúc sanh thấp hơn so với
nhóm thất bại. Có thể giải thích do 2 lý do là trẻ nhẹ cân có thể quan sát thấy tĩnh
mạch dễ dàng hơn, và những trẻ này thường được chuyển đến chúng tôi sớm hơn.
5
Ngày tuổi và ngày nằm viện ở nhóm thành cơng lần lượt là 11,0 ± 7,7 và 10,2
± 7,9 ngắn hơn so với nhóm thất bại (18,8 ± 11,8 và 16,2 ± 11,5) (p=0,000). Thời
gian điều trị càng dài trước thời điểm đặt catheter trung ương, số tĩnh mạch đã được
sử dụng càng nhiều càng làm giảm khả năng chích và luồn catheter từ ngoại biên
thành công. Thời điểm đặt của y văn đa phần trước 15 ngày [2]. Do đó cần tiên
lượng sớm ở trẻ cần dinh dưỡng dài ngày, đặc biệt ở nhóm trẻ khó chích và tiến
hành đặt catheter sớm hơn.
Thời gian đặt được tính từ lúc bắt đầu tiến hành chích tĩnh mạch (sau khi đã
chuẩn bị bệnh nhân, dụng cụ, sát trùng vùng thủ thuật) đến khi thủ thuật kết thúc (có
lưu hoặc khơng lưu được catheter). Nhóm thành cơng có thời gian đặt ngắn hơn
nhóm thất bại (27,2 ± 27,1 so với 82,0 ± 50,0). Thời gian đặt càng dài, nguy cơ có
thể xảy ra nhiều hơn đặc biệt điều kiện vô trùng không đảm bảo. Đề nghị của chúng
tôi là không nên kéo dài thủ thuật quá lâu 60 phút. Nếu thất bại nên chọn 1 phương
pháp tiếp cận khác. Tất cả trường hợp thất bại trong nghiên cứu chúng tôi đều đặt
được catheter trung ương qua bộc lộ tĩnh mạch hoặc chích tĩnh mạch lớn (cảnh hoặc
dưới đòn).
Thời gian lưu catheter trung bình của nghiên cứu chúng tơi là 19,1 ± 7,0 ngày
với tổng số ngày sử dụng là 1963 ngày. Thời gian lưu này thấp so với nghiên cứu
của chúng tôi năm 2006 (21 ngày) do chỉ định đặt catheter trung ương rộng rãi hơn
do hiệu quả đạt được. Tỉ lệ dùng catheter < 7 ngày chỉ là 7,8% (8/103), đây là tỉ lệ
chấp nhận được. Những trẻ có thời gian lưu ngắn do 1 trẻ diễn tiến tốt, dinh dưỡng
tiêu hóa hồn tồn sớm, 7 trẻ cịn lại tử vong. Giữa 3 nhóm vị trí tĩnh mạch ngoại
biên, thời gian lưu trung bình là khơng có sự khác biệt.
Khó khăn và biến chứng trong khi đặt gồm đau (trẻ quấy khóc, bứt rứt, cần sử
dụng giảm đau), khó luồn, chảy máu và sai vị trí. Tính chung trẻ có khó khăn hoặc
biến chứng trong khi đặt giữa 3 nhóm vị trí tay, chân, đầu thì khơng tìm thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên chúng tơi nhận thấy chích ở vị trí đầu và
tay có tỉ lệ trẻ đau nhiều hơn (17,6% và 15,2%) so với chân (10,5%). Vị trí ở tay,
chân có chảy máu (18,2% và 21,1%) và khó luồn (27,3% và 26,3%) nhiều hơn vị trí
ở đầu (9,8% và 17,6%) do tĩnh mạch ở tay chân là tĩnh mạch lớn nhưng khi luồn
trung ương có thể vướng ở nách hoặc bẹn. Luồn catheter từ chân khơng có trường
hợp nào sai vị trí. Theo tác giá Haase, đặt catheter trung ương từ vị trí chân vào
đúng vị trí trung ương cao hơn so với từ vị trí tay (p < 0,01) [3].
Các biến chứng sau khi đặt gồm nghẹt catheter, phù thoát dịch, tuột catheter,
nhiễm trùng huyết. Nghiên cứu tác giả Bulbul hầu như khơng có biến chứng nghiêm
trọng, chỉ gặp biến chứng tắc nghẽn 12,7% trong 139 trường hợp [1]. Khơng có
trường hợp nào nghẹt catheter được ghi nhận trong nghiên cứu chúng tôi dù trong
tất cả trường hợp đều sử dụng catheter 1F. Chúng tôi không sử dụng heparin khi lưu
catheter mà chỉ duy trì bằng truyền dịch liên tục, khơng ngắt qng, và sử dụng
nghiệm pháp “pop-up” khi có tình trạng nghẹt tạm thời. Phù thoát dịch được ghi
nhận ở cả 3 vị trí. Trẻ có biểu hiện sưng phù ± đỏ vùng nách, tay (chích vị trí tay),
vùng bẹn, bìu, chân (chích vị trí chân), vùng vai, cổ (chích vị trí đầu). Tuột catheter
xảy ra 3 trường hợp ở tay và đầu, cần lưu ý cố định catheter chắc và theo dõi vị trí
catheter.
Chúng tơi ghi nhận có 1 trường hợp cấy máu rút qua catheter dương tính ở vị
trí chân, đây cũng là vị trí được ghi nhận khó giữ vệ sinh nhất. Tỉ lệ nhiễm trùng
huyết liên quan đến catheter là 3,5/1000 ngày catheter. Tỉ lệ này giảm so với năm
6
2006 tại khoa chúng tôi là 7,5/1000 ngày catheter. Nhiễm trùng huyết từ catheter
trung ương (Central line associated blood stream infections, CLABSIS) là một
nguyên nhân quan trọng gây tăng tỷ lệ tử vong của bệnh nhân. Nhiễm trùng này có
thể phòng ngừa được, ngay cả ở trẻ sơ sinh, là nhóm trẻ có nguy cơ nhiễm trùng cao
hơn ở trẻ lớn và người lớn [5]. Phòng ngừa tiên phát bao gồm hạn chế đặt catheter,
điều này thường không thể thực hiện ở trẻ sanh non, và trẻ bệnh nặng. Trong khi đó,
chiến lược phịng ngừa thứ phát, nhấn mạnh đến cải thiện kỹ thuật, và giáo dục lâm
sàng về kỹ thuật đặt và lưu đường truyền, thì có thể thực hiện được ở trẻ sơ sinh.
Cải thiện chất lượng đa vị trí (Multi-site quality improvement, QI) là một phương
thức hiệu quả tăng thêm sự chú ý của nhân viên và tập trung vào thực hiện lâm sàng
được chứng minh là “thực hành tốt nhất” [5]. Từ năm 2010, chúng tôi đã áp dụng
bảng kiểm quản lý chất lượng cho tất cả các trường hợp đặt catheter trung ương
trong đó việc rửa tay kỹ lưỡng, kỹ thuật đưa catheter vào vô trùng, sát trùng ba chia,
chổ nối catheter với dung dịch sát khuẩn và chờ khô trước khi nối vào catheter trung
ương, hình thành nhóm nhân viên chun đặt catheter là những yếu tố góp phần
giảm thiểu nhiễm trùng bệnh viện từ catheter [4, 5].
6. KẾT LUẬN
Tỉ lệ đặt thành công catheter trung ương từ ngoại biên là 72% với 4 yếu tố liên quan
là cân nặng, ngày tuổi, ngày nằm viện và thời gian đặt. Vị trí tĩnh mạch thái dương
ở đầu là 1 vị trí tốt như ở tay và chân. Thời gian lưu catheter trung bình là 19,1 ± 7,0
ngày. Tỉ lệ nhiễm trùng liên quan đến catheter thấp (3,5/1000 ngày catheter). Cần
chỉ định đặt catheter sớm và có kế hoạch dự phịng tĩnh mạch. Áp dụng bảng kiểm
quản lý chất lượng catheter có thể giúp giảm nguy cơ đặc biệt nhiễm trùng huyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bulbul A, Okan F, Nuhoglu A. 2010, “Percutaneously inserted central
catheters in the newborns: a center's experience in Turkey”, J Matern Fetal
Neonatal Med, Vol 23 (6), 529 – 535.
2. Camargo PP, Kimura AF, Toma E, Tsunechiro MA. 2008, “Initial
peripherally inserted central catheter tip position in neonates”, Rev Esc
Enferm USP, Vol 42(4): 719 – 724.
3. Haase R, Kunze C, Wludyka B, Thäle V, Merkel N. 2010,” Malpositioning in
blindly inserted PICCs in neonates. Experience in 174 catheters”, Archives of
Perinatal Medicine, Vol 16(4), 187 – 193.
4. Paulson PR, Miller KM. 2008, “Neonatal peripherally inserted central
catheters: recommendations for prevention of insertion and postinsertion
complications”, Neonatal Netw, Vol 27(4), 245 – 257.
5. Wirtschafter DD, Pettit J, Kurtin P et al. 2010, “A statewide quality
improvement collaborative to reduce neonatal central line-associated blood
stream infections”, Journal of Perinatology, Vol 3, 170 – 181.
7